| 
																	   
																	25.
																				BỊ TỰ DO NGĂN NGẠI 
																			 
																	 
																	
 Một 
            thiền sinh mới nhập môn quen sống phóng túng theo kiểu “thiền du hí” 
            của anh từ lâu, nên không thể nào chấp nhận luật lệ quá nghiêm cẩn 
            của thiền viện. Anh nói:
 
																	- 
            Thiền là tự do giải thoát. Thiền giải phóng con người ra khỏi mọi 
            ràng buộc, vì sao thiền viện này giới luật khắt khe như 
            vậy?
 
																	Sư 
            nói:
 
																	- 
            Người thật sự tự do thì có thể ung dung trong ràng buộc, cho nên 
            ràng buộc tuy có mà không. Còn người không chịu nổi ràng buộc, vì 
            chưa đủ sức tự tại vô ngại, cho nên ràng buộc vốn không bỗng trở 
            thành ngăn ngại. Tiếc thay, chính anh đã bị tự do ngăn ngại mất 
            rồi!
 
																	۞ 
																		 
																	Lời 
																				góp ý:   
            
																		 
																	Có 
            hai thứ ngăn ngại:
 
																	- 
            Ngăn ngại bên trong là những sợi dây tự mình ràng buộc như chấp ngã, 
            hoài nghi, thủ trước, dục ái, hữu ái, phi hữu ái, sân hận, trạo cử, 
            vô minh, tật đố, xan tham, lười biếng 
            v.v...
 
																	- 
            Ngăn ngại bên ngoài là những ràng buộc trong điều kiện đời sống, 
            hoàn cảnh xã hội, không gian thời gian và những luật lệ khuôn phép 
            v.v...
 
																	Cũng 
            có hai loại tự do:
 
																	- 
            Tự do nội tại là tự do của người tự mình giải thoát ra khỏi những 
            ràng buộc của chính mình (loại ngăn ngại thứ nhất), không để cho vô 
            minh, ái dục và bản ngã sai sử, buộc ràng và ngăn 
            ngại.
 
																	- 
            Tự do ngoại tại là thứ tự do không muốn bị ràng buộc bởi điều kiện 
            xã hội, bất chấp luật lệ, tự tung tự tác, phóng túng tùy 
            tiện.
 
																	Đối 
            với những người đã được tự do bên trong thì những ràng buộc bên 
            ngoài không còn là điều kiện ngăn ngại, nên đối với họ “tự do là ung 
            dung trong ràng buộc”. Đó chinh là tự tại vô ngại 
            vậy.
 
																	Nhưng 
            đối với người mơ ước một đời sống tự do phóng túng bên ngoài thì tất 
            cả mọi điều kiện thực tế của cuộc sống đều trở nên ngăn ngại. Những 
            luật lệ khuôn phép đúng với hoàn cảnh xã hội thường không phải là 
            ràng buộc mà chính là tạo điều kiện cho một đời sống tương đối tự 
            do. Tự do bên ngoài luôn luôn là tự do tương đối, cho nên mơ ước một 
            sự tự do quá tuyệt đối giữa cuộc đời tương đối chính là tự ràng buộc 
            mình thêm.
 
																	Ví 
            như một người tự lấy giây trói chặt mình (loại ngăn ngại thứ nhất) 
            rồi lại muốn mang nguyên những trói buộc như thế mà đi lại tự do thì 
            càng bị ý muốn tự do đó hành hạ thêm. Đó là hạng người bị tự do ngăn 
            ngại vậy! 
																	 
																	 
																	 
																	 
																	 
																	 
																	 
																	 
																	 
																	 
																	 
																	
																		 
																		
																			  26. QUỞ TRÁCH THIỀN ĐỊNH
																	  
										
										
										 
										Một 
            thiền sinh quá tinh tấn tham thiền nhập định đến quên ăn bỏ ngủ. Sư 
            trách:
 
										- 
            Anh tham thiền chỉ thêm dục vọng, chẳng ích gì 
            đâu.
 
										Ít 
            hôm sau đi qua thiền đường, thiền sinh ấy thấy Sư đang dạy một số 
            hành giả về cách tọa thiền, anh tức giận hỏi:
 
										- 
            Hôm trước Thầy quở trách tham thiền sao hôm nay Thầy lại dạy tọa 
            thiền nhập định?
 
										Sư 
            mắng :
 
										- 
            Ta quở trách anh tham thiền chứ đâu có quở trách thiền 
            định.
 
										۞ 
											 
										Lời 
													góp ý:   
            
											 
										Thiền 
            định tự nó không sai, chỉ có người sử dụng nó sai mà thôi. Chỉ trích 
            thiền định là hồ đồ và ấu trĩ, vì thiền định có cái dụng của nó nếu 
            như sử dụng đúng thời, đúng chỗ, đúng căn cơ và đúng “pháp vị” của 
            nó.
 
										Có 
            người nghe các Thiền Sư nói: “ngồi thiền không thành Phật”, “chỉ lấy 
            đá đè cỏ”, “mài gạch thành gương”,... rồi thẳng tay tống khứ thiền 
            định ra khỏi thành trì tu tập! Nếu chấp thiền định làm cứu cánh thì 
            quả là không thể thành Phật, cao lắm chỉ đến Sắc Giới, Vô Sắc Giới 
            mà thôi. Nhưng thiền định được sử dụng thiện xảo lại là 
            “năng 
            sinh tuệ” và giải thoát ra được biết bao phiền não giữa cõi trần.  
										Sư 
            quở trách một thiền sinh vì anh ta quá ham mê thiền định đến nỗi bỏ 
            quên đời sống thực mà đáng lẽ anh ta phải thâm quán từng giây từng 
            phút. Thiền định như thế chỉ tự cô lập, giam hãm, ràng buộc mình và 
            tách mình ra khỏi dòng biến hóa của pháp giới tánh (Sabhàva - 
            dhammatà).
 
										Một 
            hôm Đức Phật  lấy một 
            sợi râu hạt lúa mì cầm lên và nói: “Này 
            các Thầy tỳ kheo, nếu như cầm không đúng hướng thì sợi râu này sẽ 
            không đâm thủng ngón tay. Cũng vậy, pháp mà Như Lai tuyên thuyết, 
            nếu như không hành đúng hướng, sẽ không đâm thủng vô minh ái 
            dục”.
 
										Đức 
            Phật không hoàn toàn tán dương thiền định, cũng không hoàn toàn bác 
            bỏ thiền định. Ngài dạy: 
            “Như Lai chỉ tán dương thiền định nào đoạn giảm bất thiện pháp (5 triền cái) và tăng trưởng thiện pháp (5 
													thiền chi), chứ 
            Như Lai không tán dương thiền định nào  tăng  trưởng  bất  thiện  pháp  và  đoạn  giảm thiện 
            pháp”.
 
										Bởi 
            thế người xưa có lý khi nói: 
										            
            Thật tế lý địa bất thọ nhất trần
 
										            
            Sự sự môn trung bất xả nhất pháp. 
										  
										
											
												
													 
													
												 
												    
											
										
										
 27.
														CỬA TRỜI RỘNG MỞ 
										 
										Chư 
            Thiên cõi trời Đao Lợi nhìn xuống cõi trần thấy nhiều người đau khổ, 
            động lòng từ liền bạch với vua trời Đế Thích:
 
										- 
            Tâu Bệ Hạ, xin Ngài rủ lòng từ bi mở cửa cho người trần được vào 
            thiên giới, như thế mọi người mới được công bằng bình 
            đẳng.
 
										- 
            Không được, nghiệp dĩ thế nào phải chịu như vậy mới gọi là công 
            bằng.
 
										Nhưng 
            Chư Thiên cứ tâu mãi nên Vua Trời đành cho mở 
            cửa.
 
										Chẳng 
            bao lâu Vua Trời phải triệu tập Chư Thiên để thành lập lực lượng 
            phòng chống tệ nạn xã hội và soạn thảo bộ luật hình sự.
  
										۞ 
											 
										Lời 
													góp ý:   
            
											 
										“Trí 
            không bi là trí thông minh điêu xảo
 
										  Bi không trí là bi thương 
            hảo thương quàng”
 
										Thật 
            vậy, nhiều người lầm tưởng tình thương dung tục được  phóng đại thành lòng từ bi. 
            Lòng từ bi và tình thương yêu chẳng có chút quan hệ nào với nhau cả, 
            thậm chí đôi khi còn trái ngược với nhau nữa là 
            khác.
 
										Từ 
            được chính thức định nghĩa là không sân, và bi là không hại. Một 
            người trong tâm không một mảy may hờn giận oán thù và không một manh 
            tâm ác ý làm hại bất cứ chúng sanh nào, người đó hẳn đã loại bỏ ra 
            ngoài ý niệm thường tình về thương và ghét. Thương và ghét là tâm 
            địa chúng sanh trong vòng bản ngã. Còn từ bi thật sự thì vô ngã, vô 
            lượng và vô cùng.
 
										Lòng 
            từ bi thâm sâu, quảng đại mà dường như dửng dưng lợt lạt 
            (Lão 
            Tử: tình thâm nhược đảm), lắm khi còn có vẻ như tàn nhẫn, vô tâm và bất động, nhưng như thế mới thật là lòng từ bi 
													vô hạn. Dường như tàn nhẫn vô tâm bởi vì như thế mới có thể sáng suốt nhìn thấy 
													chúng sanh chịu nhân quả nghiệp báo rành rành mà tâm không hề dao động. Trắc ẩn 
													xúc động chỉ có trong lòng những kẻ tình thường.  
										Vì 
            vậy từ bi không phải là ra tay cứu vớt người ác vào thiên đàng. Đó 
            là bi không trí. Từ bi của bậc trí là chỉ khai thị cho người ác biết 
            rõ nguyên nhân đau khổ mà họ tự làm ra. Nhưng ngay cả việc khai thị 
            cũng phải tùy căn duyên chứ không phải bất kỳ ai cũng khai thị 
            được.
 
										Đem 
            người ác vào thiên đàng đó là tình thương dung tục của kẻ ngu, vì 
            hậu quả tất nhiên là... thiên đàng dậy sóng. Thấy người ác gặt quả 
            khổ mà không một chút động lòng thương cảm của kẻ tình thường đó mới 
            là từ bi đầy trí tuệ, vì đã thấy rằng chính quả khổ dạy cho người ác 
            biết sai lầm của mình nên không để tình cảm chủ quan xen vào can 
            thiệp. Đó là một cách thể hiện lòng từ bi tự nhiên của pháp 
            (Thiên 
            Chúa giáo: Bác ái của Đức Chúa Trời).
 
										Đức 
            Chúa nói :”Hãy vác thập tự giá mà vào thiên đàng”. Nghĩa là 
            gánh chịu khổ đau chính là cách giải thoát ra khỏi khổ đau 
            vậy. 
										
												 
											
            
										   28.
													NẶNG KÝ 
												
										 
										 
										
												
											 
										Thấy 
            một tín đồ thường đến chùa bố thí, cúng dường học hỏi giáo lý, tu 
            tập thiền định rất siêng năng, Sư hỏi:
 
										- 
            Ông tinh tấn như vậy để cầu gì?
 
										- 
            Thưa Thầy, con muốn lập bồi công đức, cho đến khi phước huệ đầy đủ 
            hầu có thể đắc thành chánh quả.
 
										Sư 
            nói:
 
										- 
            Nếu vậy lúc thành chánh quả chắc ông phải nặng ký lắm!
  
										۞ 
											 
										Lời 
													góp ý:   
            
											 
										Hướng 
            tu hành chân chính không phải là cố gắng xây dựng cho mình thành một 
            con người lý tưởng tài năng đức độ. Không phải bồi đắp từng chút 
            công đức, sở tri và sở đắc cho đến khi hoàn thành “tác phẩm tuyệt 
            đối cuối cùng”.
 
										Chân, 
            thiện, mỹ cuả tự tánh pháp (Sabhavàdhammatà) vốn đã tự viên mãn (Tổ 
            Huệ Năng: 
            hà kỳ tự tánh bổn tự cụ túc), chẳng phải tầm cầu (bất luận 
            cầu chơn),chẳng cần thiết lập (chơn bất lập).Chỉ vì vọng khởi (vô minh ái dục)nên bản ngã sanh. Lấy 
													bản ngã mà hoàn thiện con người lý tưởng, quả vị lý tưởng thì cũng hoàn là bản 
													ngã. Đó chỉ là dục vọng của Tiểu ngã muốn trở thành Đại ngã của tư tưởng Bà Là 
													Môn.  
										Bản 
            ngã cùng với tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến và tất cả thuộc tính 
            khác của vô minh ái dục là nguyên nhân của tất cả luân hồi sinh tử, 
            phiền não khổ đau. Đó là thế giới mộng ảo huyễn hóa. Vì vậy tu hành 
            giống như tỉnh dậy giữa cơn ác mộng đêm trường, bỗng nhiên những vui 
            buồn sợ hãi tiêu tan và cái chân như tự tánh (yathàbhùtà) hiển hịên 
            toàn chân. Vì vậy Đức Phật dùng chữ “diệt” để diển tả Diệt đế 
            (chân tánh, Niết-bàn) khi Ngài dạy: “Pháp 
            Như Lai tuyên thuyết chỉ có nhất hướng viễn ly, ly tham, ly chấp, 
            đoạn xả, đoạn diệt, tịch tịnh, thắng  trí, giải thoát, 
            Niết-bàn”.
 
										Đoạn 
            diệt là điều mà bản ngã uý kỵ, nên nhiều người khi nghe nói đến đoạn 
            diệt thì vô cùng sợ hãi, vội vàng lên án là tiêu cực, tiểu thừa. 
            Nhưng tựu trung đoạn diệt chỉ là đoạn diệt chấp ngã chấp pháp cùng 
            với thuộc tính vô minh ái dục của nó mà thôi. Ví như người nhìn lầm 
            bụi  cây là bóng ma sinh 
            tâm sợ hãi. Khi nhìn kỹ thấy đó chỉ là bụi cây thì cả bóng ma lẫn sợ 
            hãi đều viễn ly, đoạn diệt. Kinh Viên Giác nói: 
            “Tri huyễn tức ly, ly huyễn tức giác”, và Lão Tử cũng nói: 
            “Vi đạo nhật tổn, tổn chi hựu tổn dĩ chí ư vô vi” (hành đạo ngày càng bớt, bớt rồi bớt nữa cho đến vô vi).  
										Vậy 
            tu hành không phải là bồi thêm cái ngã cho nặng ký mà chính là bớt 
            đi (ly, tổn, đoạn, diệt) tất cả mọi ràng buộc của vọng ngã để trở 
            lại bản lai diện mục xưa nay vốn đã tròn đầy. 
										
											  
										 
										  29.
														CON NGƯỜI THẬT
										
 Có 
            ông tăng thuyết pháp rất lưu loát nhưng giới hạnh rất bê bối. Những 
            người nghe pháp thì rất nể trọng pháp sư còn những người thấy đời 
            sống của ông thì không thể nào chịu phục.
 
										Được 
            hỏi về con người thật của vị pháp sư, thiền sư 
            nói:
 
										- 
            Con người thật nhập Niết bàn rồi.
  
										۞ 
											 
										Lời 
													góp ý:   
            
											 
										Khi 
            còn vô minh ái dục thì mỗi người đều có hai bộ mặt, đó là con người 
            thật và con người giả. Con người giả chính là vọng ngã, thủ đắc bởi 
            những yếu tố ngoại lai như ý niệm, tư tưởng, quan niệm, tình cảm từ 
            môi trường sống: hoàn cảnh xã hội, trường học,  gia đình, bè bạn,... Những 
            tập tính hay tập khí đó được huấn tập dần dần cho đến khi mình trở 
            thành... một 
            kẻ lạ mặt (từ của Albert Camus), càng ngày càng xa rời tự tánh, càng xa lạ với con người thật.  
										Con 
            người giả cũng không phải đơn thuần, anh ta vô cùng đa diện: khi thì 
            anh, khi thì em, khi thì cha, khi thì chú, khi vui lúc giận chẳng 
            chút giống nhau. Vì vậy anh ta luôn luôn tự mâu thuẫn với chính mình 
            cả tri thức lẫn tình cảm, cả hành động lẫn lý thuyết. Vì vậy chẳng 
            có gì ngạc nhiên khi anh ta nói một đường làm một nẻo. Thực ra ai mà 
            chẳng thế khi mình còn đa mang những con người xa 
            lạ.
 
										Còn 
            con người thật ở đâu? Sư nói: “Con 
            người thật nhập Niết bàn rồi”. Câu này hàm ý hai nghĩa:  
										1) 
            Con người thật đã (bị con người giả giết) chết rồi. Ý nói anh ta chỉ 
            là con người giả chứ làm gì còn có con người 
            thật.
 
										2) 
            Con người đích thực chính là bản lai diện mục, chân như tự tánh, mà 
            chân như tự tánh thì lúc nào lại chẳng ở nơi Niết 
            bàn. 
										
											  
										 
										 30. 
														VÔ THƯỜNG 
										
 Một 
            chú tiểu đang tưới phong lan, có người khách 
            hỏi:
 
										- 
            Chú đã biết đời là vô thường sao còn trồng làm gì thứ vô thường tạm 
            bợ ấy?
 
										Chú 
            tiểu nói:
 
										- 
            Nhưng nếu chúng mà thường thì tôi còn trồng làm gì 
            nữa?
 
										 ۞ 
										Lời 
													góp ý:   
            
											 
										Khi nghe 
            Đức Phật dạy   “Sabbe 
            Sankhàrà aniccà’ti” (tất cả hữu vi là vô thường), người ta nghĩ rằng một khi mọi hiện tướng đều biến đổi không ngừng 
													thì cần phải dẹp bỏ hết đi để tìm cái gì thường còn bất biến. Đó là một hiểu 
													lầm to lớn. Thấy vô thường chính là để đừng rơi vào ảo tưởng thường còn. Ví dụ 
													khi ta thấy đúng thực chất một đóa hoa có nở có tàn thì ta không còn bị ảo 
													tưởng của dục vọng ước mong đóa hoa còn mãi để rồi rước lấy thất vọng khổ sầu. 
													Cái khổ phát xuất từ nguyên nhân thấy sai chứ không phải ở bản chất vô thường 
													của hữu vi pháp.  
										Lại 
            nữa, thật ra “hữu vi pháp” hoặc “các hành” ám chỉ tâm sinh diệt của 
            chúng sanh hơn là các ngoại tướng (sắc, thanh, hương, vị, xúc). 
            Chính tâm sinh diệt này tác thành bản ngã, tư tưởng, không gian, 
            thời gian và đau khổ. Cũng vậy, khi nói “vô vi, vô sinh diệt” là nói 
            tâm không đông, không thối chuyển hoặc tâm không sinh ngã pháp, chứ 
            không phải là thường tồn vĩnh cửu.
 
										Vì 
            ngộ nhận tai hại như thế nên người ta toan lìa bỏ thế gian vô thường 
            tạm bợ để đi tìm thế giới thường hằng vĩnh cửu. Đó là 
            “hướng 
            ngoại cầu huyền” nên Ngài Huệ Năng một phen phải xác định:  
										       
            
													 
												“Phật 
            Pháp tại thế gian
 
										          Bất ly thế gian 
            giác,
 
										          Ly thế mích bồ 
            đề
 
										          Cáp như tầm thố 
            giác”. 
										Người 
            giác ngộ được bản chất vô thường của hữu vi pháp, có thể ung dung 
            chơi trò chơi “như huyễn hạnh” để chỉ cho kẻ mê thấy đời là hư 
            huyễn. 
										
											  
										
											  
										
										  31.
														PHÂN TÂM NHỊ DỤNG 
										 
										Sư 
            đến viếng một nhà Phật tử, thấy bà chủ nhà vừa thờ Phật vừa thờ Thần 
            Tài, Sư hỏi:
 
										- 
            Bà thờ Thần Tài để làm gì?
 
										- 
            Dạ, để cầu tài.
 
										- 
            Thế còn thờ Phật?
 
										- 
            Dạ, để cầu giải thoát.
 
										Sư 
            nói:
 
										- 
            Bà quả là có tài phân tâm nhị dụng.
 
										 ۞ 
										Lời 
													góp ý:   
            
											 
										Kẻ 
            mê tham lam bắt cá hai tay, vừa muốn ôm đồm, vừa cầu giải thoát. Đã 
            khởi tâm cầu sở đắc thì tất nhiên tự mình phân hóa nhị nguyên. Như 
            trong câu Pháp Cú Đức Phật đã dạy: “Kẻ 
            ngu đi tìm sở đắc chỉ để chẻ đầu ra làm hai”.
 
										Người 
            bố thí để cầu giàu sang thì sao còn gọi là bố thí, kẻ xả lợi để mua 
            danh thì sao còn gọi là xả lợi? Cũng vậy, kẻ muốn giác ngộ giải 
            thoát lại cầu tri thức và sở đắc thì muôn đời vẫn nằm trong vòng 
            luẩn quẩn buộc ràng.
 
										Tuy 
            nhiên, khi đã dứt mê tuyệt ái thì trong một pháp tự nọ lại có đủ mọi 
            thứ mà không hề mâu thuẫn. đúng là “Nhất 
            Phật quốc tại nhất sa trung” mà người mê không thể nào thấy được. Vọng cầu thì “pháp pháp tương loạn”,hết mê 
													thì “pháp 
            pháp tự tức”, và những pháp tương khắc tương sinh trở nên hài hòa bất nhị.  
										Lão 
            Tử nói: 
            “Bậc Thánh nhân biết dùng vô vi mà xử sự thì thấy có - không cùng 
            sanh, khó - dễ cùng thành, dài - ngắn cùng so, cao - thấp cùng 
            chiều, giọng - tiếng cùng họa, trước - sau cùng theo” mà chẳng hề chống trái.  
										Tiếc 
            thay, kẻ mê cứ phân tâm đuổi bắt hai chiều để đánh mất thực tại hiện 
            tiền vốn còn nguyên vẹn. 
										
											  
										 
										 32.
														BA VỊ THẦN 
										 
										Thần 
            Sáng Tạo, Thần Bảo Trì và Thần Hủy Diệt là ba vị thần nắm giữ vận 
            mạng muôn loài.
 
										Vào 
            một thời cảnh chiến tranh, thiên tai, bịnh tật phát sinh ra nhiều 
            khiến chúng sinh chết chóc, cảnh vật tiêu điều... Vì vậy chúng sinh 
            than oán Thần Hủy Diệt.
 
										Thần 
            Hủy Diệt thấy vậy nói với hai vị kia:
 
										- 
            Chúng sanh than oán tôi, hơn nữa tôi làm việc cũng đã mệt, nhị vị để 
            tôi ngủ một lát.
 
										Nhưng 
            chưa được bao lâu Thần Hủy Diệt lại bị đánh thức và nghe Thần Sáng 
            Tạo hớt hải nói:
 
										- 
            Bây giờ dưới trần lại quay qua than oán tôi, vì không những nạn nhân 
            mãn tràn lan mà tất cả mọi vật đều sinh  sôi  nẩy  nở  chật  ních không  còn  chỗ  nào để 
            thở...
 
										Thần 
            Hủy Diệt ngái ngủ nói:
 
										- 
            Thì anh ngưng sáng tạo đi là xong chứ gọi tôi làm gì 
            !
 
										Trong 
            khi nguy kịch, Thần Sáng Tạo vộivàng ngưng việc. Thế là lập tức dưới 
            trần tất cả đều trở nên im lìm bất động. Đó là hậu quả tài năng đơn 
            phương của Thần Bảo Trì mà người trần thường hay mến chuộng! 
             
										  
										۞ 
											 
										Lời 
													góp ý:   
            
											 
										Tôn 
            giáo ấn độ thời xa xưa đã thần hóa tính chất biến 
            dịch 
            SINH - TRỤ - DIỆT của vũ trụ vạn vật thành ba vị Thần: 
            SÁNG TẠO, BẢO TRÌ và HỦY DIỆT.
 
										Sinh 
            - Trụ - Diệt là định luật vô thường của sự sống, không mấy ai ưa già 
            - bịnh - chết, nên cũng chẳng bao người thích sự diệt 
            vong.
 
										Nhưng 
            nếu vạn vật có sinh mà không diệt thì chẳng bao lâu vũ trụ bao la 
            cũng khó tìm chỗ cắm dùi ! Hoặc nếu vạn vật có diệt mà không sinh 
            thì không gian vô tận cũng là hư vô trống rông. Còn nếu vạn vật 
            không sinh thêm, chẳng diệt bớt thì sao? Thì chắc chắn vạn vật sẽ 
            trở nên ù lì, bất động, tuy được bảo trì nguyên vẹn, trường tồn vĩnh 
            cửu, nhưng liệu có còn là lý tưởng ước mơ của mọi người nữa không, 
            hay cõi vĩnh hằng chỉ là nghĩa trang đời đời khô 
            chết?
 
										Vô 
            thường sinh diệt không phải là một kết luận bi quan, mà chính là vẻ 
            đẹp vĩnh hằng của sự sống. Sinh trụ là thành tố của sự sống mà hoại 
            diệt cũng là thành tố của sự sống. Sự sống chẳng THƯỜNG vì 
            nó 
            “sinh sinh nhi họa”, sự sống không ĐOẠN vì nó “miên 
            miên nhược tồn”.Chính vì không thấy thực tánh “vô 
            thường  thị  thường”
													  mà  sinh  tâm  chấp  thường 
													chấp đoạn.  
										Mê 
            chấp thế giới thường còn để rồi đắm trong sinh 
            diệt!
 
										Chối  từ  trần  gian  tạm  bợ  cho  nên vọng đến vĩnh 
            hằng! 
										
											  
										
											  
										
										 33.
													BẢO VỆ ĐẠO PHÁP 
												 
										 
										 
										Một 
            thanh niên mới xin xuất gia vào thiền viện đã tỏ vẻ rất nhiệt tình… 
            Thấy vậy, Sư hỏi:
 
										- 
            Chí nguyện xuất gia của anh là gì?
 
										Thanh 
            niên nói:
 
										- 
            Con  muốn  trở  thành  một  người  bảo  vệ đạo 
            pháp.
 
										Sư  nhìn  người  thanh  niên  từ đầu đến chân mà 
            nói:
 
										  - Có lẽ anh nên để đạo pháp 
            bảo vệ anh thì hơn.
 
										۞ 
											 
										Lời 
													góp ý:   
            
											 
										Khi 
            nói đến bảo vệ Đạo Pháp, nhiều người lầm lẫn một bên là bảo vệ hệ 
            thống Giáo Hội hoặc tông phái, bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, bảo vệ 
            truyền thống lễ nghi, kinh điển, giáo điều, đền chùa hoặc các biểu 
            tượng đạo giáo v.v..., và một bên là lấy việc học đạo, hành trí, tu 
            chứng và hoằng dương chánh pháp để giữ gìn chân 
            lý.
 
										Thực 
            ra chân lý hay Đạo Pháp không cần phải giữ gìn bảo vệ, vì chân lý dù 
            cho có bị nhận xuống bùn thì vẫn là chân lý, còn tà đạo dù có được 
            tâng bốc tận mây xanh cũng vẫn là tà đạo.
 
										Ngược 
            lại, chân lý bảo vệ chúng ta hơn là chúng ta bảo vệ chân lý. Vì thế, 
            Đức Phật dạy: “Thật 
            vậy, Pháp hộ trì cho người hành trì Pháp” (Dhammo have rakkhati Dhammacàrì). Người hành bốn Thắng Xứ mới xứng đáng 
													là người bảo vệ Đạo Pháp:  
										1) 
            Tuệ 
            thắng xứ 
            (Pannadhitthàna): trí tuệ (bát nhã) thắng tri pháp đúng thực tướng 
            (vô ngã), không bị khổ lạc chi phối, không rơi vào hữu vô, không 
            chấp thủ thường đoạn, diệt tận khổ ưu, thành tựu thánh trí, chứng 
            ngộ Niết Bàn.
 
										2)
												Đế thắng xứ (Sacc’àdhitthàna): không dao động, không điên đảo, không hư 
													vọng, chân thực kiên cố, vô thượng an ổn Niết Bàn. 
											 
										3)
												Xả ly thắng xứ (Càg’àdhitthàna): buông bỏ tất cả chấp y: bản ngã, ngũ 
													uẩn, trạng thái, cõi giới,... kể cả chấp y Niết Bàn. 
											 
										4) 
            Tịch 
            tịnh thắng xứ 
            (Upasam’àdhitthàna): đoạn tận tham, sân, si,... cùng với tất cả các 
            triền phược, kiết sử, tùy miên v.v..., tịch diệt hiện tiền, tự tại 
            vô ngại.
 
										Người 
            như thế còn được Đạo Pháp bảo vệ, huống chi kẻ phàm phu mà có thể 
            bảo vệ Đạo Pháp. 
										
											  
										 
										  34.
													TRIẾT HỌC LÀ GÌ 
												 
										 
										 
										Để 
            mở mang kiến thức ngoại điển, Sư cho tăng chúng học thêm triết học 
            Đông Tây.
 
										Sau  nhiều  giờ  học,  một  chú  tiểu hớn hở nói với 
            bạn:
 
										- 
            Đến nay, tôi đã hiểu triết học là gì rồi.
 
										Chú 
            tiểu kia thì đang mù tịt cái môn phiền phức này nên như người chìm 
            vớ được phao:
 
										- 
            Nói nghe mau đi, triết học là gì vậy?
 
										-Ối, 
            có gì đâu! Triết học chỉ là một hệ thống ngôn ngữ phức tạp nói về 
            những điều giản đơn đó mà!
  
										۞ 
											 
										Lời 
													góp ý:   
            
											 
										Triết 
            học chỉ là hệ thống ngôn ngữ phức tạp, mang tính tri thức bác học, 
            còn Đạo thì giản dị vô ngôn, vì thế mà “có 
            giản dị thì mới thấy được chân lý của trời đất” (Dị giản nhi thiên hạ chi lý đắc hỷ). Triết học lấy lý trí để nắm 
													bắt, còn Đạo lấy “vô tri” mà thể nhập. Đạo để mà sống chứ không phải để 
													thức tri. Trí tuệ minh bạch chính là vô tri, bởi vì còn có một chút “lập tri’ 
													của kiến thức là mây mù vô minh che phủ. Vì thế khi phải phương tiện dùng ngôn 
													ngữ làm ngón tay chỉ mặt trăng, Đức Phật không dùng hệ thống ngôn ngữ bác học 
													phức tạp Sanskrit của Bà La Môn, mà dùng ngôn ngữ Pàli giản dị bình dn của 
													người Màgadha. Còn Lão Tử thì nói: “Sáng suốt mọi bề có thể vô tri được chăng?”
													(Minh bạch tứ đạt năng vô tri hồ), hoặc “biết dừng lại ở chỗ không biết là 
            tới rồi vậy” (cố tri chỉ kỳ sở bất tri chí hỷ). Thế thì một thiền sư cũng có lý khi nói: “Chân lý mà đem ra quy định quả là việc 
            làm của kẻ ngốc nghếch”.
  
										 
										 
										35.
													NGHIỆP CÒN NẶNG 
												 
										 
										 
										Thấy 
            một bà tín nữ đem một lồng chim tới chùa, chú tiểu mừng rỡ 
            nói:
 
										- 
            Để tôi phóng sinh cho.
 
										Bà 
            tín nữ giải thích là bà không có ý định phóng sinh tại thiền viện, 
            bà chỉ gởi lại nhờ chú tiểu giữ để ngày mai đem xuống chùa dưới 
            phóng phóng sinh trong dịp lễ ở đó.
 
										Chú 
            tiểu tiu nghỉu than thầm: “Đem chim rừng về lại phố, lại để đến ngày mai đi thêm cả buổi đường nữa, chắc nghiệp bầy 
													chim này còn nặng!”  
										 ۞ 
										Lời 
													góp ý:   
            
											 
										Những 
            người không thấy Đạo, dù có tu hành “vị tha” cách mấy cũng chỉ làm 
            khổ thiên hạ. Nếu phóng sinh để đổi lấy lợi, lấy danh, lấy quả báu 
            vị lai thì đâu phải là vị tha mà chỉ là vị kỷ, không những không 
            phước mà còn thêm tội.
 
										Phóng 
            sinh là một hành động đúng đắn tự nhiên khi người ta biết tôn trọng 
            sự sống, chứ không phải đem sinh mạng của chúng sanh làm vật bán 
            buôn danh lợi.
 
										Người 
            không có vô minh ái dục tự nhiên có trí tuệ, có trí tuệ tự nhiên có 
            từ bi, có từ bi đương nhiên thấy chúng sanh bị nạn thì cứu v.v... 
            Việc làm đó không hề có bóng dáng của bản ngã làm gì có ích kỷ với 
            vị tha.
 
										Mặc 
            Tử nguyện mài mình từ đầu đến chân để lợi thiên hạ, chính vì lòng 
            kiêm ái.
 
										Dương 
            Tử thề dù chỉ mất một sợi lông mà lợi thiên hạ cũng không làm, đâu 
            phải vì ích kỷ mà chỉ sợ người đời ham lợi khổ 
            thân.
 
										Vậy 
            trên đời dễ mấy ai biết thế nào là vị tha, thế nào là ích 
            kỷ.
  
										 
										 
										 
									36.
										HÃY ĐỂ YÊN 
									 
								 
								 
								Một 
            giáo sư triết học muốn biết Đạo Phật chủ trương “Thường tại luận” 
            hay “Vô thường luận”.
 
								Sư 
            nói:
 
								- 
            Đó là những hý luận tà kiến.
 
								Giáo 
            sư ngạc nhiên:
 
								- 
            Như vậy Đạo Phật chủ trương luận nào?
 
								Sư 
            đáp:
 
								- 
            Chân lý nằm ngoài chủ trương và lý luận, cho nên Đạo Phật không chủ 
            trương luận nào cả. Cái gì vô thường hãy để yên cho nó vô thường, 
            cái gì thường tại hãy để yên cho nó thường 
tại.
 
								 ۞ 
								Lời 
											góp ý:   
            
									 
								Các 
            triết gia, các nhà tư tưởng toan nắm bắt chân lý bằng những kết luận 
            vu vơ phiến diện của mình, rồi gán lên cho nó đủ thứ nhãn hiệu: đoạn 
            - thường, cấu - tịnh, hữu - vô, nhất - dị,..., tưởng rằng có thể 
            nhốt chân lý trong cái lồng quan niệm vàng son của mình, chẳng ngờ, 
            chính quan niệm nhốt họ vào ngục tù, còn chân lý thì muôn đời vẫn 
            ung dung tự tại.
 
								Thường 
            - đoạn, có - không, tăng - giảm, nhất - dị v.v... đều đúng cả vì 
            pháp chẳng thiếu một phương diện nào, nhưng cũng đều sai cả khi ta 
            chỉ toan kết luận một chiều. Cho nên, trong Kinh Brahmàjàla, Đức 
            Phật gọi sáu mươi hai quan niệm của Triết học ấn độ thời bấy giờ là 
            hý luận tà kiến.
 
								Như 
            những người mù sờ voi, vì không thấy toàn diện, nên sờ đụng 
            phần  nào  liền  kết  luận  voi là phần 
            đó.
 
								Muốn 
            thấy chân lý một cách trọn vẹn chỉ cần biết lặng lẽ chiêm quan, hồn 
            nhiên cảm nghiệm, hay nói một cách khác là phải biết... chính mình 
            là chân - lý - không - hai.
 
								Đứng 
            ngoài mà kết luận thị phi, rồi bỏ đoạn lấy thường, chê tướng chọn 
            tánh, xả hữu chấp vô v.v..., không những là thái độ lăng mạ Pháp, mà 
            còn tự chìm sâu trong luân hồi sinh tử. Sao không bỏ cái ngã mình đi 
            để cho chân lý được yên thân như nó đang là, như chân như 
            thật? 
							 |