Trung Tâm Hộ Tông  Trang Chủ


Thanh Gươm Ba-La-Mật

Tác giả: Minh Đức Triều Tâm Ảnh



Người ngu và kẻ trí

Thuở xưa, tại kinh thành của một tiểu quốc xứ Ấn Độ có một nhà triệu phú. Y không tin Trời, Thần và số mệnh. Y thường nói:

- Hễ có chí, có tài là làm nên sự nghiệp. Chẳng có số mệnh, nhân quả, thiện ác gì hết.

Nhà triệu phú có hai người con trai. Hôm kia, y cho mời một thầy Bà-la-môn lỗi lạc đến nói rằng:

- Ta không tiếc thù lao trăm vạn, miễn là con ta thành kẻ tài cao, có bản lãnh vang danh thiên hạ. Đừng dạy những cái thứ vớ vẩn là triết lý, văn chương, thánh thư.... Thầy có làm được như thế không?

Thầy Bà-la-môn gật đầu, làm giấy tờ văn bản theo như lời thỏa thuận của hai bên, có triện son của đức Vua rồi dẫn hai người con trai của nhà triệu phú lên đường...

Đúng ngày hẹn, mười năm sau họ trở lại.

Thầy Bà-la-môn nói:

- Những thanh niên quý tử con ngài giờ đã có tài cao và bản lãnh. Họ sẽ thành công ở mọi địa hạt khác nhau. Bây giờ ngài hãy cho thù lao.

Nhà triệu phú mặt mày hớn hở:

- Tốt lắm! Vậy thầy đòi bao nhiêu?

Thầy Bà-la-môn cất giọng trịnh trọng:

- Các quý tử con ngài chỉ được cái mã bên ngoài, còn căn cốt thì chậm lụt, ngu đần. Chắc chúng là cốt tinh của Thần Vịt Đực, Thần Lừa Hai Đầu hoặc Thần Bò Cái. Tôi đã gian lao vất vả mười năm ...

Nhà triệu phú tối sầm mặt, quát khẽ:

- Thôi đi. Hãy kể nhanh lên!

Thầy Bà-la-môn mỉm cười:

- Trước tiên muốn cho các quý tử theo đuổi được sở học, tôi phải hối lộ với Thần Trí Khôn, nhờ ngài giải phẫu cho cái đầu óc mít đặc đầy những kiêu căng, ngu si, thịt mỡ và vật thực. Để chi phí cho khoảng cúng tế này, tôi đã phải mất hết mười vạn đồng tiền vàng.

Nhà triệu phú giật thót mình.

Thầy Bà-la-môn đều đều tính sổ:

- Thể chất các quý tử con ngài ẻo lả mềm yếu như lau cói; lại lười biếng, nhút nhát như cốt tinh của Thần Heo, Thần Thỏ Đực. Tôi phải xõa tóc, đốt trầm, ăn chay nằm đất hai năm ròng rã để cầu khẩn Thần Sức Khỏe, Thần Ý Chí, Thần Sư Tử ba mắt uy mãnh. Khoản chi phí này vì phải hối lộ nhiều nơi, nên đã mất đi khoảng hai mươi vạn đồng tiền vàng.

Nhà triệu phú như bị kiến đốt, trán đã rươm rướm mồ hôi.

Thầy Bà-la-môn lẩm nhẩm tính một hồi nữa rồi than khẽ:

- Ôi! Hỡi Thần Nhật Nguyệt, Thần Núi Sông, Thần Ban Ngày, Thần Ban Đêm, Thần Thời Gian, Thần Đất Đai, Thần Cây Cỏ, Thần Hư Không, Thần Gió và Thần Mây! Các khoản thù lao kia tôi chưa tính đến quý ngài, nhưng vốn tính tình nhân hậu, quý ngài cũng hỷ xả cho thôi!

Lại nói:

- Thêm công lao dạy dỗ mười năm, cơm áo, vật thực, sách đèn, ... tính đổ đồng mỗi quý tử cũng mất hết mười lăm vạn, hai vị quý tử là chẵn ba mươi vạn! Như thế, cộng cả hai khoản chi phí trên nữa là đúng sáu mươi vạn đồng tiền vàng. Nhưng lạy Thần Thiện Tâm, Thần Bác Ái và Thần Hoan Hỷ có cái tai to và nụ cười đôn hậu, tôi xin hiến cúng lại gia chủ mười vạn, chỉ xin nhận năm mươi vạn đồng tiền vàng mà thôi. Ngài hãy thanh toán cho!

Thầy Bà-la-môn nói xong, lấy văn kiện có triện son của Đức Vua, nói rằng:

- Ở khoản này có ghi: “Gia chủ chẳng tiếc thù lao trăm vạn, miễn là hai con có tài cao và bản lãnh”.

Thầy Bà-la-môn xá nhà triệu phú thật sâu rồi khép nép đứng một bên rất lễ độ, trên môi thoảng nụ cười khiêm tốn.

Nhà triệu phú, trên đầu, tóc rụng đã một nửa, ông ta bóp trán suy nghĩ một hồi lâu rồi chợt cười ha hả:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Các khoản thù lao như vậy là xứng đáng. Nhưng cái tài của hai con ta thì lấy gì làm bằng? Các ngài Bà-la-môn vốn là dòng dõi học thức, đa ngôn, lớn lối ... Nhưng làm sao ta tin các ngài được?

Nhà triệu phú thấy mình thắng lý, thích chí nhìn thầy Bà-la-môn cười to lên.

Thầy Bà-la-môn cau mày tự nghĩ:

“- Ai bảo bậc minh triết có trí khôn vẹn toàn, ta bảo kẻ ấy là người ngu”.

Bèn nhường lui một bước:

- Vậy chúng tôi chờ đợi. Nếu trong vòng một năm trở lại, hai quý tử quả có tài cao riêng biệt theo như lời cam kết, tôi đến lấy tiền cũng không muộn gì.

Họ lại làm bản giao kèo lần thứ hai, có triện son của Đức Vua.

Sau đó, nhà triệu phú chu cấp tiền bạc cho hai con lên đường, tự nghĩ:

“- Nếu một năm sau, con ta chứng tỏ không có tài thì ta chẳng tốn một xu. Và quả nó có tài và bản lãnh thật sự thì trăm vạn đồng tiền vàng nào có nghĩa gì? Trích từ phần lời này ta trả cho bên kia. Thế là cả hai đàng ta đều có lợi”.

Rồi nhà triệu phú lẩm bẩm một câu triết lý:

“- Ngoài đầu óc của tên triệu phú, thế gian không có trí khôn”.

Đúng như dự đoán của thầy Bà-la-môn, một năm sau hai chàng quý tử trở về. Nhà triệu phú nhìn hai con, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược.

Đứa thứ nhất lịch kịch với chiếc nạng gỗ, áo vá trăm mảnh. Rõ là một tên ăn xin tàn tật. Đứa thứ hai da xanh như tàu lá, đôi mắt láo liêng thất thần. Rõ là một con quỷ thân tàn ma dại.

Thầy Bà-la-môn xuất hiện đòi trả tiền thù lao như lời cam kết.

Nhà triệu phú vỗ bàn, đấm ngực, bứt râu, hét:

- Ngươi không thấy sao mà dám vác mặt đến đây? Ta sẽ kiện Đức Vua cho ngươi đi ở tù.

Thầy Bà-la-môn cứng hỏi đáp:

- Hãy đi ngay! Nếu ta không lấy được năm mươi vạn đồng tiền vàng, sao thế gian gọi ta là bậc thầy lỗi lạc?

Đức Vua sau khi xem mấy bản văn, nhìn hai người thanh niên rồi quay sang nhìn thầy Bà-la-môn từ đầu cho đến chân, nghiêm giọng nói:

- Thầy hãy trả lời cho minh bạch trước công lý.

Thầy Bà-la-môn nghiêng mình tâu:

- Xin đấng Thượng hoàng anh minh! Trước bệ rồng xin cho hạ thần tự sự trình bày đầu đuôi gốc ngọn.

- Cứ nói!

- Tâu Đại Vương! Hạ thần chỉ làm theo văn bản đã cam kết giữa hai bên mà thôi. Trong bản giao kèo ấy, ghi là đào tạo cho hai cậu quý tử con ngài triệu phú đây có “tài cao và bản lãnh”, mà không xác định là tài cao và bản lãnh gì! Và hạ thần đã làm đúng như thế. Suốt cả năm qua khắp cả kinh thành, chẳng ai là không nghe danh hai kẻ tài cao vô địch ấy!

Đức vua và triều thần nghi ngờ đưa mắt nhìn nhau. Chợt một tiếng nói:

- Muôn tâu bệ hạ! Năm qua ở đất Thần châu xuất hiện hai nhân vật tài cao và bản lãnh lạ lùng. Một người có tài “chim gái”. Ít nhất là có mấy chục công nương, tiểu thư, mệnh phụ đều mê mệt vì những lời đường mật dụ dỗ ngon ngọt của y. Người ấy có ngoại hiệu mà không ai không biết là “Thần Châu Đệ Nhất Sở Khanh”. Ôi! Cái tài và cái danh đến độ như vậy là cùng rồi. Chẳng hay thầy Bà-la-môn muốn nói đến người này?

- Chính thị! Thầy Bà-la-môn gật đầu.

Tiếng kia lại đều đều tiếp:

- Bản lãnh người thứ hai dường như thâm diệu hơn. Tâu bệ hạ! Với hai bàn tay trắng đến kinh đô, y đi lượm những đồ phế thải hoặc mua với giá rẻ những vật người ta không dùng, đem về tự mình chế biến thành những vật dùng được. Đối với y, cái gì cũng có thể biến thành tiền cả. Tiền và tiền! Mới nửa năm mà gia tài của y đã có đến vài chục vạn. Nhưng y tham lam quá độ, chỉ thấy lợi, nghĩ đến lợi của mình chứ không thấy ai khác. Y có ngoại danh là “Kiến Lợi Bất Kiến Nhân”. Trong vài cuộc hùn hạp làm ăn bặm trợn, sinh tử, không kể đến tín, nghĩa, y vơ vét sạch tiền bạc của người ta rồi trở mặt, phản trắc. Do vậy, ở đất Thần Châu, khi nhắc đến “Kiến Lợi Bất Kiến Nhân” hoặc “Thần Châu Đệ Nhất Tham Tài” thì không ai khỏi lắc đầu lè lưỡi! Than ôi, cái tài và cái danh đến như thế là cùng độ rồi! Thưa thầy Bà-la-môn khả kính! Chẳng hay người ấy cũng là quý tử của nhà triệu phú cao trọng đây? Là cao đệ của ngài?

Thầy Bà-la-môn khi nghe đến hai chữ “cao đệ” chợt đỏ mặt lên nhưng cũng giật đầu.

Đức Vua đưa mắt nhìn hai người thanh niên một hồi rồi nói:

- Tên thứ nhất, đệ nhất hào hoa phong nhã, mà bây giờ như con quỷ xanh nhờn, da xanh, nanh vàng thế? Ai biết tại sao?

Giọng nói kia tiếp tục:

- Tâu bệ hạ! Nghe đâu thần thoại bên cõi Tây Man có vị thần vì yêu thương hết mình, hết xương tủy mà ra thế! Lại nữa, các đấng mày râu bị mọc sừng, phục kích đánh đập y một trận trăm chết một sống rồi quăng y vào một đống rác ở ngoại ô!

Đức Vua gật đầu:

- À, ra thế! Còn vị thứ hai này, tại sao lại trở thành tên khất cái tàn tật? Y giàu có lắm mà!

- Của thiên trả địa, tâu bệ hạ! Những kẻ bị lường gạt hùa nhau trả thù. Họ đeo mặt nạ, giả tướng cướp kéo đến phá tan gia sản của y, cướp hết ngọc ngà châu báu của y, bẻ gãy chân tay y rồi quăng y cũng cùng trên đống rác ấy! Thế rồi hai anh em y chợt tao ngộ tương phùng nơi cảnh giới dòi bọ, lằn xanh, chuột chết, ... cùng băng bó vết thương cho nhau, rồi cùng “vinh quy bái tổ” về làng!

Đứa Vua cười híp mắt rồi gục gặc nói:

- Nếu bảo tài thì cũng là đại tài! Nếu bảo danh thì cũng là trứ danh! Nhưng nếu tài danh mà không có đạo đức và lương tri hướng dẫn thì đến lúc phải thân tàn ma dại, khuynh gia bại sản, bị mọi người khinh rẻ và chuốc hiểm họa vào thân mà thôi!

Chợt Đức Vua ngẩng đầu lên:

- Này thầy Bà-la-môn! Ai cho phép thầy dạy người không theo khuôn phép của minh triết, thánh thư?

Thầy Bà-la-môn đáp rổn rảng:

- Muôn tâu! Lỗi không phải ở hạ thần! Ngài triệu phú đây vốn là kẻ ngoại đạo. Ngài ấy không tin trí khôn của thánh hiền. Ngài ấy bảo minh triết, văn chương, thánh thư là vớ vẩn. Ngài ấy chỉ tin vào đầu óc của mình thôi!

Đức Vua mặt rồng cau lại, vỗ long ngai:

- Quốc độ này không có những loại thầy như ngươi! Ta tuyên phạt ngươi “hai trăm năm” lưu đày ngoài hoang đảo vì giáo dục phi đạo đức!.

Đức Vua lại hầm hầm quay qua nhà triệu phú:

- Còn tên trọc phú xấu xa đê hèn kia! Ngươi là kẻ thua cuộc! Hãy trả cho lão Bà-la-môn năm mươi vạn đồng tiền vàng rồi xéo đi khỏi nước này cùng với tài sản của ngươi! Lập tức đi ngay! Ta không muốn nhìn mặt ngươi nữa!

Tuyên án xong, Đức Vua lẩm bẩm:

“- Kinh khiếp! Người ngu, kẻ trí, người trí, kẻ ngu!”.

Rồi tất tả lui vào hậu cung như không còn dám nhìn mặt “người ngu, kẻ trí” trên đời này nữa!



Vì động lòng trần

Xứ Ăng-ca lúc này có nạn trộm cướp nổi lên. Chúng bắt trâu, bò, heo, gà, vịt, chó, ... lên núi ăn thịt, lấy máu tế thần rồi nhảy múa ca hát xung quanh đám lửa rừng.

Hết gia súc, chúng lại cướp của, giết người, làm cho xứ Ăng-ca náo loạn cả lên. Triều đình họp lại bàn phương kế đối phó.

- Bọn chúng là nhóm cuồng tín Bái Hỏa Giáo, một loại tà đạo từ xứ Ba Tư truyền sang - một người tâu - Chúng có học chú thuật, xuất hiện như quỷ, biến đi như ma! Nhiều hiệp sĩ võ nghệ trùm đời mà chẳng làm gì chúng được!

- Không thể nhìn ra chân tướng chúng - người khác lại tâu - chúng lẫn lộn khắp nơi. Biết đâu tại nơi này cũng có thuộc hạ tay chân của chúng?

Đức Vua xứ Ăng-ca run lẩy bẩy, ngồi không yên trên ngai rồng. Quần thần lấm lét đưa mắt nhìn nhau.

- Cả bá quan đại thần như thế này mà thảy đều bất lực rồi sao? Đức Vua trấn tĩnh nói - Ai có biện pháp đối phó hữu hiệu, trẫm sẽ chia cho nửa giang san!

Chợt một đạo sĩ xuất hiện đột ngột trước cung đường, cất giọng nói như chuông ngân:

- Có! Tâu Đại Vương! Tại hồ Gay Cấn, núi Kinh Hoàng, cách quốc độ Thiết Xoa mười lăm do tuần về hướng tây, có nhà tiên tri vô danh sống ở đấy. Dùng lễ trọng hậu thỉnh ngài về là chắc chắn cứu nguy cho nạn nước.

Đạo sĩ nói xong lùi ra cửa rồi biến mất.

Đức Vua xứ Ăng-ca sau giây khắc kinh dị, bèn vui mừng cấp 500 ngựa xe chở đầy đồ lễ, 500 tùy tùng và quân hộ vệ, sai quan Thượng Thư đi suốt ngày đêm.

Đến nơi, quan Thượng Thư thấy giữa chiếc hồ trong xanh như mắt mèo, có một đạo sĩ gầy khô như que củi đang ngồi nhập định trên một lá sen! Một tiểu đồng đang nấu nước pha trà trên một lá sen khác.

Chẳng dám kinh động đạo sĩ, quan Thượng Thư lân la trình bày câu chuyện với chú tiểu đồng.

Lặng lẽ nghe xong, chú tiểu đồng tròn mắt:

- 500 xe lễ? Để làm gì? Chúng tôi có sống với những thứ đó đâu? Ngài không thấy là nhà cửa, mùng mền, chiếu gối, vật dụng của chúng tôi đều đầy đủ ở trên một lá sen hay sao? Rồi, với củ sen, nước hồ và trái cây rừng, chúng tôi đã sống một cuộc đời hoan lạc.

- Cả một nửa giang san cho sau này - quan Thượng Thư năn nỉ - thì tha hồ sống một đời nhung lụa, đế vương.

Chú tiểu đồng cười ha hả, má lúm đồng tiền:

- Thôi đi, là cái nửa giang san của ngài! Cái nửa giang san gồm người không ra người, ngợm không ra ngợm! Cái nửa giang san mà ... nào là con cò dối trá, con beo lang độc, con ong đường mật, con heo tạp ăn, con mèo chưng diện, con sếu kiêu căng ... Ôi! Đấy là một nửa giang san của ngài, quý hóa gì đâu!

Vị đạo sĩ già chợt mở mắt ra:

- Đừng con! Người ta đã có lòng thành. Thầy đã tiên tri mọi việc. Phải cứu Đức Vua nhân hậu và bá tánh hiền lương ấy. Quốc lộ xứ Ăng-ca kia sẽ được thái bình một thời gian.

Quan Thượng Thư mát lòng mát dạ, cùng đám tùy tùng quỳ xuống trên bờ hồ phục lạy đấng thần nhân.

Vị đạo sĩ khẽ nói:

- Hồn Nhiên con - tên chú tiểu đồng - lên đem con hạc núi Kinh Hoàng xuống đây. Để thầy pha trà cho!

Khi vị đạo sĩ châm trà thì chú tiểu đồng đã nhảy lên rừng, lát sau mang xuống một lồng chim được kết bằng những sợi tơ mỏng. Trong lồng có một con Hạc đã già, trần trụi lông.

Đạo sĩ nhìn Hạc nói:

- Này con, lòng con đã xúc động trần tục từ bao giờ?

Chợt nhiên, Hạc nói tiếng người:

- Xin Chân Nhân tha tội!

Nói xong Hạc cúi đầu xuống.

Đạo sĩ giọng trầm ấm, hiền hòa:

- Một ngàn năm tu hành, thế là nước chảy về sông rồi, con ơi! Con đã xổ lồng, đã xuống kinh đô giả trang làm đạo sĩ để mưu cầu công danh, có phải thế không?

Hạc cũng chỉ nói một câu:

- Xin Chân thân tha tội.

Đạo sĩ thở dài:

- Con có tội đâu, chỉ do nghiệp con còn nặng, phải năm trăm kiếp nữa con mới trở lại thân người. Thầy thương con, nhưng thầy cũng không cưỡng được các định luật. Thôi, con hãy đi đi. Con hãy về kinh đô xứ Ăng-ca mà hưởng phú quý vài mươi năm.

Hạc bước ra khỏi lồng, hóa hiện thành một vị đạo sĩ quắc thước, đầu hói, phủ phục bên chân đạo sĩ già:

- Con sẽ trở lại!

Tin một cao đệ của nhà tiên tri vô danh hồ Gay Cấn, núi Kinh Hoàng về thành đô ra tay diệt cướp rì rào như gió qua cửa tai mọi người.

Ngày hôm nay, tất thảy bọn cướp đều đã nghe tin.

Ngày hôm sau nữa, bọn cướp lục tục kéo nhau trốn lên rừng.

Triều đình cho người đi dò la khắp chốn, quả là nơi nơi dân chúng đang mở hội ăn mừng. Nhà vua chuẩn hứa chia cho đạo sĩ nửa giang san để thỏa mộng trần. Đạo sĩ cưới vợ, sinh con, sống trong tòa lâu đài chói ngời trân quý, dưới sự sủng ái của Đức Vua, lòng tri ân của bá tánh.

Vài chục năm sau, đạo sĩ chợt nhớ thầy, bèn giao công việc cho con trai, hóa thân thành hạc, vỗ cánh bay về núi Kinh Hoàng. Bọn cướp hay tin kéo nhau về kinh đô cướp phá dữ dội.

Vua triệu con trai đạo sĩ đến phán:

- Khanh hãy mau trổ tài giúp trẫm, bọn cướp lại hoành hành khắp mọi nơi.

Con trai đạo sĩ mỉm cười:

- Xin bệ hạ an tâm. Ngay ít hôm thôi, bọn cướp sẽ không còn một mống.

Quả thật không phải “hữu danh vô thực”, con ông không những giống lông, giống cánh, mà còn “hậu sinh khả úy” nữa! Con trai đạo sĩ xuống Thủy Băng mượn chiếc Cung tuyết, lên núi Hỏa Diệm mượn con Ngựa lửa, đeo vào “con mắt thứ ba”, hét lên một tiếng lao đi vùn vụt giữa không gian quốc độ, hào quang sáng chói, chỉ trong vài đêm giết hết ba vạn tên cướp và phá tan sào huyệt của Bái Hỏa Giáo.

Đức Vua vuốt râu cười đẹp dạ. Mọi người nhảy nhót vui mừng mở hội liên hoan.

Đạo sĩ trở về nghe được mọi chuyện, dẫm chân than:

- Thôi hỏng, thằng con ngu si đã gieo họa xuống rồi!

Con trai đạo sĩ bị mắng như tát nước vào mặt mà không hiểu lý do.

Đạo sĩ nói:

- Còn chúng là ta còn! Mất chúng là ta mất! Này đứa con ngu si kia! Nếu quốc độ này hết giặc cướp thì nhà vua sủng ái ta làm gì nữa?

Rồi đạo sĩ khóc nức nở:

- Tu hành ngàn năm mà chỉ hưởng được bấy nhiêu công danh phú quý! Ôi hạnh phúc đời người sao quá mỏng manh! Ôi, duyên nghiệt! Lạy Chân Nhân tiên tri cao cả!

Thời gian sau, Đức Vua xứ Ăng-ca cảm thấy không cần dùng đạo sĩ nữa vì quốc độ đã hoàn toàn an ổn thanh bình. Khi ra lệnh truất phế đạo sĩ thì đạo sĩ đã không còn ở đó nữa. Ông ta đã vặn cổ con trai quẳng ra bể đông rồi vỗ cánh bay về hồ Gay Cấn tìm thầy.

Những đạo sĩ già đã tựa như mây ngàn gió núi. Và từ đó, hạc cũng lang thang sống kiếp gió núi mây ngàn!

 


Người hiền trí


Trong một kiếp quá khứ, tiền thân Phật Thích Ca làm Thái tử con vua Ba-la-nại, vừa thông minh, vừa nhân hậu nên người ta kính mến gọi Ngài là Thái tử Hiền Trí.

Thái tử sinh ra, chư thiên rải hoa. Đức vua nằm mộng thấy ngai vàng bay lên giữa hư không. Sáng ngày, đức vua cho gọi bốn vị trưởng lão Bà-la-môn hỏi thăm điềm triệu.

Một vị đáp:

- Muôn tâu bệ hạ, Thái tử vốn từ cõi trời mà giáng sanh. Ngai vàng bay lên giữa hư không là cho biết sau này ngài dạy muôn dân sống theo thiên pháp.

Đức Vua đẹp dạ, giảm thuế má cho dân.

Khi Thái tử Hiền Trí vừa biết đi, biết chạy, Hoàng hậu lại cho nhà vua thêm một đứa trẻ nữa, khuôn mặt tròn, mát mẻ và hiền dịu như mặt trăng nên nhà vua đặt tên là Nguyệt Diện.

Đức vua hoan hỷ mở tiệc ăn mừng. Khắp nơi lê dân mở hội hoan ca chung vui niềm vui quốc độ.

Ba năm sau, Hoàng hậu chẳng bệnh mà qua đời. Đức Vua thương tiếc khôn nguôi, lại càng yêu hai trẻ hết mực.

Hiền Trí không vì tình thương của vua cha mà đâm ra hư hỏng, bao giờ cũng chăm chú dùi mài kinh sử, luôn chứng tỏ tư cách của bậc long tượng. Thấy Nguyệt Diện ham chơi, Hiền Trí thường gọi em đến răn dạy:

- Em tên là gì nhĩ?

- Là Mặt Trăng, thưa anh.

- Bổn phận của nó là làm công việc gì?

- Thưa, nó là chúa của ban đêm, chiếu dọi ánh sáng dịu hiền cho muôn loài, muôn vật.

- Đúng thế! Nhưng mặt trăng ấy gặp lúc bị mây che hoặc gặp mùa đông tuyết giá thì sao?

Nguyệt Diện không thông minh bằng anh nên không hiểu được ẩn ý trong câu chuyện. Thái tử Hiền Trí bèn giải thích:

- Em yêu dấu! Mẹ chúng ta mất, có lẽ chúng ta sẽ sống trong những ngày tháng đông dài lạnh lẽo. Vậy em đừng nên bỏ phí thời gian trôi qua vô ích, phải chịu khó học hành, chịu khó luyện võ, thức khuya dậy sớm để chuẩn bị hành trang cho mai sau.

Đúng như Thái tử Hiền Trí tiên đoán, mấy năm sau, nhà vua phong một thứ phi lên làm Hoàng hậu và mọi sự sủng ái đều dành hết cho bà. Kết quả cuộc tình mặn nồng lại cho Đức Vua thêm một hoàng nam, khuôn mặt sáng rỡ như mặt trời, nên nhà vua đặt tên là Nhật Diện.

Đức Vua gọi Hoàng hậu lại phán rằng:

- Này ái khánh, trẫm hài lòng vô cùng về cái “Mặt Trời” đẹp đẽ, rực rỡ của chúng ta. Vậy thì trẫm sẽ ban cho ái khanh một đặc ân, trẫm sẽ thực hiện cho ái khanh một lời yêu cầu.

Hoàng hậu tự nghĩ: “Chẳng có đặc ân nào thỏa mãn được nguyện vọng ta bằng chiếc ngai vàng cho đứa con trai yêu quý.” Nhưng bà chưa nói ra điều này vội, và đã bắt đầu đem tâm ghét bỏ hai người con lớn của Đức Vua.

Nhật Diện lớn lên, kính trọng hai anh và hiếu thảo với cha mẹ. Mặc dầu còn nhỏ tuổi nhưng trẻ đã sớm biết tình thương phân biệt của mẹ mình, lại càng nhũn nhặn yêu quý hai anh hơn.

Hiền Trí hiểu tất cả mọi chuyện, chàng thương cả hai em bằng tình thương rộng lớn của mình, cặn kẽ chỉ dạy cho hai em về nhiều môn học khác nhau, còn tận tình và tài giỏi hơn các thầy Bà-la-môn phụ đạo. Đức Vua mỉm cười sung sướng về ba vị Hoàng tử anh tuấn và tài cao.

Hôm kia, nhân tiện ghé thăm Hiền Trí, Nhật Diện vô tình khám phá trong chăn anh có con rắn nhỏ cực độc. Trẻ định tri hô lên. Hiền Trí xua tay ra dấu im lặng, tìm cách đuổi rắn đi và bảo em nên kín miệng cứ xem như không có việc gì. Sau đó, khuyên Nguyệt Diện qua ở chung để anh em sớm hôm bầu bạn: Hiền Trí muốn âm thầm bảo vệ em cho chu đáo vì sợ ác tâm của người mẹ kế.

Thấy mưu rắn độc không thành, Hoàng hậu thưa với đức vua:

- Tâu Hoàng thượng, thuở Nhật Diện vừa mới ra đời, Hoàng Thượng có hứa khả ban cho thần thiếp một đặc ân.

- Phải rồi, ái khanh cứ nói, ái khanh muốn gì nào?

Người đàn bà chớp chớp đôi mắt kiều mị cất giọng thỏ thẻ, quyến rũ như uyên ương:

- Muôn tâu, phận cát đằng hèn mọn từ lâu được núp bóng tùng quân cao cả, đội ơn mưa móc, thần thiếp thật không thiếu thứ gì. Chỉ xin Hoàng thượng phong cho Nhật Diện được làm Đông cung Thái tử.

Đức Vua bàng hoàng cả người. Vừng trán đấng cửu trùng hốt nhiên se lại. Lâu lắm, Đức Vua cất giọng ôn tồn:

- Này ái khanh, ái khanh chẳng thể có lời yêu cầu khác sao? Vật báu của thiên hạ còn chất đầy cung khố, thảng hoặc, trẫm có thể ban cho ái khanh một phần của giang sơn cho ái khanh thỏa vọng vương quyền?

Người đàn bà run rẩy, búi tóc màu ngọc tía tung rối bời, hàng lệ tươm mọng rỉ giọt, tiếng khóc rưng rức rung động cả tầng mây. Đức Vua Ba-la-nại lòng loạn lên như mớ bòng bong, bước tới bước lui tê điếng như bị cái đốt của chúa loài ong. Lại phân trần:

- Hỡi ái khanh ngàn vàng của trẫm! Ngôi chí tôn mệnh trời đã sắp đặt, trẫm đã phong cho Hiền Trí làm Thái tử từ lúc vừa mới tuổi tôi. Hiền Trí cốt tượng, dáng long, trí đức văn võ toàn tài, đúng là chân mạng của bậc thánh vương. Nó còn là con trưởng, lại chưa hề tạo ra một lỗi lầm dù nhỏ như hạt bụi, chẳng lẽ trẫm lại phế bỏ đi sao? Rồi còn Nguyệt Diện? Nó cũng tài cao, anh tuấn, nhân hậu, thập toàn, thập mỹ có thua ai ở quốc độ này? Ái khanh phải thấy rõ tình lý của vấn đề chứ? Thứ bậc đã chia phân thì dẫu trời này có sập đi nữa, trẫm cũng chẳng thể hoán cải được nào!

Hoàng hậu tức tưởi trở lại loan phòng, chất chứa nổi hờn căm và lòng tàn nhẫn của loài beo chúa.

Vùng biên thùy tây bắc quốc độ, khắp mười ba trấn, dân chúng nổi lên làm loạn. Cấp mã báo tin về triều nội nườm nượp như én lượn ngày xuân.

Kinh thành nghe tin hỗn loạn lên. Mấy ngày sau phố phường chợt lặng ngắt, đường sá thưa thớt người qua lại. Triều đình họp kín mấy tuần. Lửa sắp cháy đến kinh đô. Bá quan bó gối tìm không ra phương kế. Khí thế giặc dữ như sóng tràn, như địa lôi, như bão động. Đứng đầu cuộc nổi loạn là một lão phù thủy biết hô phong hoán vũ, chỉ huy âm binh lần lượt đánh chiếm đã hết hai phần ba vành đai quốc độ. Giặc đang như cơn lốc sắp cuộn vào trung tâm.

Quốc vương xứ Ba-la-nại không chợp mắt, mấy ngày không nuốt trôi chén cháo trân châu, trên đầu tóc đã bạc trắng tự bao giờ.

Một buổi sáng, Thái tử Hiền Trí nai nịt gọn gàng và đẹp đẽ như một viên dũng tướng nhà trời, xuất hiện giữa trăm quan:

- Muôn tâu Hoàng thượng! Đây đúng là lúc thần nhi xin đem tấm thân hèn mọn để đáp đền trọng ân sơn hà xã tắc.

Giọng nói, dáng đứng, đôi mắt sáng quắc như điện của Thái tử có sức lôi cuốn cực mạnh. Đức vua ngạc nhiên một hồi, nhưng sau đó tự nghĩ: “Con ta chưa hề nói dối, cũng chưa bao giờ làm một việc gì mà không tự lượng sức mình”, bèn thận trọng nói:

- Con nên nhớ là “Pháp bất vị thân”, một lời nói ra giữa triều đình như dao chém đá. Con hỡi! Thế giặc mạnh vô cùng. Con liệu có đương nổi với lão phù thủy ấy không?

Thái tử Hiền trí nghiêm cung đáp:

- Thần nhi xin đem hết sức mình.

Đức vua chẳng đặng đừng, từ chín bệ, thân hành trao chiếc gươm lệnh cho Thái tử, phong làm Tây chinh Đại nguyên soái, điều động ba muôn binh mã.

Nhận gươm vàng, Thái tử phủ phục tâu:

- Xin Hoàng thượng anh minh! Không điều động binh mã thì triều đình bất an, điều động binh mã thì lòng người lo sợ. Thần nhi thấy chẳng có kế sách vẹn toàn.

Như một tảng băng lạnh rơi xuống cung phòng, Đức Vua và bá quan cả kinh thất sắc, chẳng hiểu Thái tử muốn gì.

Hiền Trí chậm rãi nói:

- Mây thành, sao chổi xuất hiện là điềm triệu trong nước có loạn biến. Đấy là mệnh trời, sức người không cưỡng được. Suốt một tuần nay, thần nhi xem thiên văn thì thấy đế tinh của phụ hoàng quả có đám vân thạch từ tây bắc uy hiếp. Tuy thế, đến ngày thứ sáu, đám vân thạch kia lu mờ, rồi chìm mất dần dần. Chân tinh của phụ hoàng vẫn sáng rỡ rỡ, tối thiểu cũng còn được mười hai năm nữa.

Đức Vua thở phào nhẹ nhõm

Thái tử tiếp lời:

- Do vậy, muôn tâu, thần nhi ra đi trong bước viễn chinh, lấy đức “nhân” làm đầu, tránh nghiệp sát cho lê thứ, nên chỉ xin mang theo vài mươi tráng sĩ tùy tùng huynh đệ.

Đức Vua cau mày, thận trọng khẽ nhắc lại:

- Thế giặc quá mạnh.

Thái tử mỉm cười:

- Muôn tâu, xin phụ hoàng an tâm, thần nhi đã chuẩn bị đâu vào đấy cả rồi.

Lời nói vừa dứt, hai mươi tuấn mã xuất hiện trước vương cung. Đức Vua và bá quan đồng bước ra xem. Hai mươi tráng sĩ binh giáp, khí giới sáng lòa đồng phi xuống một lượt, gươm tuốt trần, khí vũ hiên ngang, thần oai lẫm lẫm đồng nghiêng mình hô lớn:

- Thánh thượng vạn tuế!

Âm thanh rần rật bốc cao như chấn động cả chín tầng mây.

Đức Vua xứ Ba-la-nại thấy dáng dấp hai mươi tráng sĩ oai hùng quá cũng bớt lo ngại phần nào, nhưng với chừng ấy chiến sĩ thì làm sao đương nổi với giặc dữ ở biên thùy?

Thái tử Hiền Trí dường như đoán được điều ấy nên nói:

- Phụ hoàng hãy chờ nghe tin chiến thắng.

Đức Vua ân cần nắm tay Thái tử, từ giã...

Đoàn kỵ mã lao đi như gió cuốn. Một lúc, phía chân trời xa chỉ còn thấy một đám bụi mờ.

Hai mươi mốt chiến mã phi suốt ngày đêm, vượt qua năm con sông, mười hai dãy núi thì đến trấn thành gần nhất.

Thái tử đứng trên một ngọn đồi cao nhìn xuống một biên thành đang bị giặc chiếm. Nhà cửa cây cối còn nghi ngút cháy trong đám lửa tàn. Từng toán người chạy loạn bồng bế nhau về hướng đông, tiếng gào khóc kêu la vọng lại.

Thái tử chợt se mình, đau xót cho đám sinh linh vô tội. Hồi lâu, như đã quyết định, Thái tử quay qua đám tùy tùng tráng sĩ, cất giọng nghiêm hòa:

- Hỡi chư tráng sĩ huynh đệ! Thầy ta vốn là một đạo sĩ ẩn danh ở núi Nguyệt Đàn, nơi tịnh cư của những tiên ông đắc đạo. Bấy nay ta chỉ được học về thiên tháp nên chưa hề móng tâm khởi ác niệm. Hôm nay, vì sự an nguy của xã tắc, sự hạnh phúc sống còn của bá tánh, ta đành gánh chịu hậu quả mai sau để sử dụng “sát đao”!

Hai mươi tráng sĩ đồng thanh hô:

- Thái tử nhân đức vạn tuế!

Thái tử Hiền Trí lại thở dài:

- Huy động binh mã, sử dụng đao kiếm, cung thương là chuyện bất đắc dĩ. Con đường của các đấng Chuyển Luân Vương thuở trước bao giờ cũng lấy trí, đức, nhân mà cảm hóa lòng người. Này chư tráng sĩ mến yêu! Chúng ta đã cùng nhau tập tành kiếm cung võ nghệ, tất cũng có lúc hữu dụng. Dẫu là hữu dụng, nhưng anh em luôn luôn nhớ rằng, nếu có thành công, ấy cũng chỉ là phương cách hạ thừa đấy thôi! Thật là đáng hổ thẹn nếu chúng ta đắc chí về điều ấy.

Hai mươi tráng sĩ lại hô lớn:

- Chúng tôi hiểu, hoan hô Thái tử nhân đức!

Thái tử mỉm cười, lấy từ sau vai ra hai mươi mũi tên vàng, lần lượt trao cho từng người rồi nói:

- Tuyệt đối không đụng đến lê dân. Tuyệt đối không đi theo con đường cường bạo. Phải tốc chiến, tốc thắng. Hai mươi mũi tên vàng “hoàn tiễn” kia cùng bắn ra một lượt ngay trái tim của lão phù thủy. Chuyện còn lại cứ để phần ta.

Hai mươi mốt chiến mã lại tức tốc xuống đồi. Ngựa phi vun vút, dường như chỉ dính trên đầu cỏ. Đến canh hai, đoàn phi mã đã đến cổng thành. Ngựa Thái tử chợt bay về phía trước như mũi tên. Thái tử rút thanh đại đao khuya mấy đường, cánh cửa sắt dày rã ra như củi mục. Đoàn phi mã phía sau không dừng vó, bay thẳng đến một tòa lâu đài đang còn sáng ánh đèn.

Quân canh mặt thành hốt hoảng báo động. Khắp nơi nhốn nháo, hỗn loạn, hát ca, đàn sáo chợt im bặt. Một lúc chợt có đám lửa to bay lên đài cao, hiện thành hình người xõa tóc, tung một nắm cát lên trời.

Thái tử vỗ tay. Hai mươi mũi tên vàng lướt đi xé gió ghím trúng tim của lão phù thủy. Nhưng từ đó, một cánh đại bàng vỗ cánh bay mất.

Thế là lão phù thủy thoát được thân nhưng Thái tử lại thu được thành. Quân giặc cởi giáp quy hàng. Thái tử bình định lòng người và vỗ về, an ủi dân chúng.

Thế rồi, Thái tử và hai mươi tráng sĩ không nghỉ ngơi, đáp suối băng sông, lần lượt chiếm lại mười thành chỉ trong tháng thứ nhất. Lưỡi đao thiên pháp của Thái tử và hai mươi mũi tên vàng “hoàn tiễn” của tiên ông núi Nguyệt Đàn vốn là khắc tinh của yêu ma hạ giới. Lão phù thủy bó tay chạy về cứ địa cuối cùng.

Hôm kia, Thái tử chợt dừng vó ngựa vô địch, ngẩng đầu nhìn trời rồi buột miệng nói:

- Ta sắp bị lâm nạn rồi!

Khi quay lại, từ các phía chân trời, cờ xí phấp phới như sao sa.

Hai mươi tráng sĩ chết sững trên mình ngựa. Họ hoàn toàn bị vây chặt ở giữa lòng chảo. Mọi người cả kinh đưa mắt nhìn nhau.

Nhưng không, đó là mười vị quan biên trấn cảm kích Thái tử đã giải vây nạn binh đao nên họ đồng lòng triệu tập quân dân mấy vạn người đến suy tôn Thái tử lên làm Phó Vương.

Hai mươi tráng sĩ nhảy xuống ngựa, hợp cùng đoàn người tung hô:

- Đức Phó Vương vạn tuế!

Nỗi vui mừng của vạn người như một. Âm thanh vang động tưởng làm cho núi đổ, thành xiêu. Thái tử đứng cao trên một tảng đá, dõng dạc nói:

- Hỡi chư quan, binh sĩ và muôn dân! Ta rất cảm kích trước tình cảm mến mộ mà mọi người dành cho ta. Từ chối chức vụ Phó Vương là ta phụ lòng mọi người. Mà phụ lòng mọi người tức là “bất nhân” vậy.

Cả muôn người lại hô:

- Phải rồi! Đức Phó Vương vạn tuế!

Thái tử phất cánh chiến bào cho đám đông im lặng rồi cao giọng tiếp tục:

- Nhưng mà ta ra đi là theo lệnh phụ hoàng. Khi chưa được chiếu chỉ của phụ hoàng mà nhận chức thì ta sẽ thành người “bất hiếu”. Nhận thì bất hiếu, không nhận thì bất nhân, thử hỏi bây giờ ta phải xử lý sao cho ổn thỏa?

Mọi người ngơ ngác. Họ không biết làm thế nào để cho tròn đạo lý.

Thái tử mỉm cười:

- Vậy để khỏi phải bị mang tiếng bất nhân thì hãy cho ta hẹn lại một thời gian. Muốn khỏi mang tiếng làm người bất hiếu thì hãy để ta đợi lệnh của Vương phụ.

Trong lúc mọi người vỗ tay rầm rập tán thưởng lối xử trí khéo léo của Thái tử thì một trang kỵ mã phi ngựa đến. Ngựa chưa tới, mà tiếng nói đã tới:

- Hoàng thượng có chiếu chỉ! Hoàng thượng có chiếu chỉ!

Trang kỵ mã người nhuốm đầy bụi, nhảy xuống ngựa, thò tay lấy cuốn giấy ra, hét lớn:

- Quan dân biên trấn phụng chiếu mệnh!

Không ai hiểu chuyện gì nhưng cũng qùy xuống, Thái tử quỳ theo.

Trang kỵ mã hùng hồn đọc:

- “Không có lệnh của trẫm mà hoàng nam Hiền Trí tự động kéo theo hai mươi thuộc hạ đến miền Tây bắc liên lạc với giặc để mưu chuyện phản nghịch. Truyền cho quan và dân biên trấn hãy trảm đầu tên tặc tử. Ai lập được công này sẽ được thưởng một trăm ngàn đồng tiền vàng. Ai bất tuân hoặc cưỡng lệnh sẽ bị tru di chín họ. Khâm thử”.

Không ai tin ở tai mình.

Hai mươi tráng sĩ thân tín biết lời tiên tri của Thái tử đã hiệu nghiệm, khuôn mặt tái ngắt. Mọi người bàng hoàng kinh sợ. Thái tử trầm tĩnh đứng dậy, xem lại chiếu chỉ. Trang kỵ mã phụng chiếu nhà vua đứng chống nạnh quát thảo om sòm nhưng chẳng ai nhúc nhích vì cái chiếu chỉ phi lý kia. Nhưng một trăm ngàn đồng tiền vàng là số tiền quá lớn, có thể sống giàu sang nhiều đời nên cũng làm tối mắt một số người.

Lâu lắm, có một người bước ra giữa tiếng la ó, thóa mạ của đám đông. Y huơ đao.

- Hãy xem lại - tiếng một người hét to - biết đâu là chiếu giả!

Thái tử lắc đầu:

- Không phải chiếu giả đâu. Ta biết. Đúng là ngọc ấn của Phụ vương ta.

Mọi người lại im lặng, bàng hoàng.

Thái tử cất giọng ôn nhu:

- Hỡi chư quan, binh sĩ và muôn dân! Các ngươi hãy thi hành chiếu chỉ của Phụ vương ta. Đừng vì yêu mến ta mà trái phép nước. Các ngươi mà trái phép nước thì thảm họa sẽ rơi xuống đầu chín họ. Một mình ta mất đi mà đổi lại các ngươi được an lành thì thân ta cũng còn đáng giá lắm vậy.

Các quan đồng quỳ xuống:

- Không thể được, hỡi Thái tử nhân đức! Thái tử không thể chết được!

Thái tử mỉm cười trấn an:

- Sống, ta chưa nghĩ rằng vinh. Chết, ta chưa nghĩ rằng nhục. Bao giờ tấm lòng ta cũng tròn đầy vành vạnh như nhật nguyệt giữa trời cao. Các ngươi không lấy đầu ta thì làm sao tránh khỏi họa lớn vào thân?

Thái tử tháo chuỗi ngọc ra:

- Ngoài tiền thưởng hậu hỷ, ta biếu thêm xâu chuỗi ngọc vô giá này cho ai vâng lệnh chiếu chỉ.

Một người nữa bước ra, nhìn xâu chuỗi ngọc, khoa đao lên. Một hồi, y quăng đao, nức nở khóc:

- Thái tử kính mến ơi! Làm sao có thể vì đồng tiền mà xâm phạm đến ngọc thể của người!

Một kẻ nữa bước ra, nhưng rồi y cũng quăng đao:

- Thái tử nhân đức ơi! Mặt trời kia sẽ tắt mất và quả đất này sẽ tối tăm vĩnh viễn!

Thái tử lại tháo thêm chiếc vòng nữa:

- Thêm vòng kim cương vô giá cho kẻ chu toàn chiếu mệnh.

Thế là cuối cùng có tên đồ tể tự bịt hai mắt mình bằng một vuông vải đen, bước ra, đưa thanh đại đao lên...

Hoàng tử Nguyệt Diện, tức là em kế của Thái tử Hiền Trí, bốn, năm hôm sau mới nhận được tin anh đã ra đi, tức tốc vào cung rút thanh đao báu, ngựa chẳng kịp thắng yên, phi luôn ra hướng tây, nhưng cửa thành đã đóng chặt. Quan thủ thành nói:

- Lệnh của Thượng hoàng là từ giờ phút này “nội bất xuất, ngoại bất nhập”, xin Hoàng tử lượng thứ cho hạ quan.

Nguyệt Diện bản chất hiền lành, tuy hậm hực trong lòng nhưng không nổi nóng, phi ngựa đến gặp vua cha, quỳ xuống tâu:

- Xin Phụ vương cho phép hoàng nhi được theo anh con ra quan ải.

Đức Vua không chuẩn lời, nhưng Hoàng tử năn nỉ quá buộc phải ưng thuận.

Hoàng tử Nguyệt Diện mừng rỡ nói:

- Vậy thì Vương phụ xuống chiếu cho quan thủ thành phía tây mở cổng gấp cho hoàng nhi lên đường.

Đức Vua trợn mắt hỏi:

- Sao lại phải xuống chiếu?

Nguyệt Diện trình bày tự sự.

Vua ngạc nhiên quày quả bước vào triều nội, triệu tập các quan hỏi nguyên do. Mọi người ngơ ngác chẳng rõ nguồn cơn. Không kịp mặc long bào, Đức Vua cho đánh xe ra cửa thành tây.

Quan thủ thành sửng sốt:

- Hạ thần nào dám không tuân, khi chiếu chỉ chính là ngọc ấn của Hoàng thượng?

Hoàng tử Nguyệt Diện trực giác mách bảo, khóc òa lên:

- Thôi rồi, tâu Phụ vương! Thế chắc Hoàng hậu đánh cắp ngọc ấn, giả chiếu chỉ, thực hành thủ đoạn mờ ám với Thái tử đang ở ngoài biên trấn.

Đức Vua sực nhớ lại đôi mắt long lên căm hờn của Hoàng hậu độ nọ sau khi thất vọng trong việc xin phong Đông cung Thái tử cho Nhật Diện. Nhà vua hối hả đến hậu cung, nhưng Hoàng hậu ngọc thể bất an đang thiêm thiếp trên giường bệnh không tiện hỏi han.

Trên đường trở về triều, Đức Vua rối trí chưa biết tính sao thì thấy một chàng kỵ mã thương tích đầy người vẹt vào từ cửa thành tây - khi ấy đã mở - rồi té xuống, máu tuôn xối xả. Nhận ra kẻ tùy tùng của mình, Nguyệt Diện chạy lại. Chàng kỵ mã gượng đưa cánh tay lên chỉ về phía tây, lắp bắp, phều phào:

- Chiếu chỉ ... chiếu chỉ giả ... trảm đầu Thái tử ... đã ra đi ... mấy ngày trước ...!

Nói xong, y thở hắt ra, ngoẹo đầu tắt thở.

Thế là đã rõ mọi chuyện. Hoàng tử Nguyệt Diện hét to lên, búng người bật cao, con long câu cất tiếng hí vang, dậm chân, dựng bờm lên, thót mình lao đi loang loáng. Đức Vua xứ Ba-la-nại bần thần nhìn theo cái chấm đỏ đã khuất xa ngoài hoàng thành mà ruột đau đòi đoạn.

Mặc dầu ngựa phi như gió cuốn với sức thần mã vô địch, Nguyệt Diện vẫn thấy chậm. Chàng ôm siết đầu ngựa vỗ về:

- Này con yêu quý! Gắng lên nữa, gắng lên nữa để kịp cứu người anh kính trọng của chúng ta!

Thần câu như hiểu tiếng người, hí một tràng giữa hư không, mồ hôi máu rịn ướt chùm lông đỏ rực, bên tai Hoàng tử chỉ còn nghe gió thổi vù vù. Núi đồi, sông suối, cây cối, ... chạy giật lùi ... chạy giật lùi ...

Đói không ăn, khát không uống, sáng hôm sau thần câu đã ngốn hết quãng đường hai ngày ngựa. Hoàng tử rẽ cương theo sườn đồi dẫn đến biên thành thứ nhất thì thấy một toán quân bịt mặt hùng hổ với khí giới nhảy ra chận đường. Hoàng tử rút thanh bảo đao hét lớn:

- Ta biết chúng bây là ai rồi, bịt mặt vô ích. Mưu kế của Hoàng hậu bị lộ rồi! Hãy dạt ra, ta sẽ tha cho mạng sống.

Đây là toán quân theo mật lệnh của Hoàng hậu cốt ý ngăn trở thông tin ở chiến trường. Chính họ đã đụng độ với trang kỵ mã thân tín của Hoàng tử Nguyệt Diện khi y tình cờ khám phá ra âm mưu của Hoàng hậu. Thấy Hoàng tử, họ sợ hãi đứng im. Họ lại biết rằng, với vài chục tên lính quèn thì không thể chống nổi võ nghệ siêu phàm và thanh bảo đao vô địch của Hoàng tử.

- Hãy trốn đi - Hoàng tử thương hại nói - trở về làng mạc xa xôi mà sinh sống, sau này khi tình hình lắng dịu rồi, hãy trở lại trình diện ta, ta sẽ xóa cho cái tội này.

Cả toán quân đồng buông khí giới, phủ phục dưới chân ngựa của Hoàng tử:

- Chúng con xin tri ân Hoàng tử nhân đức.

Hoàng tử phất tay, nói lời phủ dụ, rồi ngựa lại lao đi đến chỗ biên thành. Dấu tích chiến trường còn âm ỉ trong đám tro tàn. Muôn dân bá tánh lần lượt bồng bế nhau trở về. Tin từ các ngã đường vang lên rộn rã:

- Thái tử nhân đức của chúng ta đã lấy lại trấn thành thứ ba.

- Vài hôm trước đây, lão phù thủy đã biến thành con rắn bảy đầu về trấn thủ tòa thành thứ năm rồi.

Hoàng tử cảm thấy yên trí. Người và ngựa được nghỉ ngơi, ăn uống dưỡng sức rồi tiếp tục con đường thiên lý.

Tin tức từ cực tây bay về tấp nập:

- Thái tử đã thu hồi trấn thành thứ sáu rồi!

Lòng Hoàng tử vui lên rộn rã. Ngựa lại phi, lại nghỉ ngơi, lại lên đường. Mấy hôm sau, Hoàng tử lại nghe tin:

- Dân chúng đã mở hội liên hoan ở trấn thành thứ chín rồi!

Ôi! Tin tức chiến thắng còn đi nhanh hơn thần mã. Hoàng tử vui mừng khôn xiết, nhưng chợt nhớ là vẫn chưa bắt kịp bóng người mang chiếu chỉ giả, lòng lại nôn nóng, ngựa lại bay đi.

Mấy hôm sau, đến biên thành thứ mười. Thái tử cũng vừa chiến thắng, lão phù thủy mang vết thương trí mạng hoá thành con mãng xà ba đầu, máu tuôn kéo dài mấy quả đồi tranh. Sức thần câu giờ đã lên đến độ chót, hí vang khi bay qua những chiếc cầu bị sập cheo leo trên vực thẳm.

Các ngả đường, dân chúng rầm rộ kéo đi, cờ xí tung bay như bươm bướm. Đây là toán người cuối cùng đi tấn phong Thái tử lên làm Phó Vương.

Đám đông vây quanh một thung lũng. Cả rừng người yên lặng như tờ. Chợt trước mắt chàng, một bóng kỵ mã từ ven đồi lướt nhanh xuống như dây khói. Con thần câu hiểu ý chủ, hí lên một tràng lồng lộng giữa hư không. Nó đã bỏ mặt đất và bay qua đầu rừng người cho kịp bóng kỵ mã phía trước ...

Khi gã đồ tể bịt mắt nghiến răng khua đao bổ xuống đầu Thái tử thì một con thiên mã đỏ rực như lửa tự trời cao sa xuống. Một thanh đao như làn ánh sáng bay đến xẻ gã đồ tể ra làm hai. Đà đao đi nhanh xuyên luôn bụng chàng kỵ mã mang chiếu chỉ rồi găm sâu vào thân cây. Chuôi đao rung rinh không vấy một tí máu nào.

Biến cố xảy ra quá nhanh, quá đột ngột, như giấc mộng kinh hoàng của Thần Ảo Hóa.

Con long câu rực lửa dựng bờm hí một tràng dài chiến thắng.

Hoàng tử Nguyệt Diện lao xuống, chạy đến ôm Thái tử Hiền Trí, khóc nức nở. Hồi lâu, Thái tử khẽ nói:

- Hỡi em yêu quý! Ta cùng hai mươi tráng sĩ đánh chiếm mười thành, đuổi lão phù thủy gian ác mà chẳng làm đổ một giọt máu của lê dân. Em vì thương ta mà trong một lúc giết cả hai mạng người. Việc này ta biết ăn nói làm sao đây, hỡi em!

Hoàng tử Nguyệt Diện quỳ lạy như thế sao.

Một vạn người đồng quỳ xuống xin hộ.

Thái tử khuôn mặt lạnh như tiền, đến thân cây rút đao ra, nhìn mọi người rồi nói:

- Hỡi chư quan, binh sĩ và bá tánh! Gã đồ tể vì được sự khích lệ của ta, y không phải tội chết. Người mang chiếu chỉ giả vì tuân lệnh Hoàng hậu nên cũng chưa đáng tội chết. Em ta vì tình vì nghĩa trung trinh mà cứu ta thì đâu có đáng tội chết. Do đó, bởi ta, vì ta mang nghiệp nặng nên phải lụy đến bao người.

Thái tử lại quay qua Nguyệt Diện:

- Đây là một bài học mà em nên ghi nhớ nằm lòng, tuyệt đối không được giết người. Nếu khi giết người vì lý do chính đáng thì coi như là ta đã đoạn lìa cánh tay trong cùng một thân thể vậy.

Nói xong, Thái tử huơ đao chém lìa cánh tay trái của mình. Máu tuôn có vòi! Mọi người thảy đều run sợ, khắc cốt ghi tâm bài học của người Hiền Trí.

Thái tử buộc lấy vết thương cùng ngồi chung với Nguyệt Diện nhận cuộc mừng vui chúc tụng của bao người, rồi khuyên họ trở về. Hai Thái tử cùng hai mươi tráng sĩ lại lên đường đến trấn thành thứ mười một. Lão phù thủy đã trốn khỏi nơi này nên quan trấn thành và dân chủng thỉnh mời họ vào thành nghỉ ngơi. Đêm ấy Hiền Trí dẫn Nguyệt Diện lên vọng lâu xem thiên văn.

Thái tử nói:

- Em hỡi! Lão phù thủy kia mang vết thương nặng, trọn đời này y không thể làm gì được nữa. Hãy tha cho y mạng sống, chẳng nên đuổi cùng, giết tận. Đó là đức hiếu sinh của trời đất. Còn hai thành nữa dẫu chưa phục hồi nhưng giặc cũng tự động tiêu tan. Như vậy, quốc độ sẽ thái bình, muôn dân sẽ không còn ách nạn nữa.

Vỗ vai Nguyệt Diện, Thái tử tiếp lời:

- Từ nhỏ chí lớn sống trên nhung lụa, em chưa hề gặp chuyện bất trắc, trái ngang trên cuộc đời. Dẫu em có theo ta học hỏi được ít nhiều, nhưng ít nhiều ấy có giúp em vượt qua những khó khăn và gian khổ của chặng đường trước mặt không?

Nguyệt Diện dường như hiểu một vài phần, dè dặt hỏi:

- Hoàng huynh định đi đâu?

Hiền Trí chỉ ngón tay lên trời:

- Anh đã xem khí tượng thiên văn thì có thể chúng ta sẽ trải qua mười hai năm gian truân cơ khổ. Em còn nhỏ tuổi quá, biết có đủ sức chịu đựng với nghị lực dài lâu để cùng anh ra đi sống đời nổi trôi vô định chăng?

Nguyệt Diện gật đầu mạnh mẽ:

- Có thể được. Ở bên anh, ở với anh, em có thể quẳng chiếc hoàng bào đổi manh áo vải, có thể ném đôi hài vương giả lấy đôi dép cỏ của kẻ bần dân. Như vậy thì có sá gì đói rét lầm than nếu cuộc ra đi kia là chính đáng?

Hiền Trí cười ha hả:

- Đúng vậy, em nói hay lắm! Câu hỏi xác đáng lắm! Nhưng nếu nó có lý do chính đáng thì sao?

- Anh cứ nói đi - Nguyệt Diện nghiêm trang thúc giục - Chính đáng sao được khi Vương phụ đã già và lúc trăm họ chưa được thái bình, an lạc?

Hiền Trí gật đầu:

- Phải rồi! Nhưng mẫu hậu không dung được hai ta thì làm thế nào? Còn ta, Vương phụ sẽ không giữ được lời hứa xưa mà thành ra người bất tín! Còn ta, mẫu hậu sẽ còn tìm cách giết hai ta để bà thành người thất đức, bất nhân. Cứu cái tín, cái đức, cái nhân cho hai vị, phải chăng là việc làm không đúng với đạo làm người?

Nguyệt Diện đuối lý nhưng khuôn mặt đã rạng rỡ hẳn lên. Hiền Trí tiếp:

- Hai ta cởi áo từ bỏ điện vàng chắc người đàn bà kia sẽ không còn đi sâu vào con đường tội lỗi nữa. Nhật Diện sẽ lên ngôi Thái tử và sau này trị vì thiên hạ cũng trở thành vị minh quân. Vậy chúng ta đi đi thôi! Phụ hoàng và Nhật Diện có nhớ thương hai ta thì thời gian vẫn là phương thuốc nhiệm mầu nhất, phải thế không em?

Sáng ngày, khi sao mai vừa mọc, hai chàng trai đã lên đường để lại hai bức tâm thư và hai chiếc hoàng bào cùng tất cả ngọc vàng trang sức, bảo đao quý báu trên người. Một bức thư gửi hai mươi chàng tráng sĩ đem về cho Đức Vua để nhận trọng thưởng, một bức gửi vua cha, khuyên vua cha lấy thiên pháp trị dân, vỗ an bá tánh, giảm thuế má và tha tội tù. Tuy nhiên, hai mươi chàng tráng sĩ vì tình nghĩa trọng hậu với Thái tử, trao lại tín thư, tín vật nhờ quan biên trấn cử người mang về triều, còn họ từ bỏ chức vụ, sống đời mai danh ẩn tích...

Ra đi chỉ vì một nghĩa cử cao cả, một tấm lòng cao cả, hai chàng trai không bạc tiền, không sự nghiệp, tứ cố vô thân, nhưng không vì thế mà họ cau mày. Từ chỗ cực đỉnh giàu sang, nhung lụa, bây giờ với manh áo vải, đôi dép cỏ, họ cũng sinh sống được qua ngày với niềm thanh thản ở trong lòng.

Hai anh em vốn là người học vấn uyên thâm, tự tin cao độ, nhưng khi ra đụng chạm với đời thì than ôi, vốn liếng kia không thể đổi lấy một bát cơm! Khắp nơi dường như người ta cần cái gì khác. Đâu cũng đầy dẫy lọc lừa, trí xảo, man trá, độc ác và chẳng có tình thương! Và đạo đức lương tri là một món xa xỉ phẩm mà người ta đã chẳng còn mang ra buôn bán trao đổi giữa chợ đời! Họ cần cái thiết thực hơn: cơm áo và tiền bạc. Chỉ có tiền bạc và áo cơm thôi, còn kinh thư và minh triết người ta phế thải lâu rồi. Ở trong cung vàng điện ngọc, hai chàng tưởng rằng muôn dân đang sống trong cảnh hạnh phúc, thái bình. Té ra đấy chỉ thuần là từ ngữ, chữ nghĩa ở trên lời tấu trình, ở trong các văn kiện có dấu triện son. Nó chỉ có giá trị như một lớp sắc màu tô vẽ bên ngoài cho óng chuốt, còn bên trong, chính Thần hoan hỷ và Thần tự tại cũng phải nhăn trán ưu tư!

Chỉ mới hai năm mà họ học được nhiều quá. Những hiểu biết của họ bị đảo lộn hoàn toàn. Có một số thánh thư, cổ thư của các đấng hiền triết bị thế gian chế biến thành bùa chú, ngải nghệ để thỏa mãn tham vọng trần tục. Tâm hồn hai chàng trai trẻ chợt chùn lại trước sự thật phũ phàng của đời sống.

Hôm kia, chán nản quá, họ rủ nhau đi lên một ngọn núi cao. Hiền Trí đưa tay chỉ ra bốn phương trời:

- Đấy là quê hương nhung gấm, ngà ngọc của tổ tiên, bây giờ chỉ còn sót lại mơ hồ trong trí tưởng chúng ta mà thôi. Sự thật ấy nó khác, phải không em?

Nguyệt Diện buồn bã gật đầu.

- Em hỡi! Hiền Trí tiếp lời - Ta, trước đây từ thiên pháp mà về thì bây giờ ta cũng sẽ từ thiên pháp mà đi. Vậy bắt đầu từ đây, anh muốn chúng ta sống đời đạo sĩ ẩn dật, em nghĩ sao?

Nguyệt Diện thẩn thờ nhìn ra xa xăm, không đáp vội. Cũng như anh, chàng đã thấm thía cuộc đời. Hơn hai mươi nghề chân tay mà hai người đã lăn thân vào để kiếm sống. Khó khăn gian truân vậy, nhưng đâu phải vì thế mà họ chán nản, đau lòng? Vấn đề là, họ thấy cuộc đời này chẳng còn tim óc, ở đâu cũng thấy bản năng và thân xác giành giật, cấu xé nhau! Mọi giá trị, mọi ý nghĩa thiêng liêng tôn quý trên thế gian này đã bị đánh mất thật sự rồi!

Nguyệt Diện nói to:

- Có lẽ chúng ta chỉ an lạc được khi sống đời ẩn dật mà thôi!

Hừng đông hôm sau họ xuống chợ mua ít dầu và muối để chuẩn bị cho cuộc lên non thì tình cờ gặp lại Nhật Diện trong hình dáng một gã ăn xin. Phải khó khăn lắm cả ba mới nhận ra được nhau vì họ đã không còn dấu tích vương giả nào sót lại trên người. Ôi! Sung sướng đến lịm người, mà ngỡ ngàng, tê tái cũng làm cho họ ngất đi!

Sau một hồi khóc lóc, họ tìm chỗ khuất vắng để hàn huyên. Nhật Diện kể:

- Vương phụ nhận được thư và tín vật của hai anh gửi về thì ngã bệnh. Mẫu hậu một lần nữa đánh cắp ngọc ấn, giả chiếu chỉ phong em lên ngôi Vương để bà cầm quyền nhiếp chính. Giết anh không được, sợ hậu hoạn mai sau, bà thưởng tiền cho năm trăm hiệp sĩ lên đường tìm kiếm hai anh để thủ tiêu. Em buồn quá, nghĩ cảnh máu huyết tương tàn mà đứt ruột! Chỉ tại em, cùng vì em có mặt trên đời này mà xảy ra cớ sự. Em định treo cổ chết cho xong thì may thay gặp được một trang tráng sĩ từ xa về, khẩn thiết bảo em tìm cách cứu hai anh. Em hỏi: “Ngài là ai? Người ấy đáp: “Hạ thần là một trong hai mươi tráng sĩ thuở trước cùng đi viễn chinh với Thái tử”. Em tin ngay, lại hỏi: “Làm sao ta cứu hai anh trai của ta được?” Tráng sĩ bảo: “Mười chín anh em của chúng tôi đang tìm cách cầm chân họ lại bằng kế dương đông kích tây. Họ đều là kẻ tham tiền, vậy Hoàng tử phải tung tiền bạc ra cho thật nhiều, mua chuộc họ, thay vì đi giết hai anh thì họ phải bằng mọi cách tìm ra cho được tung tích hai anh”.

Y kế ấy, họ cùng hai mươi tráng sĩ đã lần ra được các anh đi về phương này. Nóng lòng quá, em từ bỏ tất cả, lặn lội ra đi. Gần hai năm, tư trang tiền bạc tiêu pha hết sạch, đành phải làm nghề ăn xin. May thay! Lạy chư thần cao cả! Trời cao đã không phụ lòng người!

Nhật Diện kể xong, lại khóc, lại cười. Nguyệt Diện nắm chặt tay em nói:

- Ôi! Em tôi đã trải qua biết bao nhiêu là cơ cực! Mà sao em không ở lại làm vua? Em làm vua cũng đúng theo sở nguyện của hai anh mà?

Nhật Diện lắc đầu:

- Em không biết. Mà sung sướng gì cái ngôi vua ấy. Thiếu vắng hai anh, em không chịu được, phải đi tìm thôi.

Hiền Trí ân cần nói:

- Việc xảy ra như thế là dấu hiệu tốt. Cơ trời huyền nhiệm lắm, các em chưa rõ đâu. Bây giờ chúng ta nên làm đạo sĩ hết, các em có đồng ý không?

Nhật Diện bằng lòng. Thế rồi họ cùng cắt tóc, khoác áo đạo sĩ, lên đường...

Nơi này không yên tịnh, ba thanh niên đạo sĩ sống một năm thì ra đi. Nơi này không tốt về khí hậu, một năm sau, bà chàng lại ra đi nữa. Chưa đầy năm năm, họ đã đạp qua suốt mấy cánh rừng miền tây nam quốc độ. Hôm kia, tìm được một khu rừng yên tĩnh, mát mẻ, nhiều cây trái, họ định dừng chân vĩnh viễn ở đây để tu tập mà không sợ bị “loài người quấy nhiễu”.

Hiền Trí nói với hai em:

- Đây là nơi tốt nhất cho việc tịnh cư của chúng ta. Vậy hai em hãy đi tìm một ít trái cây và nước uống để chuẩn bị cho nhiều ngày tham thiền nhập định.

Nhật Diện chạy nhảy tung tăng giữa rừng hoa thơm ngào ngạt, chim hót rộn ràng làm cho tâm hồn nhẹ lâng, yên ả. Đến một hồ nước, đẹp quá, hoa súng ngũ sắc khoe nở khắp nơi, Nhật Diện lội xuống định tắm rửa và đùa chơi, nhưng liền bị một con Dạ-Xoa- nước bắt giữ và giam vào thủy cung. Nguyệt Diện vừa hái được một giỏ trái cây, qua hướng này tìm em, lội xuống hồ nước cũng bị Dạ Xoa bắt giữ luôn.

Thấy lâu quá, linh tính về chuyện chẳng lành cho hai em, Hiền Trí rút đao chặt cây cầm tay ra đi. Xuống lưng chừng núi, thấy có chòm cây cối xanh rì, hương lạ xông ngào ngạt, một hồ nước trong xanh như mắt mèo, sen súng đua nhau nở thắm, lóng lánh sương.

Thái tử tự nghĩ:

“- Cảnh đẹp này thật khác thường! Có lẽ đây là cung điện của một loài phi nhơn nào đó”.

Chẳng dám kinh động, Thái tử đứng yên quan sát một hồi, thấy một trái cây rụng mà chẳng hề có ai ở chung quanh, lại thấy thêm một dấu chân lờ mờ đi xuống hồ nước. Thái tử lại đoán chắc rằng: “Hai em ta quả bị nạn ở nơi này”.

Đúng như Thái tử nghĩ. Nguyên đây là chiếc hồ mà Tỳ-Sa-môn Thiên Vương (Vessavana) cho một quỷ nước Dạ Xoa ở với lời dặn: “Trừ những người biết về thiên pháp (Devadhamma), còn tất cả những ai xuống hồ nước này, ngươi có quyền bắt ăn thịt. Những ai không xuống nước thì ngươi không có quyền”.

Dạ Xoa thấy Thái tử cứ đứng yên trên hồ có vẻ thận trọng, bèn hiện hình thành người thợ rừng nói:

- Nầy thiện hữu! Cầm thanh đao chặt cây và đứng làm gì vậy? Hồ trong xanh mát mẻ thế kia! Hãy cùng tôi xuống uống nước, tắm và bơi lội cho thỏa thích, ăn củ sen, củ súng rồi trang điểm bằng những đóa hoa ngũ sắc không thú vị sao?

Thấy người hiện bất ngờ, Thái tử biết đây là loài phi nhân, bèn quắc mắt nói:

- Đừng nên hại nhau, xâm phạm nhau, không tốt đâu. Bạn đã làm hại hai em ta rồi có phải không?

Biết đã lộ tẩy. Dạ Xoa nói:

- Ta chưa hại đâu, mới bắt giữ thôi.

- Tại sao ngươi dám bắt người? Ngươi có quyền gì? Hãy thả hai em ta, bằng không, sẽ không toàn mạng đâu!

- Sao lại không có quyền? Dạ Xoa cứng cỏi đáp – Tỳ-Sa-môn Thiên Vương cho ta cái quyền ấy. Ai xuống hồ nước là quyền sinh sát thuộc về ta.

Nói xong, Dạ Xoa cười đắc chí. Thái tử biết Dạ Xoa nói thật nên hỏi:

- Có ai xuống nước mà thoát khỏi luật ấy không?

Dạ Xoa chỉ cây đại thù vòng ôm mấy trượng nói:

- Có một con đại bàng bay qua đây, ỉa xuống một đám phân, một cái hạt nảy mầm, mọc lên thành cây đại thụ này. Từ bấy đến nay, chẳng có ai biết về thiên pháp. Con người thời nay đã quên hẳn con đường đi về cõi trời, chúng chỉ thích học con đường đi về địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh mà thôi!

Thái tử nghiêm giọng nói:

- Nếu ta biết rõ thiên pháp, biết rõ con đường đi về cõi trời thì sao?

Dạ Xoa nói:

- Đừng đại ngôn, ông bạn! Nếu ông bạn biết rõ thiên pháp thì ta sẽ đối xử như với một bậc Thầy Tối Thượng. Ta sẽ tắm cho nhà ngươi, cho ăn ngon, cho uống bổ, trang sức bằng vòng hoa mỹ lệ, thoa người bằng hương thơm của Cõi Trời, trải một tấm nằm bằng nệm lót chân của vua trời Đế Thích, trong một tòa lâu đài rực rỡ như chiếc kiệu của tỳ nữ Dạ Ma phu nhân!

- Vậy hãy làm như điều ngươi nói. Ta sẽ thuyết về thiên pháp, nói về con đường đến cõi trời.

Dạ Xoa y lời.

Thái tử Hiền Trí từ đài cao, sau khi thuyết giảng thiên pháp rồi, tóm tắt bằng kệ ngôn:

“Chuyên cần làm thiện hạnh

Tàm, quý đủ trong tâm

Bậc Chân Nhân an tịnh

Thiên pháp độ thế nhân”.

Nghe xong, Dạ-Xoa-Nước lấy làm hoan hỷ, kính cẩn quỳ xuống:

- Thưa bậc Hiền trí! Tôi cảm thấy tịnh tín đối với ngài. Hai đứa em của ngài tệ quá. Khi được hỏi về thiên pháp, một người nói, thiên pháp là Mặt trăng, là đức dịu hiền của Mặt Trăng! Một người thì trả lời, thiên pháp là bốn phương, trải rộng ra khắp bốn phương! Ai cũng nói quá mơ hồ, chẳng xác đáng và cụ thể như ngài đã thuyết. Như vậy, nếu tôi mà ăn thịt họ thì cũng đúng với lợi quyền mà Tỳ-Sa-môn Thiên Vương đã cho phép. Bây giờ ngài cần gì nơi tôi, cứ sai bảo!

Thái tử ân cần nói:

- Hãy cho ta xin lại hai người em.

- Ngài chỉ cứu được một. Dạ Xoa đáp.

Biết chẳng có cách gì hơn, Thái tử gật đầu:

- Thế thì trả lại cho ta đứa em út, người trẻ nhất.

Dạ Xoa chợt cười kỳ dị:

- Thưa ngài, không biết tai tôi nghe có lầm lẫn chăng! Ngài thuyết về thiên pháp rất hay, rất đúng, rất hoàn toàn. Nhưng tiếc thay, ngài không sử dụng đúng thiên pháp chút nào!

Thái tử ngạc nhiên:

- Không có chuyện đó đâu, nhưng ngươi cứ thử nói lên điều lầm lỗi của ta.

Dạ Xoa giận dữ:

- Sao ngài lại chọn người em mà bỏ người anh? Sao ngài không kính trọng tuổi lớn hơn của một người? Thiên pháp có bao giờ vì trí thiên vị mà không nhìn ra gốc ngọn? Vì tình thiên vị mà không thấy thứ tự trước sau?

Thái tử bình tĩnh kể lại câu chuyện cho Dạ Xoa nghe sự hy sinh của hai anh em cho người em cuối được lên làm vua như thế nào, rồi mỉm cười kết luận:

- Thế đó, này Dạ Xoa! Đừng vội vàng buộc tội ta quá sớm. Ta biết rõ thiên pháp và bao giờ cũng xử sự đúng thiên pháp. Ta lại còn khuyến hóa người khác sống theo thiên pháp nữa. Này nhé, chính vì người em ấy mà chúng ta sống ở rừng này. Chính vì hạnh phúc của đứa em ấy mà chúng ta cố gắng tránh chuyện nồi da xáo thịt. Bây giờ đứa em ấy lại vì chúng ta, bỏ tiền bạc ra cứu giúp chúng ta, lại còn khẳng khái phất tay từ bỏ ngai vàng sống đời ăn xin cơ khổ. Ngươi phải hiểu thêm một điều nữa rằng, thiên pháp ấy không phải chỉ cạn cợt ở nơi “lễ” mà còn ở nơi “nhân” và “nghĩa” nữa chứ!

Dạ Xoa cảm phục quá, quỳ lạy Thái tử rồi sau đó đem trả cả hai người. Thái tử cảm ơn Dạ Xoa, sau đó tìm cách khuyên lơn:

- Này bạn Dạ Xoa thân mến! Do kết quả việc ác mà bạn đã làm trong quá khứ nên nay mang thân Dạ Xoa, giết người để uống máu, ăn thịt. Do nhân ác từ kiếp này, trong tương lai, bạn phải bị nhiều quả báo đau khổ trong bốn đường dữ. Thiên pháp bạn đã hỏi ta, ta đã trả lời và bạn đã hiểu. Vậy sao bạn không mau mau cải ác tùng thiện để noi gương các bậc an tịnh Chân Nhân đã dạy bảo?

Thế là Thái tử nhiếp phục được Dạ Xoa, rồi sống ở rừng này với sự hộ trì của nó.

Một ngày kia, xem thiên văn, Thái tử biết thời hạn mười hai năm đã qua bèn kêu hai em lại nói:

- Mẫu hậu đã mệnh chung, không bao lâu Phụ vương cũng sẽ hết tuổi thọ. Vậy thì đã đến lúc hai em phải từ bỏ khu rừng để cùng nhau trở về gánh vác sơn hà xã tắc.

Cả hai Hoàng tử ngạc nhiên hỏi:

- Vậy anh yêu quý, anh không cùng về sao?

- Mấy lúc sau này, tâm ta đã quá đi sâu về thiên pháp, đã an trú vững chắc ở thiên pháp, không còn mảy may một móng khởi nào về các ước vọng trần gian kia nữa. Nói khác đi, tâm ta giờ đã tương ưng với các cảnh giới trong lành, an tịnh, không còn thích hợp với chỗ kinh thành vàng son huyên náo nữa. Hai em hãy về đi thôi, cho kịp giờ Phụ vương lâm chung. Quốc độ này không thể thiếu vắng hai em, thiếu vắng hai em thì giống như quả đất mà thiếu mặt trời, mặt trăng vậy.

Hai hoàng đệ khóc nức nở, quỳ sụp bên chân xin Thái tử cùng về.

Thái tử hết mực giãi bày:

- Không phải không nguyên nhân mà hai em có tên là Nguyệt Diện và Nhật Diện. Dường như nhân duyên sắp đặt cả rồi. Anh phải đi theo con đường của các bậc hiền trí nên có tên là Hiền Trí. Hai em là Mặt trăng, Mặt trời nên phải thay phiên nhau ngày đêm soi sáng sơn hà.

Thái tử còn nói lên ẩn nghĩa thâm sâu khác:

- Về quốc độ, Nguyệt Diện là anh nên phải làm vua, Nhật Diện là em nên làm Phó Vương. Thứ tự anh em đã phân chia như thế không thể đảo lộn được. Cũng thế, hai em nên nhớ rằng, luôn luôn cai trị muôn dân bằng tình, bằng lý. Tình trước, lý sau, nghĩa là đầy đủ con tim và khối óc, con tim đi trước, khối óc đi sau, nhu đi trước, cương theo sau. Nếu hai em làm được như thế, quốc độ này sẽ được hòa bình, an lạc trong vòng sáu mươi năm dài.

Khi tiễn hai em ra đến chân núi, thái từ còn dặn dò lần cuối:

- Hai mươi tráng sĩ theo ta đánh chiếm mười thành, dày công hãn mã, thế nhưng không chịu lãnh thưởng mà sống đời mai danh ẩn tích khi ta gặp nạn. Họ đều là người vừa có tâm, vừa có trí. Hai em nhớ mời họ về triều, cho trấn giữ các phương là hai em vững vàng như ngồi trên bàn thạch. Hãy nhớ vừa dùng “vương pháp”, vừa dùng “thiên pháp” là con đường của các vị Chuyển Luân Thánh Vương!

Hai Hoàng tử cúi đầu tuân mạng. Dạ Xoa nai nịt như vì thiên tướng hộ tống hai Hoàng tử về kinh đô Ba-la-nại sau bao năm xa cách.

Thái tử Hiền Trí leo lên đồi cao, nhìn theo hình bóng hai em nhỏ dần rồi khuất dần ở cuối chân trời xa. Chàng mỉm cười...

 


Thà sống hôi hơn chết sạch


Thuở xưa, có một con sư tử lông vàng chói, quý phái, đẹp đẽ, trú trong một hang núi ở Tuyết Sơn. Buổi sáng, nó vươn mình đứng dậy, vồ bắt những con thú lớn, lựa ăn những miếng thịt sạch sẽ, mịn màng, rồi đi đến hồ nước. Đây là một cái hồ quanh năm phô thắm hoa sen, hoa súng, nước trong và ngọt như suối trời. Sư tử thường hay uống nước, bơi lội và tắm rửa ở đây.

Trên đường đi và về như vậy, Sư Tử thường gặp các nhà tu khổ hạnh cũng hay đến hồ nước, uống nước và tắm giặt. Khi gặp họ, Sư tử thường hay tránh né, tự nghĩ:

“- Thịt của loài người này già, dai và hôi. Thật chẳng khoái khẩu chút nào khi phải nhai những xương và da còm cõi và nhăn nhúm ấy!”

Hôm kia, sau khi ăn và uống thoả mãn, Sư Tử gặp một chàng Heo rừng to lớn cũng xuống hồ uống nước. Sư Tử cũng tránh né nó, tự nghĩ:

“- Bây giờ ta đã no, hãy để dành tấm thịt kia vào một lúc khác; nếu thấy ta nó sẽ trốn mất”.

Heo rừng thấy Sư Tử tránh núp vào một lùm cây, lại nghĩ:

“- Thấy ta to lớn, oai nghi, đường bệ, dõng mãnh, chắc là nó sợ, chẳng dám đến gần. Nhưng dễ gì mà trốn chạy được? Hôm nay sẽ có cuộc đối địch vô tiền khoáng hậu giữa ta và nó”.

Bèn ngẩng đầu lên, cất tiếng rống của loài heo:

- Này bạn Sư Tử kia! Hãy đứng lại! Hãy ra đây! Chớ có sợ hãi! Bậc anh hùng không có sợ hãi!

Sư Tử vừa ngạc nhiên, vừa nực cười, nhưng cũng chậm rãi bước ra. Heo rừng lại cất giọng thách thức:

- Bạn là loài bốn chân, ta cũng là loại bốn chân. Bạn to lớn đẹp đẽ, ta cũng to lớn đẹp đẽ. Bạn oai hùng xưng bá một phương, ta cũng oai hùng xưng bá một phương. Vậy thì cơn cớ gì, gặp nhau, chưa thử sức nhau, bạn đã sợ hãi, co rúm, núp mình trong bụi cây?

Ngắm nghía con Heo rừng, ước lượng tầm thịt và mỡ, Sư Tử ẩn nhẫn nói:

- Phải rồi, ta và bạn đều là bậc anh hùng, đối địch với nhau xứng đáng lắm. Vậy thì sau bảy ngày, tại chỗ này, vuốt của bạn sẽ đọ với vuốt của ta. Hôm nay, sau khi ăn no, uống mát, tắm rửa sạch sẽ, ta muốn về nằm ngủ, không có thích đánh nhau.

Nói xong, Sư Tử bỏ đi. Heo rừng hân hoan, thích chí, khoa chân múa đuôi, tự nghĩ:

“- Ta sẽ đấu tay đôi với Sư Tử. Ôi! Thật là danh vọng lớn, vinh quang lớn cho giống nòi tiên tổ nhà heo!”.

Thế rồi Heo rừng phóng như bay đến báo tin vui cho họ hàng thân thuộc biết, với cái đuôi vẫy lên, với những sợi lông nhích nhích.

Họ hàng nhà heo tụ họp thành bầy trong một hốc núi, không xa bao nhiêu những hang, những động của những nhà tu khổ hạnh. Khi nghe Heo rừng khoe khoan hí hửng như vậy, chúng nhà heo hoảng hốt, mắt nhớn nhác, những cái móng thun lại.

- Đồ bọ hung, đồ chuột chù hôi hám! Chúng nhà heo chưởi mắng - Chính ngươi đã mang tai họa khủng khiếp đến cho họ hàng nhà ta. Ngươi là gì? Đồ muỗi lằng, đồ sâu bọ! Lại dám thách thức, đánh đấm, đọ vuốt với chúa sơn lâm! Hừ! Một trăm thanh niên heo, một ngàn thanh niên heo, sức mạnh thù thắng gấp trăm lần ngươi, cũng chỉ làm cái bị thịt cho giống Sư Tử oai hùng kia thao dượt mà chưa chảy mồ hôi. Thế đấy, đồ chó chết! Đồ cóc ngồi đáy giếng chẳng biết trời cao đất rộng là gì!

Sau khi chửi mắng, la hét, đánh đập con heo ngu si, một mưu sĩ heo bước ra:

- Thôi, các cha, các chú, các mẹ, các bác hãy nguôi giận. Ta vẫn có kế vẹn toàn cơ đấy. Vẫn thách thức đánh đấm với Sư Tử bằng khí giới miệng lưỡi mà họ hàng nhà ta vẫn an toàn vô sự cơ đấy!

Đám nhà heo xôn xao, đưa mắt heo thao láo nhìn tên mưu sĩ nhỏ nhắn vốn lắm mưu sâu, chước hiểm.

Mưu sĩ heo để cho chúng nôn nóng một hồi mới mở mắt ti hí ra nói:

- Này bạn heo - nó nói với con heo thanh niên “ngựa non háu đá” - Bạn có thấy những đám phân của những nhà tu khổ hạnh chứ?

- Có thấy.

- Vậy thì mỗi buổi sáng, bạn đến lăn lộn trên những bãi phân ướt, làm sao cho phân nó dính cả đầu, cả cổ, cả lưng, cả bụng và bốn chân. Xong rồi, khi mặt trời lên, bạn hãy bắt chước như các nhà tu khổ hạnh mà sưởi nắng, hong cho thật khô ráo. Ngày thứ hai cũng vậy, cho đến ngày thứ sáu. Đến ngày thứ bảy, đúng hẹn, bạn hãy thấm ướt thân mình với sương và nước, lựa tìm chỗ đứng trước hướng gió rồi hãy cất lời thách thức đánh nhau với Sư Tử. Hãy nói cho dữ, nói cho gắt, nói cho nộ khí xung thiên vào! Vậy là bạn sẽ thắng!

Thanh niên heo không hiểu, bèn hỏi:

- Vậy thì tôi mang cả đống phân, hôi quá làm sao chịu nổi, làm sao thắng?

- Bạn muốn hôi hám để sống hay muốn sạch sẽ để chết? Mưu sĩ heo tức giận hỏi.

- Muốn hôi để sống.

- Nếu thế thì cứ như vậy thọ trì! Loài Sư Tử tánh ưu sạch sẽ, luyến ái sạch sẽ; khi ngửi mùi hôi nơi thân bạn, dẫu có bị thách thức, nói lời nhục mạ, nói lời móc óc, nói lời xỉa xói, nó vẫn sợ hãi và bỏ đi. Cái kế ấy được gọi là: “Bất chiến tự nhiên thành”!

Heo khác góp lời:

- Không phải, cách đánh ấy nên gọi là: “Dùng phân hôi mà đánh Sư Tử”!

Cả bọn cười xòa, hí hí, hức hức; sau đó khuyên heo thanh niên nên thực hành theo chước ấy của mưu sĩ.

Heo thanh niên sau khi tẩm đầy phân trong sáu ngày, ngày thứ bảy đến nơi hẹn, ở đầu hướng gió, hùng dũng rống lên:

- Này Sư Tử kia! Hôm nay là giờ tận số của nhà ngươi! Hãy dở vuốt ra!

Sư Tử thoáng nghe mùi phân, không chịu nổi, ráng nhịn thở, nói một hơi:

- Ồ! Mưu chước của bạn thật là tuyệt vời! Cái ấy được gọi là: “Thà sống hôi hơn chết sạch”. Nếu bạn không tẩm đầy phân thì hôm nay, tại chỗ này, ta sẽ chấm dứt mạng sống của bạn chỉ bằng một cái nhích chân!

Sư Tử cố hớp khí rồi nói liền một hơi nữa:

- Ôi! Biết làm sao được! Cái chân ta, cái vuốt ta, cái mồm ta suốt đời chưa quen đụng vào một vật bất tịnh! Chỉ một cái lông hôi trên thân bạn cũng đủ thắng ta, huống hồ là cả một đống hôi!

Ôi! Thật là danh vọng lớn, là vinh quang lớn cho giống nòi tiên tổ nhà heo! Này bạn heo! Hôm nay ta tuyên bố thua trận, nhưng mà liệu hồn, có lúc ta sẽ xé xác hết họ hàng nhà heo, không chừa một mống!

Nói xong, Sư Tử kinh tởm bỏ đi.

Một nhà tu khổ hạnh đắc ngũ trí thần thông biết rằng Sư Tử sẽ giận lây mà gieo họa nên khuyên các nhà tu di chuyển chỗ ở. Họ hàng nhà heo sợ ngày kia Sư Tử trở lại, cũng hớt hải trốn về phương khác.

Riêng “heo anh hùng”, sau khi chiến thắng Sư Tử, leo lên núi cao cất tiếng rống đầy tự mãn, nghĩ thầm:

“- Biết ta hạ bệ Sư Tử lên làm Chúa sơn lâm, mọi loài sợ oai, rần rât bỏ chạy”.

 


Cõi trời Ba mươi ba


Ở cái chốn gọi là Đệ nhị Thiên đường, có ông vua trời tên là Đế Thích mà nhân gian hay tôn là Ngọc hoàng thượng đế. Cõi trời ấy được gọi là Đao Lợi Thiên Cung hay là cõi trời Ba Mươi Ba.

Cõi trời này đẹp lắm, kỳ lạ lắm, hấp dẫn lắm.

Kinh kể rằng, kẻ vừa hóa sinh ở đấy là đã bằng một thiếu niên, một thiếu nữ mười sáu tuổi. Rồi họ cứ ở mãi trong tuổi thanh xuân như thế chứ không răng rụng, da nhăn, tóc bạc hay lọm khọm già nua. Dấu hiệu chấm dứt tuổi thọ thường là hoa trang sức bị tàn úa, ánh sáng phai nhạt hay cơ thể rịn mồ hôi. Họ sống trong lạc thú ngũ dục dư tràn kéo dài nhiều ngàn năm, nhiều trăm ngàn năm. Cứ một ngày ở đấy là bằng một trăm năm ở nhân gian. Không ai phải làm công việc gì. Ăn uống, y phục, lâu đài, sàng tọa, vật trang sức cho chí vợ chồng, thê thiếp ... đều tùy theo công năng bước báu của mỗi người trong quá khứ mà hiện ra sai khác. Sắc đẹp, quyền lực hay ánh sáng chiếu tỏa nơi mỗi vị thiên cũng đều do thế.

Cõi trời này được dựng lên trên đỉnh Sineru, giữa hư không bởi Ba Mươi Ba tòa bảo tháp lộng lẫy, huy hoàng. Sao tỏa sáng, bảy báu lấp lánh suốt ngày đêm, đầy mọi nơi, mọi chỗ. Hoa nở rộ đầy rừng, đầy vườn, đầy đất, đầy mây. Những mùi hương kỳ lạ dìu dịu thoảng trong gió, chập chờn khi mất khi còn, khi gần khi xa làm đắm say ngây ngất mọi tâm hồn. Những tiếng nhạc trời vẳng lại, do nghệ sĩ Càn-thát-bà, do gió, do chim, do thiên nữ ca hát như bản hòa tấu bất tận giữa không gian lồng lộng. Những buổi dạ vũ, dạ hội, yến tiệc cao sang, đầy đủ thức ăn vật uống lạ lùng, mỹ vị, mỹ phẩm, muốn gì có nấy ... từ trăm năm này sang trăm năm khác. Và cứ mãi như thế trong cuộc trường xuân miên viễn.

Chư thiên nam thường hay tụ họp đánh cờ, uống rượu trời, làm thơ, luận bàn hoặc vân du đây đó với hàng trăm hàng ngàn thiên nữ hầu hạ, gối tựa vai kề, cợt đùa vui vẻ, bao giờ cũng như tân lang, tân nữ với nhau. Một số thiên nữ khác hái hoa kết thành vòng, thành chuỗi, bay lượn như đàn bướm, trang phục rực rỡ trăm màu, mềm mại thướt tha, với tiếng cười trong như pha lê reo, khi ẩn, khi hiện trong những làn mây ngũ sắc nhẹ nhàng, uyển chuyển.

Đêm thiên cung, ngày thiên cung, mùa xuân thiên cung thanh bình, hoan lạc, vô tận...

Nguyên nhân của cõi trời Ba Mươi Ba này được Đức Phật Thích Ca kể lại ở trong bổn sanh Kulàvàkà như sau.

Thuở xưa, thật quá lâu xưa, trong nước Ma-kiệt-đà, tại thành Vương Xá, Bồ-tát sinh ra và lớn lên ở ngôi làng Macala, tên là Magha.

Thanh niên Magha do phước và huệ sanh nên như một thiên thần bước xuống thế gian. Chàng lập gia đình, có bốn vợ, sinh con, làm các công nghiệp, giữ giới hạnh, lấy thiện sự làm niềm vui tâm hồn thanh cao.

Ngôi làng Macala ấy không được yên vui, không được hạnh phúc vì đầy ác giới. Dân chúng thường hay gây gổ đánh đập nhau, chửi mắng nhau bằng binh khí miệng lưỡi hoặc bằng đao và gậy. Sự xáo trộn, bất an trong mọi gia đình như luôn luôn bị sóng đánh chao đảo hoặc giông bão gầm gào.

Nghề nghiệp của dân làng là săn bắt thú rừng, và kéo cá trong lưới. Một số kẻ bất thiện vô công rỗi nghề khác thì bắt trộm heo gà, ăn nhậu với rượu men, rượu nấu. Khi no nê và say sưa chí tử, không có tội lỗi nào mà chúng không làm, không có giới trọng nào mà chúng không phạm.

Tiếng cười lẫn với tiếng khóc, tiếng than vãn lẫn với tiếng la hét, như đám lửa cháy âm ỉ hoặc cuồng nộ ngày qua ngày, đêm qua đêm.

Thanh niên Magha sống giữa họ như sen mọc trong bùn, thanh sạch, thơm tho cả tâm hồn và giới hạnh. Chàng thương họ, muốn cảm hóa họ, nhưng chàng tự nghĩ:

“- Hướng dẫn đời sống tinh thần đạo đức và hiền thiện cho ngôi làng này, trong lúc này, thật như nước đổ đầu vịt, như hạt cải nằm trên đầu ngọn cỏ Kusa. Khó lắm! Hãy kham nhẫn, từ từ, không phải bằng nói năng, thuyết lý mà phải bằng hành động cụ thể, cả vật chất lẫn tinh thần. Làm thế nào có thể cứu giúp họ, an ủi họ vào lúc mà cơ cực, lầm than, thống khổ, và nước mắt tràn đến họ như một cơn lụt lớn”.

Bắt đầu từ đấy, chàng cùng vợ và các con siêng năng làm các công nghiệp. Trong mười tám môn học nghệ, chàng loại bỏ từ chương, triết lý, thuật số, văn chương, thơ phú... Chàng lại loại luôn các nghề dùng cung tên, giáo mác, nghề sát sanh hại vật, buôn vũ khí, thuốc độc, cất nấu các loại rượu, buôn bán thịt sống và chín v.v.. Chàng cùng vợ, các con chăm lo nông vụ, đồng áng, nghề đan lát, thủ công, nghề mộc, nghề thợ hồ, thợ sơn, ... Rảnh rỗi, chàng và các con lên rừng lấy cây danh mộc, tìm trầm rồi kết bè về bán ở các thị trấn miền xuôi.

Siêng năng, cần kiệm, có đầu óc, có ý chí, một thời gian không lâu, chàng tích lũy được một tài sản lớn.

Khi mà mỗi gia đình năm này sang năm khác sống trong những mái nhà như những cái hang, cái chòi tối tăm, rách nát, muỗi mòng, hôi hám, bẩn thỉu thì Magha đã có được một trang trại rộng lớn, kẻ ăn người ở tới lui tấp nập, với kho thóc, kho vải, kho củi như gia sản của một tiểu triệu phú.

Thời đã đến. Ngôi làng Macala xảy ra một vụ tranh chấp, kiện tụng về quyền lợi nơi đám rừng săn thú. Chúng bị bồi thường và bị phạt vạ. Tiếp đến là nạn cháy nhà. Tiếp đến là nạn hạn hán, mất mùa. Củ sắn, củ mài, rễ cây, lá cây không đủ ăn. Chúng rơi vào một trận đói kinh hoàng cùng với bệnh dịch lây lan, tràn đến mỗi nhà.

Magha từ lâu đã có dự tính, đã tích trữ sẵn mọi thứ cho mối hiểm họa này. Chàng kêu cả làng đến phân phát lương thực, vải vóc, thuốc men, ... với tấm lòng rộng mở. Rồi chàng tụ tập ba mươi chàng thanh niên trai tráng, đại diện cho ba mươi gia đình tương đối đàng hoàng nhất, giáo giới với họ rằng:

- Này các bạn, hãy nghe tôi! Tôi sẽ cứu các bạn và cả ngôi làng này qua khỏi cơn thống khổ. Bắt đầu ngày mai, lương thực của tôi sẽ là lương thực của các bạn. Chúng ta hãy cùng nhau lên rừng, tôi biết đâu có gỗ quý, có trầm, biết chỗ bán chúng để đổi gạo cùng các loại thực phẩm cần yếu khác. Chỉ cần một chuyến như vậy là chúng ta giúp đỡ được cho tất cả mọi người. Chuyến thứ hai là các bạn có đủ lương thực dự trữ. Chuyến thứ ba là các bạn có đủ tài sản để chăm lo nông vụ. Hãy theo tôi, hãy chiến thắng cái đói nghèo.

Như gặp được vị cứu tinh, cả dân làng đều hoan hô và tán dương thanh niên Magha. Ba mươi chàng thanh niên thì phấn chấn vì một tương lai sáng sủa đã bày ra trước mắt họ.

Thanh niên Magha cho mở kho đã chuẩn bị sẵn, lấy đủ mọi dụng cụ đi rừng cho ba mươi chàng thanh niên.

Thế rồi, nhờ theo lời Magha, ngôi làng Macala đã đẩy lùi được đói nghèo, đã có giọng nói hoan hỷ của cụ già, đã có tiếng cười hồn nhiên, vô tư của tuổi thơ trên lưng mẹ. Ba mươi chàng thanh niên rường cột của ba mươi gia đình, sau nhiều lần theo chân Magha lên rừng, xuống nội đã được Magha trình bày công việc trọn năm như sau:

- Này các bạn, hãy nghe tôi! Chỉ cần bốn tháng lên rừng lấy gỗ, tìm trầm, tìm các hương liệu, mật ong, măng giang, mộc nhĩ... là chúng ta có đủ cơm gạo trọn năm. Bốn tháng tiếp theo, chúng ta làm cho đầy các kho ngũ cốc và làm cho tất cả các vườn xanh tươi rau quả. Bốn tháng còn lại, những mái nhà, những con đường, những cầu cống, những hầm rác, những bệnh xá... đang chờ đợi chúng ta.

Các thanh niên răm rắp tuân theo. Chàng Magha lại mỉm cười với họ:

- Này các bạn, hãy nghe tôi! Hãy biến cái ngôi làng nghèo khổ này thành ngôi làng của cõi trời.

Thế rồi, niềm vui bốc lên mắt, chạy rần rật nơi cái tay, cái chân, nhúc nhích nơi những sợi râu của cụ già ... Người ta tán dương công đức của Magha không tiếc lời. Từ đây, họ gọi thanh niên Magha là “thanh niên sư trưởng”, là “bậc thầy trẻ tuổi”, là “nhà đại bác ái”, là “người bạn chí thiện”!

Một phong trào rầm rộ và toàn diện về chuyện làm ăn, xây dựng, canh tân được bàn bạc từ đầu thôn cho đến cuối xóm. Đèn được đốt thâu đêm. Niềm vui chạy khắp các hàng cùng, ngõ hẻm.

Khi đủ ăn, đủ mặc, có dư dả chút ít, một vài tệ trạng manh nha khởi lên đây đó như biếng nhác, rượu chè, cờ bạc, trộm cắp, đánh nhau, ... xảy ra. Tuy biết mà Magha chưa nói gì vì thấy chưa đúng thời. Trong lúc này, nên làm hơn là nói. Bởi vậy, chàng, vợ và các con luôn luôn dẫn đầu trong các công việc xã hội. Chiếc bóng của Magha bao giờ cũng xuất hiện đầu tiên và cuối cùng, chỗ này và chỗ kia. Ba mươi chàng thanh niên tuyệt đối tuân lời Magha, lấy Magha làm gương, là ngọn đèn, là con mắt của họ. Họ theo chân Magha như hình với bóng. Các con đường làng lần lượt được đắp lên cao ráo với những hàng cây có hoa và tỏa bóng râm mát. Những chiếc hồ công cộng tươi mát được thả sen, thả súng, bơi lội những con cá màu. Những chiếc cầu lót đá hoặc gỗ bắc qua những con kênh, bờ nước có liễu rủ, có bóng tre. Những bệnh xá tương đối khang trang, đẹp đẽ, đầy đủ tiện nghi, thuốc thang dành cho tất cả những người tật bệnh. Không còn một đống rác, những bãi phân, những vũng nước tù đọng, hôi hám. Tất cả chúng đều được chôn lấp, lấy đi, san bằng. Có những nghĩa địa lộ thiên riêng biệt dành cho người và thú. Mọi công trình kể trên đều được làm bởi sự tự nguyện của dân làng, được quản lý, chăm sóc và bảo vệ tốt.

Biết là thời đã đến, Magha giáo giới ba mươi chàng thanh niên thiện chí của mình:

- Này các bạn! Tại sao đầy đủ cơm ăn áo mặc mà trong ngôi làng của chúng ta vẫn có tiếng khóc, chửi mắng, rên than?

- Chúng không biết tuân theo lời giáo huấn của Sư trưởng, tự ý lên rừng săn thú, xuống sông bắt cá, ăn uống nhậu nhẹt say sưa rồi đánh đập nhau.

- Vậy thì có hữu lý không khi chúng ta cố gắng giữ giới “không sát sanh”?

- Hữu lý lắm!

- Các bạn có giữ được giới ấy chăng?

- Thưa Sư trưởng, chúng tôi giữ được.

Magha mỉm cười tiếp:

- Từ khi xẩy ra chuyện cờ bạc, ăn nhậu, ngôi nhà của các bạn ban đêm có mở rộng cửa ngõ? Có phát sanh sợ hãi khi có những kẻ rình trộm với con dao?

- Chúng làm cho chúng tôi sợ hãi, cửa đóng kín, chẳng dám đi đâu khi có tiền, có bạc trong người.

- Vậy thì hữu lý không, muốn giải thoát sợ hãi cho cả ngôi làng, chúng ta cố gắng giữ giới “không trộm cắp”?

- Hữu lý lắm!

- Các bạn hãy nghe tôi, từ rày về sau, giới thứ hai “không trộm cắp”, hãy cố gắng thọ trì!

Bằng cách như vậy, bằng sự thực cụ thể, liên hệ về nhân và quả, sự tai hại và lợi ích, thanh niên Magha đặt ngũ giới trong tâm cho ba mươi chàng thanh niên tiến bộ.

Tin được truyền đi, người thôn trưởng đâm ra lo sợ, tự nghĩ:

“- Trước đây, khi những dân làng này sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, nói dối, uống rượu, ... thì ta được hoạnh phát tiền của. Nào là tiền mua hàng trộm cắp, tiền rượu, tiền phạt vạ, tiền bồi thường, tiền cúng tế, tiền ma chay, tiền tranh chấp của cải, tiền giảng hòa, tiền kiện tụng... Nay thanh niên Magha giáo giới chúng, đặt năm giới cấm ở nơi tâm chúng, từ ba mươi gia đình, lan ra bốn mươi gia đình, năm mươi gia đình, ... Cứ lần hồi lan truyền mãi như vậy thì ta sẽ khánh tận tài sản, lợi lộc. Vậy ta làm thôn trưởng để làm gì?”

Tức tối, hậm hực, với mưu chước, người thôn trưởng cụ bị hành lý, đi thẳng đến cung vua xứ Ma-kiệt-đà.

- Tâu Thiên tử! Tại làng của con có một bọn cướp, chúng gồm ba mươi mốt đứa kể cả tên đầu sỏ. Chúng nó phá làng, phá xóm. Chúng thiêu hủy các cuộc vui của nhân dân. Chúng làm cho các am, các miếu thờ thần cây, thần đất, thần lửa, ... vắng lạnh và điêu tàn. Không một bóng người trên sông. Không một bóng người trên rừng. Trống không các buổi hội hè, đình đám, tiệc tùng ... Ôi! Quả thật là một bọn cướp đáng sợ!

Mới nghe thế, Đức Vua đã phán:

- Hãy đem theo lính, bắt trói tất cả chúng và dẫn đến đây!

Thanh niên Magha và ba mươi thanh niên chí nguyện bị bắt trói xếp cánh sau lưng rồi được dẫn đến hoàng thành. Đức Vua xứ Ma-kiệt-đà không điều tra, không hỏi cung mà ra lệnh đem tất cả ra pháp trường cho voi chà cả thảy.

Khi nằm trên đất để nhận chịu sự hành hình oan uổng, thanh niên Magha giáo giới các bạn:

- Này các bạn, hãy bình tĩnh! Nếu quả thật chúng ta bị tử nghiệp do voi chà, thì không ở đâu trốn thoát được dù hang sâu, rừng thẳm. Nhưng nếu chẳng phải thế thì dù bạo lực của Đức Vua, dũng lực của ngàn con voi cũng chẳng làm gì được chúng ta. Vì sao vậy? Vì do thiện pháp bảo vệ, chúng ta sẽ được an toàn.

Này các bạn, chớ có sợ hãi! Hãy hành trì giới, tâm niệm giới. Hãy khởi lòng từ với kẻ ác, với kẻ vu cáo ta. Hãy khởi lòng từ với Đức Vua thiếu sáng suốt. Hãy khởi lòng từ với đàn voi không biết gì sắp dẫm nát chúng ta. Tâm Từ ấy phải được quảng đại, sung mãn, bao trùm đồng đẳng, nhất loạt đối với tất cả chúng sanh, tràn đầy hư không giới. Tất cả hãy mát mẻ, vắng lặng. Tất cả hãy mát mẻ, vắng lặng.

Tất cả ba mươi thanh niên y lời, trầm tĩnh, an nhiên như một rừng thiền định.

Khi đàn voi đi đến, chúng đứng sững lại như gặp một bức tường kiên cố. Chúng co rúm lông và đuôi dựng lên, thối lui, rống to rồi quay lưng bỏ chạy. Đàn voi khác đến, cũng như thế, không vượt được bức tường của Tâm Từ, trở lui và chạy tán loạn.

Đức Vua nghe báo, ra hiện trường xem, tự nghĩ:

“- Chắc trong người bọn chúng có thuốc “trường sanh” nên chúng đã trở nên “bất tử” chăng?

Bèn cho người lục soát nhưng thấy chẳng có gì. Đức Vua lại nghĩ:

“- Hay là chúng có đọc bùa chú?”

Đức Vua hỏi to:

- Này bọn cướp kia! Có phải các ngươi âm thầm niệm chú để chống lại bản án tử hình không?

Magha đã hiểu ra mọi chuyện nên đáp:

- Vâng, có, thưa Thiên tử!

- Ây là bùa chú gì? Đọc lên cho ta nghe thử coi?

- Thưa Thiên tử, hãy lắng nghe, tôi sẽ nói. Tôi và ba mươi thanh niên này trọn đời không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Chúng tôi khởi lòng từ đồng đẳng đối với mình và các sanh loại. Chúng tôi bố thí, làm các thiện sự, các công ích như dựng trạm xá, làm cầu, làm đường, đào ao hồ, lấp các hố rác, làm các công trình vệ sinh, ... Đấy là bùa chú (manto) của chúng tôi, là sự bảo vệ (parittam) của chúng tôi, là sức mạnh (vadhim) tối thắng của chúng tôi.

Đức Vua ngạc nhiên quá, cặn kẽ hỏi đầu đuôi. Thế rồi tên thôn trưởng đành phải cung khai nhận tội.

Đức Vua hài lòng, mỉm cười sung sướng về việc làm tốt đẹp của những thần dân lương thiện. Đức Vua tịch thu tài sản của tên thôn trưởng, bắt làm nô lệ suốt đời. Còn Magha thì được Đức Vua biếu tặng cả đàn voi và quyền sở hữu cả ngôi làng với quyền lực, uy tín, danh vọng được Đức Vua xuống chiếu bằng văn bản có triện son.

Từ đấy, Magha và ba mươi thanh niên được tự do và an tâm làm các công đức, công ích xã hội, được Đức Vua bảo vệ, tán dương cùng các khoản trợ cấp hào phóng...

 Hôm kia, Magha và ba mươi thanh niên khởi tâm làm một giảng đường hội họp rộng lớn tại một bãi trống gần ngã tư đường, trung tâm của làng Macala.

Họ bàn bạc với nhau, rằng nữ nhân nghiệp dày dễ mang đến rối loạn và phiền não, chẳng nên cho đàn bà hùn chung công đức.

Sudhammà, bà chánh thất của Magha bèn mang một số tiền đến gặp người phụ trách tòa kiến trúc, nói rằng:

- Ông hãy giúp tôi, bằng đủ mọi cách, để cho tôi có cơ hội góp phần công đức vào phước sự lớn lao này.

Người thợ cả kiến trúc nể tình, bằng lòng giúp mưu kế, làm một tháp nhọn bằng loại danh mộc, chạm trổ công phu, phơi khô, lấy vải cuộn lại rồi bảo bà Sudhammà cất dấu đi.

Khi ngôi giảng đường to lớn làm xong, đến giờ đặt tháp nhọn, người thợ cả kiến trúc giả vờ hốt hoảng:

- Chết rồi, các tôn giả ơi! Chúng ta đã quên một việc quan trọng.

- Cái gì vậy? Mọi người xôn xao hỏi.

- Chúng ta quên làm một cái tháp, nhọn, làm sao bây giờ?

- Ồ, chẳng hề gì! Có thể làm gấp được mà.

- Không phải vậy - người kiến trúc nói - Thứ nhất là phải có danh mộc để khỏi nứt rạn. Thứ hai là phải gỗ khô, gỗ tươi thì nó không ăn khớp, bị hở và nước sẽ thấm vào. Nay sắp hoàn thành rồi, thời gian không còn kịp nữa, biết làm thế nào?

Mọi người nín lặng, nan giải. Người kiến trúc bèn gợi ý:

- Lạy chư thần gia hộ! Biết đâu một nơi nào đó trong ngôi làng này, có thể có sẵn một cái thắp nhọn đẹp, quý, vừa vặn, in khít đã làm từ lâu bằng loại danh mộc dành riêng cho ngôi giảng đường của chúng ta chăng? Biết bao nhiêu là nhà có nóc nhọn, tháp nhọn, lo gì!

Mọi người phân tán ra khắp làng tìm kiếm. Ngạc nhiên làm sao, họ thấy bà Sudhammà có cất sẵn một cái rất đẹp, đúng tiêu chuẩn yêu cầu. Họ hỏi mua, nhưng bà không bán. Bà nói:

- Tiền bạc chẳng thể nuôi sống ta từ đời này sang kiếp nọ. Vả, chồng ta công đức quá lớn, ta mà thiếu phước báu thì làm sao hy vọng gặp lại chàng trong kiếp lai sinh? Vậy hãy cho ta hùn góp tí công đức, ta chẳng cần núi tiền, núi bạc của các ông. Hãy cho ta dự phần.

Thật là nan giải bởi ba mươi chàng thanh niên đã cương quyết không cho nữ nhân nhúng tay vào công trình này, dẫu đấy là chánh thất của Sư trưởng Magha kính trọng.

Magha cũng tôn trọng ý kiến của anh em nên không xen lời.

Người kiến trúc nói:

- Sao các tôn giả lại quá chấp vậy? Chỉ Phạm thiên giới mới không có nữ nhân, các tôn giả đã là Phạm thiên chưa mà làm oai vậy? Tại sao các tôn giả không nhận chân sự thật rằng, nữ nhân trên đời này đã đem lại niềm vui cho các tôn giả? Cho chí các cõi trời, nếu không có nữ nhân thì lên đó, các tôn giả sẽ sống với ai, vui chơi bầu bạn với ai?

Các tôn giả hãy từ bỏ quan niệm sai lầm ấy đi, hãy chấm dứt tâm phân biệt đầy ngã mạn và kiêu căng ấy đi. Hãy lấy tháp nhọn để bà Sudhammà góp phần công đức kẻo không còn kịp nữa. Và theo ý tôi, chúng ta cũng nên đón nhận tất cả nữ nhân trong làng đến hùn góp công đức về các phần còn lại.

Ba mươi chàng thanh niên cũng không phải là những kẻ cố chấp, họ thầm nhận ý kiến của người kiến trúc là hợp tình hợp lý, bèn đến xin quyết định của Magha.

Chàng mỉm cười nói:

- Đấy là mưu chước của họ, nhưng mưu chước ấy đáng được hỷ xả, tha thứ. Các bạn ạ, chúng ta cũng nên mở rộng cửa trời cho tất cả mọi người cùng được vào, không nên phân biệt nam nữ.

Thế là nóc tháp nhọn được đặt lên vừa vặn, khít khao, tuyệt mỹ. Các nữ nhân trong làng, sau khi được “mở cửa”, họ đua nhau đến góp công, góp của, ca hát, reo cười, vui tươi và sung sướng.

Không bao lâu, một quy mô cực kỳ vĩ đại được hoàn thành.

Trong giảng đường có đầy đủ bàn ghế, đặt nhưng ghè nước ở các nơi. Xung quanh giảng đường, họ làm thêm nhà trọ cho khách lỡ bước, trạm nghỉ chân cho khách thương, cho trẻ nít chăn trâu bò. Đâu đâu cũng đủ phòng ăn, phòng tắm, hố chôn rác, nhà vệ sinh. Ngoài ra, những bức tường dài bao quanh có gắn cửa vuông, tròn cao rộng. Những con đường lót sỏi trắng, những hàng cây sàlà, tre trúc, bồ-đề, dâu da,... xanh tươi và mát mẻ.

Nàng Città, vợ hai của Magha, bắt chước Sudhammà hùn công đức một công viên mỹ lệ, có những thảm cỏ xanh biếc, những tảng đá um rêu kỳ quái dựng nổi bật, hàng trăm cây ăn trái, cây kiểng, cây hoa... lá vàng, lá tím, lá đỏ,... và ngạt ngào hương. Không có cây nào là không có tên tuổi. Không có đường nét nào là không vui tươi, bắt mắt, đầy nghệ thuật.

Nàng Nandà, bà vợ thứ ba của Magha không chịu thua, làm hồ và suối. Hồ xanh thăm thẳm lấp lánh sao trời, phô thắm hoa sen, hoa súng đủ màu. Suối vờn quanh những thảm cỏ, chỗ sâu, chỗ cạn, trong leo lẻo, đủ loại cá đẹp nhởn nhơ, lặng lờ lui tới. Những chiếc cầu đá trắng lơ thơ liễu rủ trông thơ mộng như cõi bồng lai.

Riêng nàng Sujàta, bà vợ thứ tư, trẻ nhất và đẹp nhất của Magha, thì làm biếng, không góp một chút gì vào công trình to lớn nói trên. Suốt ngày cứ nhìn ngắm sắc đẹp của mình, đi tới đi lui, trang điểm, rồi lại đổi thay y phục,... Lại còn ăn món này, món nọ để mong trẻ mãi, mong đẹp hoài!

Rất thương nàng Sujàta, nhưng Magha không khuyên bảo được, chỉ lặng lẽ thở dài mà thôi.

Với công đức như vậy, nhân và duyên như vậy, lúc mệnh chung, thanh niên Magha hóa sanh làm vua trời Đế Thích, cai quản ba mươi ba tòa cung điện, gồm ba mươi tòa cung điện cao sang là phước báu của ba mươi chàng thanh niên cùng thân quyến của họ. Còn ba tòa bảo tháp mỹ miều, tráng lệ là phần của ba bà vương hậu của Đế Thích, đấy là bà Sudhammà, Città và Nandà. Riêng bà thứ tư, bà Sujàta, không biết sanh về đâu, chẳng biết đọa lạc vào cảnh giới nào!

Từ đỉnh Sineru, vua trời Đế Thích đưa tầm mắt xa rộng nhìn Thiên quốc ngọc ngà châu báu của mình. Nó hiện ra như trong một giấc mộng tuyệt vời. Ba mươi ba tòa bảo tháp lấp lánh nhô lên giữa vùng mây huyền hoặc, diệu kỳ!

Và ô kìa! Là thần dân của ngài! Chúng chư thiên nam và nữ thấp thoáng cánh vàng, cánh bạc, xiêm thường tha thướt, rong chơi đây đó. Ôi! Chúng vui chơi hồn nhiên quá! Chúng không biết rằng Thiên quốc này vừa xảy ra một cuộc chiến tranh, nhưng nhờ mưu kế dùng “mỹ tửu”, ta đã dẹp xong cuộc chiến tranh ấy.

Ôi! Cái bọn A-tu-la thiên ấy cứng đầu và ngoan cố lắm! Suốt đời, chúng chỉ thích đánh nhau, đánh nhau là niềm vui của chúng. Dẫu ta tạm thời đuổi chúng đi rồi, nhưng chắc Thiên quốc của ta cũng khó yên với chúng.

Rượu ấy không say được lâu. Tỉnh dậy, chúng không hiểu là bằng cách nào ta đã quăng chúng xuống dưới ấy. Nếu biết, chắc chúng tức giận lắm. Lũ A-tu-la-thiên lúc phẫn nộ thì ghê gớm dường nào? Thần lực của chúng có thể đốt cháy cõi trời của ta chứ ít đâu!

Ôi! Nguyện cầu “thiên pháp” hộ mệnh chúng ta!

Thiên nhạc từ đâu đó đặt dìu, êm dịu vẳng lại. Tiếng nhạc ấy sao mà nhẹ sương, mềm và khinh an như một niềm hoan hỷ! Và ồ! Mùi hương nào đây? Chiên-đàn hay già-la? Hôm trước, Đế Thích đã ngỡ ngàng bước vào rừng hoa mạn-thù và ngài đã ngây ngất trước vẻ đẹp trẻ trung, hồn nhiên của các vì thiên nữ, trước sự dịu mát, khinh khoái lòng người và trước mùi hương ngát ngào kỳ diệu. Hương thơm ấy như nức ra từ không khí, từ những hạt sương lóng lánh trăm màu, từ những nụ cười mê hồn, từ những hạt bụi phấn quyến dụ đắm say của các vì thiên nữ.

Ôi! Thiên lạc! Thiên lạc! Dẫu có trăm lần, vạn lần mộng tưởng cũng không hình dung ra được một phần cái quả lạc thú đem đến nơi đây cho những người miệt mài với công đức. Ta và các bạn ta xứng đáng được hưởng thụ. Các bà vợ của ta cũng xứng đáng được như vậy.

Trời Đế Thích chợt mỉm cười hài lòng khi thấy sự diệu kỳ của nhân quả. Nàng Sudhammà cúng dường một cái tháp nhọn thì giờ đây, cái bảo tháp của nàng được trả lại hàng ngàn cái tháp nhọn bằng thất bảo của cõi trời. Nàng Città làm một công viên chung cho mọi người du thưởng, thì nàng được trả lại không biết bao nhiêu công viên đẹp đẽ, vạn lần diễm lệ hơn xung quanh bảo tháp của nàng. Còn nàng Nandà, nàng dụng tâm làm hồ, suối thì bây giờ, biết bao nhiêu là hồ suối tráng lệ, mỹ miều xung quanh bảo tháp? Và nơi nào cũng bảy báu chói ngời. Nơi nào cũng chim hót, suối reo, hoa nở, trái chín mọng đầy cành. Nơi nào cũng hoa sen, hoa súng thù thắng, mỗi cánh hoa chứa hàng ngàn đóa hoa mà hương sắc thì ngôn ngữ không còn diễn tả được... Rồi nào là từng lớp sóng bảy màu lấp lánh những hạt cuội bảy màu. Những lan can, chuông gió, đàn đá, ghế ngồi, nhạc trời,... ở đâu cũng gặp, ở đâu cũng hiện ra khi muốn dừng chân uống trà, uống rượu.

Thế còn nàng Sujàta, nàng ở đâu? Nàng thác sanh vào cõi nào? Than ôi! Vì giới, thí, tuệ của nàng không đồng đẳng, bị khiếm khuyết nên chẳng có thể hóa sanh lên đây thọ hưởng thiên lạc. Ta phải dùng oai lực của một Thiên Chủ tối cao, tìm kiếm nàng, nhắc nhở nàng tu hành để mong cùng nhau tái ngộ.

Đế Thích ngước mắt lên từ vùng suy tưởng. Một bóng mây lướt nhanh từ phương Đông rồi một chư thiên nam trang sức như một chiến sĩ, sáng ngời vũ khí xuất hiện:

- Tâu Thiên Chủ! Chúng lại đến.

- Ai? Cái gì?

- Thưa, quân đội của A-tu-la Vương, có lẽ chúng lên để phục thù. Chúng như bầy kiến đang từ lưng chừng núi bò lên. Chúng còn xuất hiện ở mặt biển phía Đông, khí thế bừng bừng như vừa uống rượu trời...

- Sao nữa, bình tĩnh lại, cứ trình bày đi!

- Dạ thưa! Ôi! Lửa, khói, những binh khí có răng cưa, có móc nhọn, có những vòng, những khoen, những trục nằm ngang, nằm giữa. Chúng đang giương cao, rầm rộ, bạt sơn, xẻ núi. Kinh khiếp, thập kinh khiếp! Xin Thiên Chủ hãy ban thiên lệnh!

Không lay động như đỉnh Sineru, không lay động như ba mươi ba tòa bảo tháp, Trời Đế Thích nhìn vẻ hốt hoảng của vị thiên nam, là chiến sĩ của ngài. Ôi! Đấy là dũng lực của một chiến sĩ trưởng ư? Nhưng biết làm sao được! Chúng không quen đánh nhau. Chúng chỉ thích trang điểm hoa hòe, hoa sói đủ loại diêm dúa trên người để vui chơi với chư thiên nữ mà thôi. Chúng chỉ quen tiệc tùng, đàn ca, xướng hát. Nay đánh cờ núi tây, mai khiêu vũ biển đông, hôm kia như đám mây bay về thung lũng bạc, thung lũng xanh, đeo các vòng hoa và chập chờn như bướm. Hai mươi vạn chư thiên nam của ta đều như thế. Chúng sinh ra không phải đẻ cầm đao, cầm gậy mà là để gảy đàn, đánh cờ và bưng những ly rượu trời. Bọn A-tu-la Vương và thuộc hạ sẽ bắt làm vợ, làm tỳ thiếp, làm tỳ nữ, làm hoa, làm cảnh, làm các đoàn ca vũ nhạc kịch... Thế là chúng chỉ thù hận ta mà thôi. Chúng muốn thay ta làm quyền Thiên chủ. Nhưng phước báu nào dễ cho phép chúng làm thế? Rõ là bọn ngông cuồng. Mà thôi, tự ta sẽ dùng uy lực của mình, thử sức với bọn chúng xem sao, rồi tùy đó mà liệu!

Nghĩ thế, Đế Thích chợt mỉm cười bao dung, vô sự, điềm nhiên:

- Các ngươi hãy cứ rong chơi đây đó! Ai đàn cứ đàn, ai hát cứ hát, ai với trò tiêu khiển nào cứ tiếp tục với trò ấy. Riêng các vương hậu, thứ phi, ngươi hãy cho quân hộ tống họ tạm thời lánh cư về mặt biển phương nam. Còn tất cả đây, hãy để ta tự lo liệu.

Khi vị thiên chiến sĩ trưởng đi khuất, Đế Thích Thiên Chủ bước ra bao lớn, phất tay ra hiệu. Chốc sau, chiếc xe thù vắng Vejayanta xuất hiện cùng với vị trời đánh xe. Thế rồi, chiếc xe dài một trăm năm mươi do tuần, phút giây như gió nổi cuồn cuộn, vượt hư không, vượt biển, lao trên những đọt sóng chận đứng được đợt tấn công đầu tiên của A-tu-la Vương.

Sau chốc thoáng bị đẩy lùi, bọn A-tu-la như vũ bão lại tiến lên, nổi lửa, xô dạt những làn sóng, ào ạt, hàng hàng lớp lớp bao vây Đế Thích. Vị Vua Trời như lọt vào giữa trung tâm ruột xoáy của đại dương. A-tu-la Vương mặt đỏ như say rượu, hừng hực lao tới với hai chiếc búa bằng lửa, tung ngang bổ dọc trên đầu. Trời sụp. Biển sụp. Trăm năm, ngàn ngàn chiến sĩ A-tu-la khí thế dõng mãnh vọt qua biển, qua sườn đồi, tràn lên, tràn lên...

“- Sức ta chỉ có thể thôi! Đế Thích thầm nghĩ - Địch làm sao nổi bọn A-tu-la hiếu chiến, quen mùi máu, quen đánh nhau? Chặn biển đông, nó sẽ tràn biển tây. Chận núi nam, nó sẽ tràn núi bắc. Khi chúng đã cương quyết trả thù, dành quyền đất đai và bá chủ, thì ta, với địa vị ngôi trời chí tôn, như ngồi trên đầu sóng. Thôi, mất mặt mà làm gì? Thiên Chủ mà làm gì? Nếu ta sử dụng hết thần lực của ta thì tất cả sinh mạng bọn A-tu-la này sẽ biến hành tro bụi, quả thật ta không nỡ thế. Nếu phước báu của ta ngắn ngủi như giấc mộng đầu hôm thì bảo vệ có ích gì? Ta trốn thôi. Ta sẽ bay qua mặt biển phương nam, đón các vương hậu, thứ phi rồi đến tỵ nạn nơi các vị trời Đế Thích bằng hữu”.

Nghĩ thế xong, Thiên Chủ ra hiệu cho vị trời đánh xe. Chiếc xe thù thắng Vejayanta chợt bốc cao từ vùng biển xoáy, thoát khỏi sự bao vây của A-tu-la. Rồi như một cơn lốc vĩ đại, nó quạt trong không gian như cơn bão lớn, bỏ mặt biển, nó bay qua rừng “cây lụa bông” với tốc độ như vết chém. Chiếc xe bay đi nhanh quá, qua rừng cây mà dường như không có vật cản, như một ánh sao xẹt giữa hư không. Đế Thích Thiên Chủ thoáng nghe như có hàng trăm, hàng ngàn tiếng chim kêu đầy tuyệt vọng.

- Này, trời Màkali! Đế Thích hỏi - Chúng ở đâu vậy, những con chim thảm não kia?

- Thưa Thiên Chủ! Vị trời đánh xe tâu - xe của chúng ta xuyên qua rừng như vệt chém, hàng trăm hàng ngàn thân cây lụa bông gãy đổ, đứt lìa rơi xuống biển xanh như một cơn bão lốc. Rừng cây lụa bông này là quốc độ của loài Kim-xí-điểu (Galura). Tổ của chúng bị bắn tung tóe và lũ chim non, số chết, số bị thương, số không còn nơi ẩn náu.

- Thế à? Vậy thì quay lui, tức khắc quay lui! Nghe đâu, một vạn do tuần là rừng cây lụa bông này. Đừng vì mạng sống, vì Thiên quốc của ta mà giết hại sanh mạng, phá hại tổ ấm an lành của chúng sanh khác. Quay lui, ta sẽ nộp mình cho quỷ dữ A-tu-la Vương! Thân ta dẫu có nghiền ra tro bụi cũng không trả nợ hết sanh mạng cho sự lầm lỡ này. Ôi! Hỡi những con chim non vô tội, ta không cố ý, ta chỉ vô tình ngu ngốc mà thôi!

Thế rồi, vị trời Makàli tức tốc quay xe lại, về cung Ba Mươi Ba bằng lối khác.

A-tu-la Vương và quân đội đang uống rượu liên hoan, say men chiến thắng, tâm thần không ổn định, thấy Sakka bình thản trở lại với sắc mặt điềm nhiên, nghĩ rằng:

"- Chắc chắn các Sakka từ thế giới khác hay tin đến tiếp viện. Khi chạy trốn, chúng trốn hướng này, lúc trở lại, chúng đi hướng này. Như vậy rõ ràng là chúng ta đã bị bao vây, không hồ nghi gì nữa".

Vì suy luận như thế nên bọn A-tu-la rần rần bỏ chạy như đàn kiến vỡ tổ, phút chốc không còn một mống, khí giới đủ loại quăng bỏ ngổn ngang.

Đế Thích Thiên Vương đi vào thành với thiên chúng đoanh vây. Trong sát-na ấy, đất nứt ra và địa giới của Thiên quốc trồi lên cao một ngàn do tuần. Sakka Thiên Chủ đứng chiêm ngưỡng phước báu kỳ lạ, tự nghĩ rằng:

"-Có lẽ đây là do nhân vì từ tâm mà ta nhường nhịn chúng A-tu-la, do từ tâm thà nộp mạng sống mình cho ác chủ tể, còn hơn là biết mà vẫn sát hại rừng Kim-xí-điểu".

Do vậy càng có tâm bất thối với thiện pháp, từ đấy, ngài ra lệnh bảo vệ sự an toàn cho loài rồng, loài Kim- xí-điểu, loài Kumbhandà, loài Dạ Xoa trong Thiên Vương bốn cõi. Còn từ nay, Thiên Quốc sẽ hoàn toàn thanh bình vì địa giới của A-tu-la đã trở nên quá xa xôi, không còn sợ bọn chúng quấy nhiễu nữa.

Dưới chiếc lọng trắng, Sakka Thiên Chủ ngồi trên thiên bảo trải một tấm nệm bằng vàng mịn rộng một do tuần. Ngài trị vì Thiên Quốc quang vinh, làm những công việc của vua chư thiên, hỗ trợ loài người trong khả năng, thiện chí và oai lực của mình.

Đã đến lúc Đế Thích thấy mình phải cứu độ Sujatà, người vợ bé bỏng vì thiếu phước nên không cùng lai sanh đồng đẳng.

Trong lúc mọi người sum vầy lạc phúc trên thiên giới thì nàng Sujatà sinh làm con chim Hạc ở rừng sâu. Cha mẹ chết, Hạc sống lạnh lẽo không thân thích, không bè bạn, không có niềm vui.

Khi bình minh vừa ló dạng, ánh quạ hồng vừa nhô lên đầu núi, Nàng Hạc đã bay đậu lên một cành cây cao, phô đôi cánh trắng, cặp mỏ đỏ và đôi chân màu hoàng kim thon thắn. Nàng Hạc nghĩ: Đẹp cho ai? Trang điểm trau chuốt để làm gì khi xung quanh núi rừng bạc bẽo? Nàng nhìn gì vậy? Dòng suối lặng lờ hay dòng lệ âm thầm của một đời xuân sắc? Lá xanh nõn lắm và hoa rừng tỏa hương, nhưng mà để làm gì mới được chứ, có ấp ủ được trái tim khô héo và thê lương này chăng?

Ta cô đơn quá, Nàng Hạc nghĩ tiếp. Thuở xưa, như từ chiêm bao bước xuống, có những Hoàng tử đẹp trai gặp gỡ những công chúa diễm kiều rồi dẫn nhau về những tòa lâu đài san hô. Họ cỡi mây bay lóng lánh giữa miền thủy tinh. Họ như cùng với khói và sương, chập chờn đi vào giấc mộng ngàn năm của tình ái.

Thế còn Hoàng tử của lòng ta?

Khi Nàng Hạc ngước lên thì ánh triêu dương đã bừng những tia rực rỡ. Và kìa! Giấc mơ thành hiện thực. Sujatà, nàng công chúa Hạc của rừng xanh nghe tim mình nhảy mạnh trong lồng ngực. Trên cành cây đối diện, không biết xuất hiện tự bao gờ, một Chàng Hạc thanh niên đẹp đẽ và quý phái lạ lùng. Chàng kìa! Đôi mắt trong xanh vời vợi, sâu thẳm, tròn to, đa tình; chiếc mỏ cong cong óng ánh lân tinh và đôi chân cứng mạnh tràn trề sinh lực.

- Hãy cùng ta bay đến tòa lâu đài san hô - Chàng Hạc nói - Chúng ta cũng sẽ như khói như sương chập chờn đi vào giấc mộng ngàn năm của tình ái, hỡi nàng công chúa Hạc kiều diễm!

Nàng Hạc Sujatà thẹn thùa quá đỗi, khép cánh lại, nép đôi mắt ướt át vào sau một cành cây. Y đọc được ý nghĩ của ta! Ồ! Tinh quái! Kẻ đâu mà bạo mồm bạo miệng đến thế!

- Đi chứ, Sujatà, công chúa hạc? Hãy cùng ta đi xem một cảnh giới huy hoàng!

Với thần lực của mình - Hạc ấy chính là Đế Thích Thiên chủ hóa thân - Chàng Hạc cất đôi cánh trắng, và Nàng Hạc cảm nghe thân mình bị bốc lên, chao đảo, không cưỡng được, đã phải theo Chàng Hạc nhẹ nhàng bay xuyên qua những đám sương mờ.

Đế Thích đem Hạc đến cõi trời Đao Lợi. Và sau khi dẫn Nàng Hạc bay vòng quanh Ba Mươi Ba tòa bảo tháp, nhìn ngắm chư thiên nam nữ lộng lẫy cao sang, rồi cả hai bay đậu nơi các công viên, nhìn xuống đàn cá bơi lội nhởn nhơ giữa những viên cuội thất bảo, giữa những đóa hoa sen, hoa súng nhiều màu vi diệu.

- Vinh quang thay là thiên giới - Chàng Hạc say sưa nói - nàng công chúa hạc mến yêu! Chúng ta đã gặp nhau trong mộng, có bao giờ nàng mơ ước đến một thế giới như thế này: ta với nàng kết nghĩa phu thê, trường sanh bất lão, mãi mãi hạnh phúc trong những tòa lâu đài sáng ngời châu báu, đoanh vây xung quanh muôn triệu thiên nữ mỹ lệ, tươi cười như những đóa hoa vừa hé nụ ?

- Có, em có! Nàng Hạc thẹn thùa gật gật đầu, đôi mắt e ấp ẩn dấu niềm ước mơ cháy bỏng - Nhưng vẫn là mộng thôi, chàng hỡi!

Chàng Hạc bỗng vút cánh lên mây biến thành Đế Thích Thiên Vương, rỡ rỡ uy nghi ngồi giữa hư không với chiếc lọng trắng, xung quanh đoanh vây hằng sa thiên nữ.

Nàng Hạc sợ hãi quá chừng, định cất cánh bay, nhưng Đế Thích đã hiện nguyên hình trở lại, đến gần bên, cất lời rủ rỉ rù rì như mật rót:

- Em yêu! Kiếp trước ta là chồng của em, tên là Magha. Em tên là Sujàta, là vợ thứ tư của ta, ở ngôi làng Macala, quốc độ Ma-kiệt-đà...

Từng lời, từng lời của Đế Thích gợi lên hình ảnh vừa qua trong kiếp trước, phục hồi lại ký ức ngủ quên của nàng Hạc. Sujà ta bỗng nhớ lại tất cả. Nàng thổn thức, bồi hồi, không còn e thẹn gì nữa vì đây là chàng, là người chồng cũ. Sujatà nép mình bên Đế Thích như đặt trọn niềm tin, gửi trọn cả cuộc đời đào tơ liễu yếu.

Đế Thích với cố gắng, với tình nghĩa, nói cho Sujatà nghe tất cả mọi nhân, duyên và quả ; khuyên Sujatà sống đời thiện lương, giữ ngũ giới, những mong phước báu hỗ trợ giúp nàng thác sanh vào cõi trời Ba Mươi Ba để tái ngộ tình xưa. Thấy Sujatà nguyện giữ ngũ giới, Đế Thích mỉm cười hài lòng, đưa nàng trở về rừng cũ.

Tiếng nhạc cõi trời như còn vọng lại sau đôi cánh xa xăm, hương của các loài hoa vi diệu như còn thoảng đâu đây. Hạc tỉnh mộng, bàng hoàng. Sau đó, Hạc biếng ăn, biếng ngủ. Chàng ở trên cao kia do quá nhiều công đức đã làm trong kiếp trước! Còn ta? Ta đã tận hưởng các món ăn cũ, dư phước của kiếp nào. Khi mọi người làm các thiện sự như bố thí, trì giới, các công tác lợi ích xã hội, thì ta chỉ làm cho lấy lệ, làm cho mau qua, mau xong. Rồi cái giảng đường nguy nga đồ sộ cùng với hàng chục công trình phụ, là niềm vui chung cho cả làng, thế mà ta lại không đóng góp được chút gì. Ta chỉ lo trau chuốt, điểm trang, tới lui ngắm nghía để tự mãn, để khinh người. Ta ngồi trong im mát hưởng thụ ngũ dục, làm đẹp nhan sắc với phấn và hoa, với hương cho các đứa nô tì, kẻ làm công trầm trồ, tán thán. Chàng và họ, ba bà vợ đầu, nhờ công đức, nhờ phước báu đã gieo trồng, bây giờ họ ngồi ở thiên đàng mà hưởng phúc quả. Còn ta thì đọa lạc làm thân súc vật xấu xí này thì còn chi nữa mà tự mãn? Than ôi? Phải lo tu tập đi thôi, phải kiên quyết giữ ngũ giới cho tròn như chàng đã dạy!

Bắt đầu từ dạo đó, Hạc không ăn các sanh mạng còn sự sống, lại không quen ăn lá cỏ, các loại hạt nên Hạc gầy yếu rất nhanh. Ít tuần sau là Hạc kiệt lực, ngã gục bên bờ suối. Sương rừng và gió núi làm hạc tỉnh lại. Mệt mỏi, lờ đờ, Hạc lê vài bước. Một chút nước suối làm nàng tỉnh hơn... Và ô kìa! Một con cá béo ngậy nằm phơi cái bụng vàng óng ánh! Nó chết rồi. Đấy chỉ còn là tứ đại. Nó sẽ cho ta sinh lực và sự sống.

Khi ngậm con cá trong chiếc mỏ xinh xắn, Hạc nghe thân cá rung động, uốn cong chiếc đuôi. Hoảng hốt và như một phản xạ trong sạch từ lương tâm có giới hạnh, Hạc nhả con cá ra, thẩn thờ. Hạc còn không quên dùng chiếc mỏ đẩy con cá xuống dòng nước. Thà chết chứ ta quyết không sát sanh. Dẫu cho cái đói có thúc bách ta, hành hạ ta, ta vẫn kiên gan chịu đựng để được lợi ích và tiến hóa lâu dài.

Trước mắt Nàng Hạc chợt rực sáng. Con cá bạc từ suối nước bỗng vút lên hư không như một vệt thủy tinh, hiện thành Đế Thích Thiên Vương ngồi giữa đám mây lành, dịu dàng, rực rỡ.

- Lành thay, Sujatà đáng mến! Nàng đã có giới ở trong tâm. Nàng đã biết nghe lời ta. Thật ra, chỉ chớp mắt là cái kiếp Hạc phù du. Hãy kham nhẫn, chiến thắng vị dục và cái bụng, rồi nàng sẽ được tái ngộ cùng ta giữa cõi Thiên Đường hạnh phúc xán lạn.

Nói xong, Đế Thích biến mất giữa hư không.

Nàng Sujatà nhờ có giới hộ trì, nâng đỡ, nhưng vì chưa đủ công đức nên hết kiếp Hạc, lại tái sanh trong một gia đình nghèo khổ làm nghề thợ gốm ở Ba-la-nại.

Từ đỉnh Sineru, nhờ thiên nhãn, Đế Thích Thiên Vương biết chỗ sanh thú của nàng. Lần này, Đế Thích hóa thành một cụ già đẩy một chiếc xe đầy dưa chuột chín vàng đi vào thành phố.

Ông già bán dưa chuột rao vang cái câu lạ lùng:

- Ai cần dưa, hãy đến lấy! Ai có giới hãy đến lấy dưa!

Màu dưa chuột chín vàng rất thích mắt, thấy là đã muốn ăn ngay. Thật là của hiếm giữa mùa nắng cháy rát da. Người ta đổ xô lại và ai cũng tranh phần muốn mua.

Ông già hét to:

- Các người là ai? Các người có giới không? Ta chỉ cho dưa chuột đến người có giới!

Mọi người nói:

- Tôi chẳng biết giới là gì, nhưng tôi có tiền. Tôi sẵn sàng trả giá cao nhất.

- Hãy đi - Ông già bán rong lấy tay xua - Ta không cần tiền. Tiền bạc có tích sự gì. Ta chỉ cho không đến người có giới.

Với sức mạnh, do thần lực của vị Thiên Chủ, đôi cánh tay gầy guộc của cụ già như hai vòng đai kiên cố bảo vệ xe dưa chuột. Đám đông như chạm phải một bức tường sắt, dạt lui. Ai cũng nghĩ là ông già ấy điên. Mọi người lảng tránh dần.

Tiếng rao của cụ già khàn khàn nhưng vọng từ đường phố này sang đường phố khác, từ khu nhà này sang khu nhà khác. Muôn dân thành Ba-la-nại không hiểu tại sao cứ nghe mãi âm thanh của ông già rao cho dưa chuột vang vang trong lỗ tai. Kể cả kẻ điếc lãng, họ không hiểu tại sao, hôm ấy họ cũng nghe rất rõ ràng.

- Ai có giới, ta cho không dựa chuột. Ai có giới, ta cho không cả xe dưa chuột.

Tiếng rao đến tai, nàng Sujatà bần khổ rung động mạnh. Tiềm thức quá khứ mơ hồ trở về. Nàng biết giới, nghĩ về giới, quen với giới như người bạn thân đi xa lâu ngày gặp lại. Nàng rẽ đám đông bước tới:

- Thưa cụ, tôi biết giới, tôi có giới. Hãy cho tôi dưa chuột!

Cụ già chợt nở nụ cười hóm hỉnh, nhìn Sujatà hỏi rằng:

- Cả xứ Ba-la-nại này có ai biết giới là gì đâu, vậy tại sao nàng biết?

- Thưa cụ, tôi biết từ quá khứ.

- Vậy giới là gì nào, cô bé ?

- Là ngăn giữ những điều ác, thưa cụ.

- Vậy là đúng! Vậy là tốt! Này cô bé, hãy thọ trì ngũ giới đấy nhé!

Rồi Đế Thích trao cả xe dưa chuột cho nàng, chỉ nói riêng cho nàng nghe:

- Đây chẳng phải là dưa chuột đâu mà là cả xe vàng ròng đấy. Hãy dùng của cải này nuôi mạng sống, nuôi cha mẹ già và làm các công đức. Nhớ tích lũy thêm các công đức, bố thí và làm các thiện sự hữu ích đến mọi người.

Sujatà y lời, giữ giới trong sạch, cúng dường các đạo sĩ, bố thí đến người nghèo khổ, xây dựng các trạm phước xá, chẩn bần cho đến mãn đời. Hết tuổi thọ, mạng chung, nàng sanh làm công chúa cõi A-tu-la thiên, mang sắc đẹp quý phái, đôn hậu và thùy mị.

Đến tuổi trưởng thành, A-tu-la Vương cho nàng tự do kén chồng. Các A-tu-la Hoàng tử khắp các cõi A-tu-la đồng đến tham dự. Đế Thích giả làm một A-tu-la hiên ngang, anh tuấn, cưỡi thớt ngựa trời sáng ngời châu báu. Giữa đám thanh niên A-tu-la, Đế Thích đẹp đẽ, phương phi, cao sang như chúa phượng hoàng.

Nhìn thấy Đế Thích, trái tim công chúa A-tu-la rung động mạnh bởi sợi dây luyến ái nhiều đời kiếp. Nàng chọn Sakka làm chồng giữa muôn vàn tiếng reo hò, tán dương của thần dân ngưỡng mộ.

Đế Thích ra mắt nhạc gia, hiện thành thân tướng trang nghiêm đầy uy lực của một vì Thiên Chủ tối cao, trình bày cho A-tu-la Vương nghe rõ nhân, duyên và quả, rồi sau đó muốn kết tình giao hảo giữa hai quốc độ.

A-tu-la Vương ban đầu đùng đùng nổi giận, sau nhìn thấy con gái đang rỡ rỡ hạnh phúc, nghĩ rằng, bây giờ dẫu là ông Vua Trời cao quý nhưng đã hạ mình làm giai tế, thì có lý nào lại cố chấp, chuốc mối oán thù? Điều nên đáng hãnh diện nữa là khác!

Bèn cười ha hả:

- Đế Thích! Ha ha! Rốt lại ngươi là con rể của ta, ha ha...

Đế Thích mỉm cười vui vẻ, sai chư thiên thuộc hạ dâng rượu trời, một số lễ vật cõi A-tu-la không thể có,... rồi vái lạy A-tu-la Vương làm nhạc phụ. Sau đó Đế Thích chào cha vợ rồi dẫn công chúa A-tu-la về cung trời Đao Lợi, tặng riêng nàng một tòa lâu đài, đặt nàng lên địa vị Thứ hậu, xung quanh đoanh vây hai ngàn năm trăm vạn thiên nữ.

Thanh niên Magha, trời Đế Thích là tiền thân Phật Thích Ca vậy.

Tiếp theo


[Ðầu trang][Trở về trang Mục Lục][Trở về trang Thư Viện]

updated: 2007