Trung Tâm Hộ Tông  Trang Chủ


Thanh Gươm Ba-La-Mật

Tác giả: Minh Đức Triều Tâm Ảnh



Vòng tay kiều nữ

Sau khi nghe một thời pháp từ bậc đạo sư ở rừng Trúc, thanh niên Tissa đi thẳng về nhà.

- Thưa cha mẹ, hãy cho con xuất gia.

- Không thể được - Người cha nói - Ta chỉ có con duy nhất là trai. Con sẽ kế thừa cả một gia sản to lớn đấy.

- Quý gì cái gia sản ấy - Tissa nói - Hãy để con xuất gia.

- Không thể được - Người cha vẫn khăng khăng giữ lập trường của mình. Con là một thanh niên giàu có, cao sang, thuộc dòng dõi quý tộc. Vương tôn, công tử đứng chầu chực đầy cửa nhà, vinh hạnh được kết bạn với con. Mỹ nhân thiên hạ mong được cùng con gá nghĩa se duyên. Nô tì, kẻ làm công, ai cũng muốn phục dịch, hầu hạ con. Vậy con hãy ở nhà để giữ ánh sáng vinh quang cho gia tộc.

- Cái đó là phiền não, chẳng phải vinh quang. Hãy cho con xuất gia.

Nói xong, thanh niên Tissa vươn vai đứng thẳng như một con mãnh sư bình minh thức dậy trên non cao. Chàng to lớn, đẹp và hùng vĩ như một cái tháp bạc. Hai tay chàng vòng lại, chiếu đôi mắt như hai tia lửa xanh nhìn đăm đăm vào người cha không chớp, biểu hiện một ý chí vô hạn.

Người cha bủn rủn trước uy lực của con, hối hả lên lầu cao đánh trống triệu tập tất cả gia nhân. Lát sau những bước chân rầm rập đổ ra các hướng. Rồi thì ngựa phi, xe hai ngựa, xe bốn ngựa mỹ lệ, sang trọng từ các đường phố tất cả chạy lại.

Bạn bè, thân hữu của Tissa đều được gọi đến đứng chật nhà trong, nhà ngoài.

- Này bạn Tissa, sao vậy? Một người nói - Bạn có quẩn trí, thất vọng, buồn phiền chăng?

- Tissa quý mến! Người khác ân cần - con beo vàng kiều diễm của ta! Hay là chúng ta có làm điều gì tổn thương đến bạn?

- Thành phố Vương Xá này sẽ không còn mặt trời, mặt trăng nếu bạn ra đi! Tissa bạn ơi, hãy ở lại! Chúng tôi cần bạn như trái tim, như con mắt, như núm ruột không thể cắt lìa!

Thanh niên Tissa đứng vô cảm trước những lời xun xoe của bằng hữu. Đợi họ nói xong, chàng mới mở lời:

- Các bạn hãy về đi, đủ rồi!

- Thế là bạn ở lại chứ? Không có đi theo lũ trọc đầu ăn xin đó chứ?

Như một con cọp quay lưng vờn mồi, Tissa chiếu tia mắt rực lửa, quát như sấm nổ.

- Hãy liệu cái miệng của các bạn! Lời phỉ báng kia sẽ bửa cái đầu của bạn ra làm bảy mảnh! Đức Thế Tôn và Chư Tăng - đấy là những người đã cứu sự sa đọa cho thế gian này. Từ rày, Tissa nói nhỏ lại - ở cái thành phố này, ta không có ai là bạn nữa!

Nhát dao đã buông xuống, chém phăng, đứt lìa! Tissa quay lưng đứng nhìn ra cửa sổ. Bạn bè lấm lét kéo nhau đi hết.

Ngày thứ nhất qua đi, chàng không uống, không ăn, đứng sững như cây cột trồng.

Người mẹ bước tới, hai hàng nước mắt dầm dề.

- Tissa con ơi! Con nỡ nào hành hạ mẹ cha như thế? Con đứng, và hai chân con lún sâu vào trái tim của mẹ! Hãy ăn, hãy uống đi con! Rồi con hãy mặc vào những bộ y phục của con nhà trời, trang sức các thứ châu báu của chúa loài rồng. Và thế là tự ý con, leo lên những cỗ xe hai ngựa trắng của thiên thần, với những đãy tiền vàng, tha hồ mà tiệc tùng, ca hát, vui chơi, xung quanh cả bầy tiên nữ, hưởng các lạc thú trần gian...

Người mẹ kể lể xong, lấy ra một cái rương vàng đựng y phục quý giá, và một hộp bạc đựng đồ trang sức, cố ý khua lanh canh. Nhưng Tissa vẫn không quay lại, chàng chẳng hề động tâm.

Qua ngày thứ ba, Tissa có uống chút nước nhưng chàng vẫn không ăn. Người cha lại đến bên, nỉ non:

- Con ơi! Gia đình ta có tám ức triệu đồng tiền vàng. Với gia tài này, sau này, con bỏ ra một ít để mua chức Tiểu Vương. Như vậy là uy quyền danh vọng của con chẳng khác gì một vị Thiên tử, mà giàu sang thì thế gian này chẳng ai dám sánh. Có thể lập một bà chánh phi, dĩ nhiên là phải lựa chọn một người nữ mà tài sắc và đức hạnh vẹn toàn. Ngoài ra, con có thể lấy một ngàn tỳ thiếp hay lập ba cung, sáu viện tùy theo sở thích. Nếu con muốn sử dụng ngay số tiền này thì bắt đầu từ bây giờ, cha sẽ làm giấy kế thừa cho con, có triện son của Đức Vua vào buổi chiều.

Thanh niên Tissa tiếng nói đã lạc hẳn đi:

- Hãy cho con xuất gia.

- Hãy ăn một chút gì cho lại sức. Máu huyết ở nơi con sẽ khô, dung sắc thù thắng chói sáng như vàng như bạc của con sẽ tàn phai mất thôi!

Người cha thở dài. Ông không còn một hy vọng nào nữa. Ông xót xa nhìn hai chân run run của con:

- Con đứng hoài như vậy sao?

- Không đứng nổi nữa, con sẽ ngồi.

- Con không ngủ sao?

- Khi con ngồi, con sẽ ngủ chút ít.

- Thế còn ăn?

Thanh niên Tissa ngước đầu lên, giọng đã hơi yếu:

- Thưa cha, nếu chưa được phép xuất gia, con sẽ không ăn, không ăn mãi mãi.

- Đến ngày thứ bảy, Tissa rơi xuống như thân chuối đổ. Chàng giờ như cái xác khô, tuy thế vẫn gượng dậy, ngồi thế bán già, tĩnh lặng.

Cha mẹ Tissa đã thất bại trước ý chí của con. Nó sống còn hơn không, bèn cho xuất gia.

Thanh niên Tissa sau khi được Bậc Đạo Sư cho xuất gia ở rừng Trúc, chàng đi đến Xá Vệ, đảnh lễ các vị trưởng lão ở Kỳ Viên, rồi ôm bát ra đi, nguyện thọ đầu đà bậc thượng, gồm 13 pháp:

- Chỉ dùng ba y.

- Mặc y do vải lượm.

- Chỉ đi khất thực mà dùng

- Khất thực theo thứ tự từng nhà.

- Chỉ dùng vật thực trong một chỗ ngồi.

- Chỉ dùng trong một bát.

- Không thọ thêm vật thực nào nữa.

- Ngụ trong rừng.

- Gần cội cây.

- Ngụ nơi chỗ trống.

- Nơi nghĩa địa.

- Chỗ Tăng chỉ định.

- Ngăn oai nghi nằm.

Thế rồi, tỷ-kheo Tissa tu hành tinh tấn, giới hạnh trang nghiêm. Chỉ một thời gian sau, mặc dầu hạ lập còn nhỏ, chúng tỳ khưu kính trọng chàng, gọi chàng là trưởng lão Cullapindapapatika. Kinh nói rằng: “Ngài chói sáng trong giáo pháp của Đức Thế Tôn như mặt trăng giữa bầu trời”.

Trong khi ấy, tại Vương Xá thành, gia đình người triệu phú sống trong không khí sầu muộn. Người mẹ với nước mắt không khô. Người cha bước vô, bước ra thở vắn, than dài.

Cứ mỗi ngày lễ hội đến, người mẹ lại lấy ra rương vàng, hộp bạc; lấy ra y phục và đồ trang sức của Tissa thuở trước, đấm ngực, than thở ỉ ôi:

- Con ôi là con ôi! Những rương vàng tráp bạc của con còn đây. Đây là y phục của con nhà trời. Đây là châu báu trang sức của chúa loài rồng. Cứ mỗi lần lễ hội, con ngồi trên chiếc xe hai ngựa trắng thiên thần. Và thế là mặt trời của thành Vương Xá xuất hiện. Nay con ở đây? Ông Sa-môn Cồ Đàm ấy mang con đi đâu? Hiện giờ con đang đứng ở chỗ nào? Đang ngồi ở chỗ nào? Vật thực hằng ngày có đủ no bụng? Và khi trời mưa, trời lạnh, trời nóng, trời gió, trời bão, con có cái mái trên đầu để che? Cái thân của con có đủ kín bởi một manh vải?

Chợt nhiên trước mặt người đàn bà rực sáng: Một người con gái dung sắc mỹ lệ đứng mỉm cười bên ngưỡng cửa.

- Thưa mẹ - cô gái tự nhiên nói - mẹ đừng than khóc sầu muộn nữa. Con gái của mẹ sẽ mang Tissa về cho mẹ.

Người đàn bà lau vội nước mắt, biểu lộ sự ngạc nhiên:

- Cô là ai? Xin lỗi, tôi chưa được hân hạnh làm mẹ một cô gái tuyệt với khả ái như thế. Cô là ai?

Cô gái lạ mặt lấy một chiếc khăn trắng tinh từ cái xách thêu chỉ vàng, có tẩm bột hương, dịu dàng lau nước mắt cho người đàn bà sầu khổ.

- Thưa mẹ, con cũng dễ gì mà được làm con của một người có tình thương vô bờ bến như mẹ. Giá có chết bảy đời để được làm con của mẹ trong ít ngày, sống trong tình thương của mẹ, như mẹ đối với Tissa - thì con sẽ mãn nguyện vô cùng.

- Tissa, Tissa! Người mẹ lắp bắp - Cô biết Tissa ư?

- Thưa mẹ - giọng cô gái thân thiết, êm dịu - Tissa, đấy là một thiên thần của trái đất. Ở Vương Xá thành này, ai không thấy Tissa là kẻ đó không có mắt; ai không nghe chuyện Tissa là kẻ đó không có tai; ai không thương mến Tissa là kẻ đó không có trái tim!

Người mẹ hởi lòng, hởi dạ, xiết chặt tay người con gái:

- Nay thì nó không còn nữa, con à! Người mẹ thì thào - Nó đi và đi biệt. Nó đi xin ăn từng hạt cơm thừa bằng thân con quạ! Nó kiếm từng vá canh thừa những nước ốc chua! Nó đi lượm những mảnh vải bó tử thi để mặc! Nó ngồi ở chỗ không có mái che. Còn nói gì đến y phục, thuốc thang, chăn đơn, chắn kép? Còn nói gì đến các món ăn thượng vị loại cứng, loại mềm? Ôi! Con ôi! Giờ con ở đâu?

Cô gái dìu bà mẹ đến chỗ ngồi, quạt mát và xoa lưng rồi cất giọng dịu dàng:

- Mẹ ơi! Chắc mẹ muốn Tissa trở về nhà lắm phải không?

- Cô hỏi gì lạ đời! Ai mà không muốn? Người mẹ chợt hạ thấp giọng - Nhưng mà cô ơi, cô không biết đâu! Nó cứng lắm. Cái thanh sắc nguội cũng không cứng hơn cái đầu của nó. Cái lòng của nó lại như ngọn núi đá, gió bão gì cũng không lung lay được. Nó xuất gia thôi. Nó không trở về đâu!

- Không cứng như mẹ tưởng. Người con gái mỉm cười - Nếu con đem được Tissa về cho mẹ thì mẹ thưởng cho con cái gì nào?

- Gì cũng được hết. Có Tissa là có tất cả. Mất Tissa là mất tất cả.

- Thưa mẹ, nếu vậy thì mẹ hãy hứa với con một lời. Mẹ hãy cho con chủ quyền hoàn toàn trong gia đình này, con sẽ mang Tissa về đây cho mẹ, như mang một con cừu!

Người đàn bà tưởng tai mình nghe lầm, sửng sốt hỏi:

- Cô nói là “chủ quyền hoàn toàn”, thế là thế nào? Cái tiền phí tổn cho cô làm công việc đó là toàn bộ gia sản tám ức triệu đồng tiền vàng hay sao?

Cô gái vẫn giữ nụ cười trên môi:

- Không phải vậy đâu mẹ ơi! Gia tài vẫn là của mẹ, vẫn là của Tissa chứ!

Người mẹ bây giờ mới hiểu ra:

- Ồ! Này con yêu quý! Này con dâu của mẹ! Thật xứng đáng cho Tissa có được người vợ tài sắc vẹn toàn như con.

Cô gái vốn là một kỹ nữ quý phải nổi danh tại thành Vương Xá, nổi danh trong giới quý tộc, trước đây đã nghe danh Tissa, đã thấy Tissa và thầm yêu trộm nhớ chàng trai phong nhã ấy. Nay có cơ hội mà mọi phí tổn đều do gia đình Tissa cung cấp, nên nàng quyết ra tay chinh phục.

Sau khi hỏi bà mẹ về những thói quen, sở thích, nhất là món ăn mà trước đây Tissa thường hay thích dùng, nàng mang theo một số tiền lớn của bà mẹ đưa, ngồi trong một chiếc xe có rèm che sang trọng, cùng với đám tùy tùng đi về Xá Vệ, là nơi mà chàng Tissa đang hành đạo.

Cho người theo dõi, biết được giờ đi, giờ về của Tissa, cô gái mua một ngôi nhà tươm tất trên con đường ấy, giá cả thỏa thuận rất nhanh, rồi mau chóng tổ chức nếp sinh hoạt với mọi người vào ra như dân bản xứ...

Cuộc chinh phục bắt đầu...

Trên con đường khất thực sáng nay trở về, trưởng lão Ullapindapatika cảm nghe có chuyện lạ. Một cái gì khác thường xảy ra ở đây. Nơi cái cổng quen thuộc, từ lâu đóng cửa im ỉm, mọi khi chẳng có ai ra cho một cái gì, thì nay để một món ăn, một tiếng thỏ thẻ dịu ngọt bên tai lẫn một mùi hương quyến rũ. Tissa thoáng lay động, nhưng trấn tĩnh được ngay. Về đến nghĩa địa, dưới cội cây, khi ngồi xuống để độ thực, chàng bắt gặp một món ăn yêu thích thuở còn tại gia. Đây là món ăn chỉ có mẹ chàng mới làm nổi. Vì nó đòi hỏi tiền bạc, công phu, thời gian, sự khéo léo... và nhất là một tấm lòng.

Suốt mấy năm đầu đà khổ hạnh, cái thân thể cường tráng, đẹp đẽ, chói sáng như cái tháp bạc của chàng giờ đã gầy khô, xương xẩu như que củi. Chàng đã quên đi quá lâu các sở thích, các ham muốn vị dục. Cái khẩu vị của chàng cũng quên đi quá lâu những thức này ngon, thức này béo, thức kia bùi. Bình thường, chàng nuốt nó đi, cũng không phải nuốt nữa, chàng đổ vào cho nó trôi qua cổ. Vừa đổ vừa quán tưởng: ăn là để duy trì mạng sống mà hành đạo, chẳng phải làm cho đẹp cái thân, chẳng phải để phô phang sức lực, chẳng phải để nô lệ cái xác... Và cái xóm mà chàng đi khất thực hàng ngày là xóm lao động nghèo nàn; vật thực của họ thì may ra cũng chỉ để no bụng, nên phù hợp với sự tu hành lập nguyện của chàng. Nhưng nay có sự đổi khác.

Nơi cái món ăn của căn nhà kia, mới nuốt một miếng đầu tiên, không kịp quán tưởng, Tissa cảm nghe như nó đánh thức cả châu thân. Những máu huyết, những tế bào, những lỗ chân lông... như đứng bật cả dậy. Tất cả thân thể như được tỉnh thức sau một cơn ngủ dài. Tissa hốt hoảng ngồi ngay ngắn lại, điều thân quán tưởng. Nhưng rồi... miếng thứ hai, miếng thứ ba... cho đến luôn cả gói vật thực - không nhiều lắm - thì chàng không còn kiểm soát được tâm ý, không còn quán tưởng gì được nữa. Chàng không nuốt, không đổ mà nó tự trôi, cũng không phải tự trôi mà bên trong nó lôi vào, nó kéo vào!

Tissa phải kiên trì chiến đấu. Cho đến lúc chiều mát, chàng mới đi vào được cơn yên lặng của thiền định.

Ngày thứ hai, với ý chí đang còn mới mẻ, chàng có ý định từ bỏ căn nhà ấy, nhưng chàng nghĩ lại, không phải lúc nào cũng có món thượng vị. Đâu đó chỉ là sự tình cờ thôi. Nhưng dường như nó chẳng tình cờ chút nào, chàng lại bắt gặp mùi hương cũ, một món ăn thượng vị khác nữa. Đặc biệt hôm nay, dẫu chàng cố bịt tai, vẫn nghe được giọng nói ngọt ngào, cố nhắm mắt cũng thoáng thấy cổ tay, ngón tay nuột nà ngọc chuốt của người con gái.

Thế rồi, cuộc chiến đấu thầm lặng diễn ra suốt buổi chiều, hôm nay cường liệt hơn một tí, gần tối chàng mới đi vào thiền định.

Có thể từ bỏ ngôi nhà không? Chàng lại nghĩ, pháp và luật của bậc Thánh có cho phép ta, thọ đầu đà bậc thượng, lại khởi tâm phân biệt, đứng nhà này mà không đứng nhà kia trên cùng một con đường? Và rồi, bữa thứ ba, một món ăn khác nữa, cũng là món mà chàng yêu thích thuở nào, được nấu một cách thiện xảo, lẫn cái mùi hương mà chàng không còn quên được nữa.

Thời gian sau, chẳng lâu lắm, người ta thấy trưởng lão Cullapindapatika có da, có thịt hơn, nhưng dáng đi không còn thanh thản, thong dong nữa. Chàng vẫn giữ hạnh đầu đà, cũng lần lượt từng nhà một xin ăn trên con đường cũ ấy. Tuy nhiên, đôi khi chàng lại được nữ thí chủ ôm bát thỉnh vào nhà. Có vật thực xong, chàng vội ra ngay. Thỉnh thoảng, có lẽ vì “thuyết pháp” hay nói vài lời “phúc chúc” chàng ở lại lâu hơn một tí.

Hôm kia, biết cá đã cắn câu, biết sợi dây vô hình đã ràng buộc được cánh chim bằng, người kỹ nữ giả vờ bệnh và nằm ở trong phòng. Khi Tissa đến, một người hầu ra thỉnh bát.

- Nữ thí chủ hôm nay vắng nhà?

- Bạch trưởng lão, không phải vậy đâu! Người hầu chấp tay thưa - nữ chủ của con ngọc thể bất an, đang nằm mê man trên gường bệnh.

Tissa ngần ngại.

- Ôi! Nữ chủ của con trông mong trưởng lão xiết bao! Chỉ cái bóng của trưởng lão cũng đủ làm mát mẻ, êm dịu cho nữ chủ  của con trước cơn bệnh ngặt nghèo!

Trưởng lão vào nhà, chẳng thấy ai. Người hầu chỉ vào chiếc màn the ủ hương.

- Nữ chủ của con dẫu biết là thất lễ những chẳng thế nào ra đảnh lễ, cúng dường. Xin trưởng lão hãy ngồi đây - chỗ mà nữ chủ đã soạn sẵn - để cất tiếng hỏi! Ôi! Chỉ một tiếng nói của trưởng lão cũng công hiệu hơn, mau lành bệnh hơn cả ngàn thang thuốc quý.

Tissa tự nghĩ: “Chỉ một hạt cơm, một muỗng cháo cũng là ân, là nghĩa với chúng sanh. Lẽ nào ta lại vô tình mà không hỏi han bệnh tình”.

- Chẳng hay nữ thí chủ có kham nhẫn nổi cơn bệnh? Nó có triệu chứng giảm hay triệu chứng suy? Và bần tăng có thể làm gì cho nữ thí chủ qua cơn thống khổ?

Có tiếng người rất yếu vọng lại.

Người hầu nói:

- Trưởng lão hãy cùng con vào thăm nữ chủ con một tí. Giọng nói của nữ chủ con giờ rất yếu, hay là đang hấp hối rồi đây!

 Nói xong, y như hốt hoảng nắm tay trưởng lão kéo vào chiếc màn the ủ hương. “Đây là một người hầu nam. Đây là một việc phải lẽ. Không thể không vào thăm một người sắp chết đang cần đến mình.” Trưởng lão Tissa suy nghĩ như thế.

Căn phòng tối mờ. Lát sau, Tissa mới nom rõ một người đang nằm trên giường bệnh. Cả đầu, cả chân được phủ kín mít bằng một chiến chăn. Người nằm không động tịnh.

- Bần tăng vào thăm nữ thí chủ đây.

Tissa cất giọng nhỏ. Trên giường, chiếc chăn lay động và người kỹ nữ với một động tác cố gắng ngồi dậy. Với một cử động mạnh làm như quá đà, không gượng nổi, người kỹ nữ run xiêu té về phía trưởng lão. Tissa hốt hoảng, không còn thấy người hầu đâu, vội đưa tay đỡ người đàn bà. Khi ấy, chiếc chăn mới chịu rơi xuống. Tissa chết sững như trời trồng, chưa kịp trấn tỉnh, đã bị chiếc chăn quấn lại... rồi chết lịm đi trong mùi hương, trong vòng tay mềm mại của người kỹ nữ!...

Vĩnh viễn không còn hình bóng của trưởng lão Tissa ôm bát trở về Kỳ Viên nữa.

Chỉ vài hôm sau, người ta thấy ở căn nhà kia xuất hiện một cỗ xe ngựa trắng, các cửa có rèm che sang trọng. Trong xe, một thanh niên y phục như con nhà trời, trang điểm châu báu của chúa loài rồng, ngồi cạnh một cô con gái đẹp như chúa loài tiên, với đám tùy tùng lớn, nhàn nhã đi về thành Vương Xá...

 


Tòa bảo tháp


Thuở xưa, tại Vương Xá thành có người Bà-la-môn giàu có, tài sản trăm kho, tôi trai, tớ gái đầy như buổi chợ đông.

Khi tuổi đã lớn, có vài sợi tóc bạc, người Bà-la-môn buổi sáng cùng nhóm tùy tùng với ngựa xe đi ra cửa đông, buổi tối lại về. Những ngày sau nữa, người Bà-la-môn và thành nhóm tùy tùng đi ra cửa thành bắc, thành tây,... rồi trở về.

Con trai người Bà-la-môn là một thanh niên có trí tuệ, thấy cha đi và về với sắc diện không thư thái, đầy nét u ám, buồn phiền, bèn hỏi:

- Thưa cha, nếu có việc gì phải đi đâu, cha có thể sai bảo con. Nay cha tuổi đã lớn, nên dành thì giờ để an tịnh, nghỉ ngơi.

- Này con thương! Người Bà-la-môn nói - Chính ta đang đi tìm chỗ an tịnh, nghỉ ngơi, nơi không có uế nhiễm.

Người con trai ngạc nhiên, tự nghĩ: “Nay cha ta lại nói lên lời sáng như mảnh trăng rằm! Tại sao? Từ lâu, cha ta sống đời tích lũy không hề biết đủ, không hề dừng lại. Cha ta thu góp tài vật bằng tất cả khả năng của trí óc, bằng tất cả mọi cơ hội có thể được. Thế nhưng, hai bàn tay của cha ta không có kẽ hở. Không có một trinh, một hào nào rớt ra cho các vị Sa-môn, đạo sĩ, kẻ làm công, người đói khổ. Bỏn xẻn, keo kiệt đã trở thành bản chất của cha ta. Với thiện pháp, cha ta quay lưng không thèm ngoảnh lại. Thật là hy hữu, hôm nay, cha ta lại nói đến chỗ an tịnh, nghỉ ngơi, nơi không uế nhiễm!”

- Lành thay, thưa cha! Người con hân hoan nói - Vậy thì cha đang đi tìm chốn tịnh thổ để an cư? Chỗ không có uế nhiễm để nương náu đời đời?

Người Bà-la-môn gật gù:

- Phải vậy, phải tìm cho bằng được! Con ơi, con có thấy chăng? Tài sản một trăm kho, ngựa xe, tôi trai, tớ gái đầy như buổi chợ đông, nhưng rồi cuối cùng chúng cũng từ bỏ ta mà đi, ta chẳng thể nào nương nhờ vĩnh viễn nơi chúng được!

- Lành thay, thưa cha! Đó là lời nói của kẻ trí!

Người Bà-la-môn hài lòng, tiếp tục câu chuyện:

- Và rồi, khi quả tim mệt mỏi hết làm việc, máu không còn chảy nữa, sứ giả của tử thần sẽ đi đến bằng hai bánh xe có răng cưa, với lưỡi hái sắc nhọn, thì con ơi, bấy giờ ta còn biết chạy trốn vào đâu?

- Lành thay! Người con hoan hỷ - Đấy là lời dạy của các bậc Sa-môn. Các pháp vô thường, các pháp vô ngã. Nó thay đổi, biến hoại trong từng khoảnh khắc. Sợi tóc nó xanh. Sợi tóc nó bạc. Hôm nay còn trẻ, mai sẽ già, kia sẽ chết. Chẳng ai chạy trốn được tử thần. Vậy hãy xây hòn đảo cho chính mình.

Người Bà-la-môn thốt lên, khoan khoái:

- Ôi! Phải thế chứ! “Hòn đảo cho chính mình”. Con ví von hay lắm! Vậy thì con ơi! Tài sản này ta sẽ làm phương tiện để lát lối đi, để xây những bức tường bằng đá kiên cố. Rồi ở đó, ta sẽ kiến tạo một hòn đảo, đúng hơn là một tòa bảo tháp, đời đời thanh tịnh, không uế nhiễm, phải không con?

- Lành thay! Người con trai lại tán dương - Đúng là một tòa bảo tháp, thưa cha đáng kính trọng.

Người con nghĩ: “Ánh sáng từ đầu mà đến được nơi cha ta, nếu không là một vị Sa-môn?”

Hôm kia, với đoàn tùy tùng, người Bà-la-môn trở về, mặt mày hớn hở:

- Này con, cha đã tìm ra!

- Ở đâu, thưa cha?

- Ồ, chỗ ấy, núi Linh Thứu, nơi thanh tịnh, không uế nhiễm!

Một phỉ lạc phát sanh trong tâm người con trai: “Đúng rồi! Nghe nói Đức Phật Cồ Đàm và Tăng Chúng thường thiền định độc cư ở đấy. May mắn thay, cha ta đã gặp họ!”

- Bây giờ, người Bà-la-môn nói - trước khi từ bỏ tất cả, ta sẽ dẫn con đến nơi cho thấy tận mắt. Cha và con còn rất nhiều việc phải làm.

Thế rồi, cha con người Bà-la-môn và tùy tùng lại ra đi. Đến chân núi Linh Thứu, tại chỗ xe không còn đi được, họ theo lối mòn lên đỉnh núi cao.

Đây quả là một cảnh giới thần tiên u tịch, xa cách sự huyên náo của thế gian. Đâu đó bên bờ suối là một cốc tranh, một tỷ-kheo. Đâu đó trên tảng đá chênh vênh in bóng một Sa-môn đang thiền tọa. Đâu đó từ lùm cây xanh, một chiếc y vàng hiện ra, dáng dấp an nhiên, trầm mặc.

Tuy nhiên, đoàn người đi qua, vượt qua...

Người con nghĩ: “Cha ta cứ đi qua, cứ vượt qua, không dừng lại nơi vị tỷ-kheo, Sa-môn nào? Hẳn là cha ta biết rõ việc mình làm. Đức Thế Tôn hiện ở trên ấy chăng?”

Đến chóp núi Linh Thứu, người Bà-la-môn lả đi vì kiệt sức. Tuy thế, ông ta lấy sức rất nhanh vì không khí mát lành.

- Con thấy sao? Đây có phải là chỗ đời đời an cư lý tưởng không?

- Dạ, nhất định rồi.

- Bảo tháp ấy ta sẽ thành tựu ở đây.

- Không còn nơi nào hơn nữa.

Người Bà-la-môn đưa mắt nhìn mặt trời, hướng đông, hướng tây,... rồi nói:

- Trước khi thành tựu tòa bảo tháp, hẳn là phải có lối đi, phải không con? Có lối đi rồi, ở đây phải luôn luôn được gìn giữ, phòng hộ bằng toà thành kiên cố, phải không con?

- Chắc chắn phải như vậy! Người con gật đầu mạnh mẽ.

Người Bà-la-môn kiếm một tảng đá bằng, ngồi xuống, vỗ vai con trai rồi chậm rãi nói rằng:

- Này, người con chí hiếu! Vậy thì bắt đầu từ ngày mai, tài sản một trăm kho ta sẽ xuất cho con lần lượt sử dụng. Con sẽ đi khắp thành Vương Xá, kêu một ngàn thợ giỏi, gồm thợ chính và thợ phụ. Với đá, với cát, với sạn, với vôi, với mật... tự tay con mua, sai gia nhân chở về rồi mang lên đây. Con sẽ đứng ra, vừa làm vừa chỉ huy, sách tấn họ. Có thể đánh bằng roi gậy hoặc đánh bằng tay chân, miệng lưỡi với giá cao. Phải hoàn thành bảo tháp này. Ở đó phải có những cột, những tường, những mái, những lan can, cửa tròn và cửa vuông. Phần bên trong phải có chạm trỗ, hoa văn, khảm và dát bảy báu.

Sau khi ta chết đi, con ướp xác ta với nước hoa, với hương, với trầm, với trà. Rồi con đốt xác ta bằng gỗ chiên đàn, và như vậy, xương cốt sẽ thơm tho. Sau cùng, con bỏ cốt ta vào trong một chiếc rương bạc, tôn trí ở đây như cung điện của đấng Chuyển Luân Thánh Vương. Như vậy, ta sẽ an trú đời đời thanh tịnh, không uế nhiễm!

Người con trai há hốc mồm, im sững như bị hóa đá, như thân cây chết đứng!...

Đức Thế Tôn thiền định độc cư đứng dậy, với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy rõ cha con người Bà-la-môn có căn duyên chứng quả Dự Lưu, như một vầng mây sáng, ngài hiện ra giữa hư không trên đỉnh Linh Thứu.

- Hy hữu thay là tòa bảo tháp! Này người Bà-la-môn! Như Lai cũng có một tòa bảo tháp thanh tịnh đời đời, không uế nhiễm. Hãy nghe, Như Lai sẽ nói.

- Hay lắm! Người Bà-la-môn ngẩng đầu lên - Chắc đây là ông Cồ-đàm mà ta đã nghe danh từ lâu! Chỉ có kẻ trí mới gặp được nhau thôi. Hãy nói đi, ông Cồ Đàm đáng kính trọng!

Đức Phật không hề chấp trước lời nói thiếu cẩn trọng, kiêu ngạo và đầy si mê của người Bà-la-môn. Với lòng bi mẫn, từ từ, Đức Thế Tôn dùng trí sanh tử, cho người Bà-la-môn thấy rõ các kiếp sống của ông ta. Tại đây, tại Vương Xá thành này, mười bốn ngàn đời ông có tên là Upasàlhaka. Cũng tại đây, tại đỉnh Linh Thứu này, ông đã thiêu xác mười bốn ngàn lần. Như vậy, tại địa cầu này, chẳng có nơi nào là vô uế, thanh tịnh cả. Nơi nào cũng tràn đầy đầu lâu, xương thịt, máu và nước mắt... Rồi Đức Phật thuyết pháp khai mở cho ông ta, tóm tắt bằng bài kệ:

”Chỗ nào có chân lý

Chánh pháp và bất hại

Có tiết chế, điều ngự

Nơi ấy là tịnh cư

Chỗ vô cấu, vô uế

Nơi ấy bậc thánh sống.”

Đức Thế Tôn lại còn dùng thêm pháp thoại, dùng trí biện tài nói rõ con đường ấy, lối đi ấy là bố thí; thành trì để giữ gìn, phòng hộ ấy là trì giới; và chỗ ẩn cư chính là thiền lạc. Nhưng chính chỗ an cư đời đời bất hoại, thanh tịnh, vô cấu, vô nhiễm mới đáng cho ta xây một toàn bảo tháp tối thắng vượt ra ngoài sự chi phối của các định luật hữu vi: quả A-la-hán vô sanh bất diệt.

Như thế, Đức Thế Tôn đã an trú cho hai cha con người Bà-la-môn nơi toàn Dự Lưu bảo tháp, biến mất ở Linh Thứu rồi về Trúc Lâm tịnh xá.

 


Khổ hạnh lim dim mắt

Có một con Giả Can vì nạn lửa rừng nên đầu và thân thể bị cháy trụi, nó sống lang thang, vất vưởng, xanh xao vì đói rét.

Hôm kia, nó thấy một đàn chuột lớn, buổi sáng đi ra từ hang động, buổi chiều từ cánh rừng trở về. Giả Can nghĩ: “Những bậc ẩn sĩ ở Tuyết Sơn, họ cắt tóc hoặc bện tóc, mặc áo bằng vỏ cây hoặc da thú. Họ lim dim mắt, chống gậy tới lui với các căn thanh tịnh. Xung quanh đấy không bao xa, các loại thú hiền lành chạy nhảy, leo trèo, chơi các trò chơi với vợ và con của chúng mà không sợ hãi. Ta sẽ làm một bậc ẩn sĩ khổ hạnh sư, chống gậy, lim dim mắt để ăn cả đàn chuột này.”

Nghĩ thế xong, Giả Can kiếm vỏ cây làm y, bẻ trúc làm gậy. Nó đến không xa hang chuột bao nhiêu, leo lên tảng đá, đứng một chân, quay mặt về hướng đông, há miệng ra và lim dim mắt...

Chỉ một hôm thôi là đàn chuột đã biết đến sự có mặt của “bậc ẩn sĩ”. Chuột Chúa nghĩ đây là người tu hành có giới hạnh, bèn tìm đến và kính trọng hỏi:

- Thưa tôn giả, tôn giả tên là gì?

Giả Can lim dim mắt, mỉm cười hiền lành:

- Người ta thường gọi ta là “Ẩn sĩ khổ hạnh sư”, nhưng tên thật của ta là “Đại trí”!

Chuột Chúa thấy tâm mình mát mẻ vì gặp được vị chân tu, bèn hỏi tiếp:

- Sao tôn giả không đứng bốn chân mà lại đứng một chân, không mỏi sao?

Giả Can than dài:

- Ôi! Với giới đức và trí đức của ta mà đứng cả bốn chân thì quả địa cầu ác uế, bất tịnh này làm sao mà chở nổi? Vì thương xót quả đất, thương xót chúng sanh mà bần đạo phải hy sinh chịu mỏi một chút vậy.

Chuột Chúa khởi tâm tịnh tín, lại hỏi:

- Tại sao tôn giả lại đứng há miệng?

Giả Can mở giọng từ bị:

- Ôi, tội nghiệp thay chúng sanh! Chúng ở đầy trong hoa quả, chúng ở đầy trong nước suối, nước khe, chúng ở đầy trong và thịt sống của chín. Vì sanh mạng của các loài hữu tình nên bần đạo phải nuốt gió mà sống vậy, chẳng cần ăn uống cái gì khác.

Chuột Chúa quỳ xuống đảnh lễ Giả Can, thốt lên:

- Lành thay, bậc đại từ bi, lành thay!

Giả Can xua tay:

- Đừng, đừng nên gọi thế. Dẫu bần đạo xứng đáng được danh xưng là bậc đại từ bi, nhưng cũng đừng nên tán thán quá lắm! Sự tán thán dễ sanh kiêu mạn. Kiêu mạn làm ô uế tâm, là pháp chướng ngại cần phải xa lánh. Người không phải là bậc trí tuệ nên người không thấy, không biết, ta cũng hỷ xả cho.

Chuột Chúa hoan hỷ quá sức, lại hỏi:

- Tại sao tôn giả lại lim dim mắt?

Giả Can cất giọng não nuột:

- Than ôi! Thế giới ngũ trần đầy những tanh hôi hạ liệt. Thế nhưng, đống phân thối kia vẫn là vật thực ngon lành cho lũ dòi bọ. Ta hổ thẹn với chính mình, hổ thẹn với hạnh khước từ; há nào lại dám giải đãi không lim dim mắt để thu thúc lục căn cho thanh tịnh? Người cũng nên biết như vậy để được hạnh phúc lâu dài cho ngươi về sau!

Chuột Chúa lại quỳ xuống đảnh lễ, năm vóc sát đất, thành kính ngước lên, hỏi tiếp:

- Còn tại sao tôn giả lại quay mặt về hướng đông?

- Hướng đông là hướng của mặt trời, của ánh sáng. Thế giới vô minh, tối tăm, mù lòa phải cần có ánh sáng trí tuệ, ánh sáng chân lý, ánh sáng từ bi và tình thương soi đường, chỉ nẻo. Bởi vậy, bần đạo đảnh lễ ánh sáng, đảnh lễ mặt trời. Ngươi tới đây hỏi đạo nơi bần đạo, cũng đã không đảnh lễ ánh sáng, đảnh lễ mặt trời rồi đó sao?

Với cách trả lời như thế, Giả Can làm cho Chuột Chúa thỏa lòng, vừa dạ.

Từ đấy về sau, buổi sáng và buổi chiều, Chuột Chúa đều dẫn đàn chuột đến hầu “vị ẩn sĩ Giả Can”, nghe pháp, đảnh lễ dưới chân rồi ra đi.

Giả Can, trong khi ấy, nhanh như cắt, chụp con chuột đi sau cùng, không có một tiếng kêu nào được thoát ra, xé từng tấm thịt rồi nhai nuốt ngon lành. Sau đó, nó chùi máu và lông đầy miệng, nằm ngủ một giấc no nê, tính toán đúng giờ, bật dậy, đứng lại một chân, há miệng ra, lim dim mắt, quay mặt về hướng đông...

Thời gian trôi qua, đàn chuột ít dần, chúng bàn tán với nhau:

- Lúc trước, cái hang như động trời này không đủ chứa chúng ta. Chúng ta đứng không có kẽ hở. Nay nó lỏng lẻo. Như vậy, cái hang không đầy. Tại sao lại thế?

Đàn chuột cử một con lên cái hang phía trên cao, trình bày lại sự việc với Chúa của chúng.

Chuột Chúa xuống tận nơi nhìn ngắm, quan sát, suy nghĩ: “Rõ ràng là đàn chuột bị kẻ thù nào đó âm thầm sát hại. Ta sẽ tìm ra lý do này vì sanh mạng của phần đông, vì sự an toàn của đồng loại. Nhưng buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều, trên đường đi, tại chỗ ăn và uống không gặp bất cứ một kẻ thù nào. Ta chỉ gặp một kẻ, nói chuyện lâu với kẻ ấy, đó là tôn giả Giả Can. Vậy có lẽ nào thủ phạm lại chính là bậc ẩn sĩ khổ hạnh đó?”

Khi nghi ngờ khởi lên, Chuột Chúa hồi tưởng lại: “Tôn giả Giả Can thường ví mình là bậc đại trí, nhưng ngày này qua ngày khác, tôn giả ấy chỉ lim dim mắt, nói về hạnh tu một chân, quả địa cầu không chở nổi, đảnh lễ mặt trời và nuốt gió! Tôn giả ấy không có pháp nào khác. Lại nữa, thuở tôn giả ấy mới tới đây, thân thể cháy nám, lở loét, ốm yếu, xanh xao. Có lý nào nhờ nuốt gió, không ăn uống gì mà bấy giờ thân thể mập mạp, nung núc những thịt và mỡ? Như vậy, đích thị là do lợi dưỡng tối thượng, do máu thịt của đồng loại ta rồi! Dẫu thế, hãy khoan quyết đoán vội, vì nghi oan cho bậc tu hành chân chánh, lửa ở địa ngục sẽ thiêu đốt ta. Vậy ta hãy thử xem.”

Hôm sau, khi hầu Giả Can về, Chuột Chúa để cả đàn đi trước, mình đi sau cùng.

Quả nhiên, khi vừa quay lưng, Chuột Chúa thoáng thấy Giả Can đôi mắt lim dim chợt mở ra sáng rực. Và khi ấy Chuột Chúa dễ dàng lạng mình tránh khỏi cái chộp của Giả Can.

Chuột Chúa bình tĩnh dùng định lực, kiên trú vững vàng rồi điểm mặt Giả Can:

- Người đã lộ mặt rồi, kẻ tu hành đạo đức giả kia? Đấy có phải là sở hành của kẻ lim dim mắt, tu hạnh một chân, quay mặt về hướng đông và nuốt gió?

Chuột Chúa nói lên bài kệ:

“- Ai nêu cờ chánh pháp

Khổ hạnh mắt lim dim

Bí mật làm điều ác

Dụng ý để lừa gạt

Sát hại loài hữu tình

Nhân sao thì quả vậy

Thiện, ác vốn phân minh.”

Nói thế xong, với hùng dũng và uy lực của một loài Chúa, Chuột nhảy tới cắn đứt ba chân, móc cặp mắt, khoét miệng Giả Can ra như một lỗ hổng, rồi khinh bỉ nói:

“- Để ngươi tu một chân

Trọn đời lim dim mắt

Miệng nuốt gió hư không

Là sở hành chuyên nghiệp”.

Đàn chuột kêu “mum mum” ra vẻ giận dữ muốn xé xác Giả Can ra làm trăm mảnh. Chuột Chúa ngăn lại rồi cùng nhau đi về trú xứ của mình.

Giả Can quằn quại trên đống máu để trả quả thịt xương và giả dối.

 


Có khi gương vỡ
Lại lành hơn xưa

Upaka là một nhà tu khổ hạnh trẻ tuổi, đẹp trai; vì ở lâu trong rừng núi nên người ta gọi chàng là “Ẩn-sĩ-thanh-tịnh”. Lại nữa, chàng có đôi mắt đen rất đẹp nên người ta cũng gọi chàng là “Đạo-sĩ-mắt-đen.”

Thuở nhỏ, chàng tự ý lìa bỏ gia đình, xin xuất gia trong giáo phái Ni Kiền Tử. Chàng ở lâu trong sơn lâm, luyến ái sơn lâm nên đạo hạnh của chàng cũng được nhiều người nghe tiếng. Nhưng thực chất, chàng không biết gì, chưa có con đường chân chánh để đi, chưa có ánh sáng để tới. Chàng đi khất thực, trở lại ngôi rừng thân yêu của mình để thiền định; nhưng tâm cứ như vượn hoang, như khỉ núi, nay rong chơi chỗ này, mai leo chuyền chỗ khác. Thỉnh thoảng muốn thay đổi không khí, chàng tạm biệt chỗ ngụ cư, vân du lang thang đây đó vài ba ngày, rồi lại trở về để “thanh tịnh khất thực, thanh tịnh thiền định.” Dung mạo, cử chỉ, thái độ, hình dáng bên ngoài rõ là bậc đại ẩn sĩ nên người ta đồn đại với nhau rằng, đấy là một vị A-la-hán!

Ven khu rừng có một xóm làng bé nhỏ, sung túc, giàu có, mọi người tín mộ chàng. Và đặc biệt, có gia đình trùm thợ săn kia thường trực để bát cho chàng, bất cứ khi nào “Đạo - sĩ - mắt - đen” ấy đi qua.

Hôm nọ, sau cuộc vân du trở về, trên đường ngược chiều, Upaka thấy một Sa-môn trẻ tuổi. Chàng đứng sững lại. Sa-môn kia không to lớn lắm, chẳng phải gầy, chẳng phải mập, mà đầy đặn. Y áo chẳng phải cũ, chằng phải mới nhưng thanh sáng và hài hòa. Tất cả nơi ông Sa-môn đều toát ra cái vừa phải, chừng mực, nhưng đẹp, uy nghi và gợi cảm một cách lạ lùng!

Upaka bước tới rồi bước lui, nhìn ngắm ngạc nhiên, mê mải. Có một thứ ánh sáng sáu màu, khi đậm khi nhạt, khi loang rộng như hòa lẫn giữa hư không, lúc thì thu nhỏ lại, rực rỡ, tỏa hắt ra, lung linh, chập chờn rồi yên lặng, phẳng lặng như mặt nước hồ thu không gợn sóng. Đến gần hơn tí nữa thì Upaka hoàn toàn bị nhiếp phục bởi sự trầm tĩnh, ổn định, an lạc toát ra từ đôi mắt, từ bước đi. Có một sự khôn ngoan vượt ngoài thế giới, sự minh triết sáng ngời, một trí tuệ siêu đẳng ở ẩn đâu đó, không chỉ nơi vừng trán bát ngát thông minh, mà còn có thể ở cả nơi từng sợi tóc, lông mi, từng ngón tay, lóng tay và cả ngón chân nữa... “Người này, vị Sa-môn trẻ tuổi đẹp trai này chắc chắn không phải là người, là ... Phạm Thiên chăng?”

Nghĩ vậy nên Upaka cất tiếng chào:

- Chào bạn thân ái! Bạn đẹp quá, đẹp lạ lùng! Chàng mỉm cười sung sướng tán thưởng rồi nói tiếp - Lục căn của bạn an ổn và thanh tịnh làm sao? Ồ, không phải! Nói vậy cũng chưa đúng! Nó làm cho sự an ổn và thanh tịnh cũng bị nhiếp phục! Hào quang sáu màu từ nơi bạn làm cho một vị Đại Phạm Thiên cũng phải ganh tỵ. Nước da của bạn chói ngời như mẹ vàng ròng. Chắc sức khỏe của bạn dồi dào lắm? Chẳng hay bạn tên chi? Bạn ở đâu? Xuất gia với ai? Đấng Đạo Sư của bạn là vị nào? Bạn tin tưởng vào giáo pháp nào?

Upaka hỏi huyên thuyên, không kịp thở.

Vị Sa-môn trẻ tuổi ấy chính là Đức Phật, sau khi thành đạo dưới cội Bồ-đề, đang trên đường về Vườn Nai để chuyển Pháp Luân. Gặp Upaka, một tu sĩ ngoại đạo, ngài biết là có duyên sau này, nên đợi cho y nói xong, Đức Đạo Sư mới bảo:

- Này Upaka! Đức Phật gọi đích danh chàng- Như Lai là kẻ đã vô nhiễm giữa trần cảnh, đã đoạn tận ác pháp, đã tịch tịnh, vô dục, đã bước ra khỏi mọi chấp trước ở bản thân và thế gian điên đảo kiến. Như Lai đã chiến thắng Tam giới, chứng đạo quả Vô Thượng Bồ-đề thì còn ai là Thầy của Như Lai? Giữa chúng Chư thiên, Phạm thiên, Như Lai đứng một mình, là Thầy của họ. Nay Như Lai về vườn Lộc Giả ở Ba-la-nại để quay bánh xe Pháp, gióng tiếng trống Bất Tử cho chúng sanh tỉnh giấc mộng trường.

Upaka nghĩ rằng: “Vị đạo sĩ này ăn nói dễ nghe, dễ thương đến vậy? Chà, cái óc và cái lỗ tai của ta nó được hỷ lạc làm sao!”

Bèn nói:

- Mong rằng sự việc sẽ như bạn nói. Bạn thật xứng đáng được gọi là bậc Chiến Thắng Bất Diệt!

- Này Upaka! Kẻ giải thoát ra khỏi mọi trói buộc trần gian xứng đáng được gọi như vậy. Kẻ mà ma quân, phiền não không còn tìm thấy dấu vết, xứng đáng được gọi như vậy. Các Đấng Như Lai thường được danh xưng là Tối Thượng Tôn, Vô Năng Thắng, là Bậc Chiến Thắng Bất Tử, Chiến Thắng Vô Tận, Vô Hạn Định!

Upaka gật đầu lia lịa:

- Thật đúng như vậy! Thật đúng như vậy! Thôi, này bạn của ta, chào bạn sức khỏe!

Sau khi đối thoại với Đức Đạo Sư, gật đầu lia lịa, tán thán Đức Đạo Sư, rồi: “Thôi này bạn của ta, chào bạn sức khỏe”, Upaka không dừng lại nơi giáo pháp này, chàng bỏ đi. Bằng đường tắt, chàng trở lại lều cỏ, nơi khu rừng Vakahara thân yêu của mình. Lại khất thực, lại thiền định, lại như tâm viên ý mãn, lại đi về thanh tịnh, trang nghiêm, lại được người ta kính mộ, coi như là một bậc A-la-hán.

Gia đình người trùm thợ săn có cô gái đào tơ, sen ngó. Nàng là pho tượng, là tác phẩm tuyệt mỹ của thợ trời, thợ nghiệp. Nàng có đôi mắt đen ướt và trong xanh lóng lánh. Nàng là sự đa tình của chúa uyên ương, của chúa bồ câu. Nàng có dáng đi đài các và uyển chuyển của chúa thiên nga. Cái chân, cái tay, cái cổ, đôi má như trứng gà nõn và mũm mĩm như cây lựu nẩy mầm. Có nụ cười ướt sương và trinh bạch như nụ hoa hàm tiếu trên đầu núi. Nàng đẹp cho đến nỗi ông trùm thợ săn ít dám cho nàng đi đâu, sợ thanh niên trai tráng rớt tròng mắt ra ngoài hoặc mọc đứng, mọc ngồi thành “cây si, bụi si” hết thì cũng tội. Nàng tên là Cāpā.

Hôm kia, vì cả gia đình đi vắng nên Cāpā phải ra để bát cho ông “Đạo-sĩ-mắt-đen”, chàng A-la-hán trẻ tuổi, đẹp trai. Điều linh nghiệm, chân lý của ông thợ săn đã xảy ra. “Đạo-sĩ-mắt-đen” sững sờ, chết lặng, trái tim tự động bước ra ngoài lồng ngực mà không thèm hỏi chàng một tiếng. Đôi mắt đen của chàng đạo sĩ thu bắt tức khắc, chuyên chú tinh cần vào “đề mục thiền định hấp dẫn” này! Ôi! Cái đề mục sao mà dễ gom tâm đến thế! Mỗi khi chàng niệm hơi thở, nhìn chót mũi, quán bộ xương khô, bát đất hay khoảng chân không thì nó như con cá quăng trên cạn, như con khỉ bị trói hai tay, sao mà kỳ!

Căn nhà khép cửa đã lâu mà chàng còn “nhập đại định” ở đấy. Nhưng rốt lại cũng phải “xả thiền” chứ! Thế là chàng như người mất hồn, lững thững lê bước nặng nề về chốn “cô đơn thầm lặng” của mình. Ôm bình bát vật thực trên tay - bao giờ cũng nhiều món ăn thượng vị - chàng ngồi xuống trên nệm cỏ; tâm thần còn choáng váng như uống tách rượu say, cái thần hồn như còn gởi ở cõi “mỹ sắc đại thiền tưởng”!

Upaka không ăn uống gì. Chàng ngồi trọn bảy ngày như thế, bình bát chưa hề mở ra, kiên quyết khởi tâm nhất hướng, tối thượng tinh tấn vào đề mục “một là lấy cô con gái người thợ săn làm vợ, hai là chết khô!”

Sau bảy ngày công việc trở về, người thự săn hỏi cô con gái rượu:

- Này con thân! Bậc A-la-hán của chúng ta vẫn đều đặn đến khất thực đấy chứ?

- Thưa cha, một lần thôi.

- Sao kỳ vậy hả? Ngài có đi hóa độ phương nào?

- Các bậc A-la-hán thường nhập đại định bảy ngày, chắc “Đạo-sĩ-mắt-đen” của chúng ta cũng vậy.

Người thợ săn đi nhanh vào rừng, đến cửa lều của Upaka, nhìn qua nệm cỏ, thấy một cái xác vô hồn đang ôm bình bát trong lòng, đôi mắt lờ đờ, mê dại.

- Ôi! Người thợ săn hớt hải la to - Ngài bị bệnh gì? Hay là ma nhập? Ối! ma nhập rồi làng xóm ơi!

Upaka tỉnh lại, nhận ra người thợ săn, mệt mỏi xiêu ngã đứng dậy, bình bát rơi đổ tung tóe những món ăn thượng vị mốc meo. Rồi bất ngờ nhất, chàng ôm chầm người thợ săn khóc nức nở. Người thợ săn hoảng vía, gỡ ra không được, hỏi dồn dập:

- Sao vậy? Sao lạ vậy ngài? Bệnh gì đấy? Ma quỷ gì đây?

- Ông ơi! Tôi chết mất thôi! Upaka mở tiếng được tiếng mất rồi gắng gượng nói một hơi - Con gái ông đã lấy hồn tôi, đã làm cho tôi bị bệnh. Cái bệnh này còn vạn lần đau khổ hơn cái bệnh thân xác. Ông hãy cứu tôi! Tôi không phải là bậc A-la-hán đâu. Tôi chỉ là kẻ tầm thường. Tôi đi tu là vì thấy yêu thích hình bóng của các ông đạo sĩ. Nay thì tôi yêu thương con gái ông hơn. Con gái ông đã chiến thắng tôi, là “bậc chiến thắng bất diệt”! Ông ơi! Ông hãy giải thoát cho tôi khỏi mối tương tư. Một là tôi chết khô, hai là ông cho tôi người con gái. Nàng là một thiên thần, là nữ đại phạm thiên! Nàng là người trên đầu trên cổ tôi, là thượng đế của tôi, là “đề mục thiền định” cho tôi gom tâm tu hành. Ông ơi! Ông hãy cứu tôi!

Nói như vậy thiệt là hết kinh, hết sách, hết chữ nghĩa, hết tín ngưỡng, hết thiêng liêng, thần thánh!

Người thợ săn bối rối, ngỡ ngàng trước sự việc như thế. Hồi lâu, nghĩ cũng cám cảnh thương tình, ông ân cần, dịu dàng nói:

- Thôi được rồi, để tôi giải thoát mối đau khổ cho ngài. Thời tuổi trẻ tôi cũng đã từng biết thương yêu, nên tôi hiểu.

Nhìn bậc tu hành từ dung sắc chói sáng, thù thắng, tuyệt mỹ như phạm thiên mà phút chốc trở nên tiều tụy, đôi mắt xanh đen biêng biếc biến thành đôi mắt xám bạc thẩn thờ. Người thợ săn thông cảm xiết bảo. Nhưng nghĩ cũng có điều thực tế nan giải, ông bèn hỏi:

- Mà này ngài ạ! Khi cưới nhau rồi chẳng thể “một mái nhà tranh hai quả tim vàng” mà được đâu. Xưa nói khác mà người ngày nay nói khác. Bây giờ, người ta bảo rằng “hạnh phúc thường ăn cơm với thịt với cá, bạn mà cho nó ăn rau, uống nước lã, thì nó sẽ mang guốc, đội nón ra đi thôi”!

Ngài xuất gia từ nhỏ, ít quen được nắng mưa lam lũ, nghề chân, nghề tay trệ vai, đổ mồ hôi, sôi nước mắt. Con gái tôi vì là con một nên tôi “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”. Nó quen mặc áo lụa Kāsi, quen đeo vòng hoa Pātalim; tóc mây, thân thể mượt mà quen ướp hương Haricandana tối thượng; da thịt tay chân óng ánh ngọc ngà như nụ Paduma mới nở. Vậy ngài định làm gì mà nuôi nó?

Upaka vừa thòng hai chân xuống cuộc đời, chưa đi được bước nào đã vấp phải cục đá, ruột đau, im sững

Người thợ săn gục gặc đầu rồi cất giọng ồ ồ:

- Làng trên xóm dưới, hay ở đâu đó, có hát phỏng ví von rằng:

“Thấy đóa hoa nở thì thương

Mang vô bình cắm sợ hương nhụy tàn

Áo cơm không đủ cho nàng

Muối dưa đĩa ngọc, bẽ bàng lòng nhau!”

Đấy, đấy, ngài tính đi! Bụng làm dạ chịu. Tôi cũng thương ngài lắm mà, nhưng thực tế nó vậy, biết làm sao?

Sau một hồi suy nghĩ, Upaka nói:

- Ông đã thương thì thương cho trót. Tôi xin thú thiệt, tôi chẳng biết một nghề gì. Nhưng những khi ông bắn rơi một con chim, bẫy được một con thú... tôi có thể “làm nghề” lượm chúng, mang xuống chợ bán để đổi gạo, đổi thức ăn cho cả... gia đình ta?

Cầm lòng không đậu, người thợ săn tốt bụng và hay nói chữ, gật đầu, dẫn về nhà, cho y phục rồi đem đến trình diện cô con gái rượu:

- Này con gái thân! Bắt đầu từ nay, cha nuôi bậc ẩn sĩ trong nhà, con chịu chứ?

Nàng Cāpā đã đoán ra mọi sự, nhưng giả vờ ngớ ngẩn hỏi:

- Bậc ẩn sĩ sao lại “ẩn” trong nhà có con gái?

- Không! Đây là bậc ẩn sĩ đã hết “ẩn sĩ” rồi!

- Sao kỳ vậy?

Người thợ săn cười ha hả:

- Nghĩa là bậc ẩn sĩ bây giờ gọi là “ẩn tại gia”, và ẩn tại gia có nghĩa là muốn nhận cha làm “nhạc gia”!

Nàng Cāpā kêu ré lên, bỏ chạy. Người thợ săn vui vẻ cất tiếng cười hào sảng. Chàng Upaka đỏ bừng mặt, cúi gằm xuống mà lòng thấy hạnh phúc vô cùng...

Cũng là duyên, cũng là nợ. Cũng là nợ, cùng là duyên. Cái quả của sự gặp gỡ thương yêu nhau cho họ một đứa con xinh xắn, bụ bẫm. Khi có một đứa con thì sắc đẹp, tính nết nàng không còn như xưa nữa. Không lâu lắm, Upaka đã sớm nhận chân rằng, hóa ra cái hạnh phúc vợ chồng mà chàng ước ao, bên người con gái đẹp như tiên nga ấy, cũng tầm thường thôi. Nó khác với trí tưởng tượng của chàng. Hơn thế nữa, thực tế áo cơm nó nghiệt ngã quá, chàng đã phải nay thì núi này, mai thì núi khác; mặt thì đã cứng queo, khô quắp; da thì đã chai sạm màu đồng hun. Làm nghề “lượm thịt săn” không đủ sống, chàng phải phụ thêm nghề đốn củi, đốt than cũng như những nghề chân tay khác đến đổ mồ hôi, sôi nước mắt!

Vất vả và gian lao quá, đôi khi chàng mơ màng nghĩ đến đời sống nhàn cư, thanh tịnh cũ. Thỉnh thoảng, chàng nhớ tưởng đến hình bóng của “người bạn gặp trên đường, bậc chiến thắng bất diệt!”

Nàng Cāpā rất thương chồng, thấy vì mình mà chàng cơ khổ, lam lũ cũng cám cảnh than dài. Nhưng, như chim đã liền cánh, bóng đã dính hình, âu nhân duyên phải đành thế!

Một hôm con khóc, nàng vô tình hát rằng:

“Ầu ơ ... ru con, con ngủ cho ngoan

Cha con ẩn sĩ ... lượm thịt săn giữa rừng

Ầu ơ ... ẩn sĩ rớt bát nửa chừng

Vì con, vì vợ còng lưng tháng ngày.”

Nghe được, Upaka tức giận nói:

- Này nàng Cāpā! Nàng nói ta là “ẩn sĩ lượm thịt săn”, “ẩn sĩ rớt bát”! Nàng chế nhạo ta vừa vừa thôi chứ! Cục đá mà có tai, nó cũng chảy mước mắt vì câu nói của nàng đấy! Ta không có còng lưng, cúi đầu mãi ở trong cái nhà này đâu! Ta biết ta là kẻ ăn đậu, ở nhờ, vô gia cư, vô nghề nghiệp. Ta biết thân phận của ta lắm. Nói cho nàng biết, chẳng phải ta là kẻ tứ cố vô thân, không nơi nương tựa đâu! Ta có một người bạn. Bạn ta là bậc chiến thắng bất diệt. Ta sẽ đến ở với bạn của ta!

Thấy Upaka vì tự ái mà nổi giận, nàng Cāpā đấu dịu, phân trần:

- Em không có ý nghĩ vậy đâu, Chàng Mắt Đen của em! Sự thực, em thấy chàng suốt ngày cúi đầu và còng lưng lượm thịt săn một cách vất vả, một cách khốn khổ. Vì yêu chàng mà em nói thế thôi.

Upaka gằn giọng:

- Nàng có cách nói hai nghĩa, nghĩa đằng đầu và nghĩa đằng đuôi. “Cúi đầu và còng lưng”! Chà, ta biết quá mà! “Ẩn sĩ lượm thịt săn”! Chà, lời mỉa mai hay nhỉ! Ta nói cho nàng biết, ta đã sa xuống đầm lầy khốn cùng và tủi nhục. Ta thức ngộ rồi. Ta sẽ xuất gia trở lại. Ta sẽ đi theo bạn của ta, nương tựa nơi bạn của ta, bậc chiến thắng bất diệt.

- Chớ có tức giận em, Chàng Mắt Đen của em! Có thể em đã dại dột, lỡ lời, xin chàng tha tội!

Upaka lồng lên:

- Ta không có tha tội, chí ta đã quyết. Ta sẽ rời khỏi Vankahara và ngôi làng này, nơi ta đã bị trói buộc và bị quyến rũ bởi sắc đẹp ma quái của nàng. Ích gì cái kỹ niệm đau xót này!

Nàng Cāpā năn nỉ:

- Ôi, Chàng Mắt Đen của em! Hãy ở lại, chớ có đi! Em không dại dột thế nữa đâu. Em sẽ hầu hạ chàng, phục tùng chàng, là nô lệ của chàng!

Upaka cười lạt:

- Không thể nữa đâu, nàng Cāpā! Một phần mười sáu lời nói của nàng có thể làm cho trăm vạn nam nhân phải bủn rủn, mê mệt. Nhưng ta thì không thế nữa đâu.

Nàng Cāpā xuống nước, mềm mỏng, gợi tình:

- Chàng Mắt Đen của em! Em đã đến nỗi nào! Em vẫn còn như cây Takkàrim nở hoa trên đầu núi. Những vòng hoa Patilim vẫn rực rỡ hương sắc hiến tặng chàng. Những chiếc áo lụa Kāsi tối thượng vẫn làm dịu mắt chàng. Tóc em, da thịt em vẫn ướp hương chiên đàn thơm lừng lựng!

Upaka chợt cất giọng ráo hoảnh, chậm rãi:

- Này nàng Cāpā! Bây giờ nàng lại định dùng mồi sắc đẹp để bủa giăng cánh chim trời đấy phỏng? Dẫu nàng là dòng dõi thợ săn thiện xảo đến bảy đời, cánh chim kia chỉ một lần sa lưới mà thôi!

Nàng Cāpā tức giận:

- Chàng nói thế mà nghe được sao? Em bủa giăng hay tự chàng bước vào lưới?

Upaka nín lặng. Nàng Cāpā hỏi ướm:

- Này, còn đứa con thì tính sao đây?

Upaka thản nhiên nói:

- Bậc trí bỏ vợ con, tài sản và quyến thuộc ra đi không ngoảnh lại.

- Thế thì giả dụ tôi đánh nó, tôi giết nó, ông cũng không thèm cứu ư?

- Nó là con của nàng, từ núm ruột của nàng mà rứt ra. Vậy nàng có giết nó hoặc quẳng cho chó sói ăn, ấy là quyền của nàng.

Nàng Cāpā thở dài. Thế là hết rồi. Con hổ đã muốn trở lại rừng xưa. Chàng đã trở lại tâm đích thực của một ẩn sĩ. Sắc đẹp ta, nụ cười ta, vòng tay ta và cả con cái nữa, đã bất lực trước chàng.

Nàng Cāpā buồn bã cất giọng dịu dàng:

- Chàng Mắt Đen của em! Chàng bỏ đi đành đoạn như vậy ư? Chàng không thương xót em và con sao?

Con tim của Upaka thoáng lay động, dầu cố gắng trấn tĩnh nhưng giọng đã mềm đi:

- Ta cũng biết thế. Nhưng nàng hãy thông cảm cho ta, ta phải tự cứu mình!

Nghe giọng nói kia, Cāpā đã hiểu. Chẳng phải Upaka đã hóa thành gỗ đá. Chàng cũng còn thương vợ, xót con; nhưng chàng đã quá đau khổ vì không còn chịu nổi hoàn cảnh ràng buộc với những tế toái của đời sống. Vậy nếu thương chàng, yêu chàng thật sự thì hãy để chàng ra đi cho tròn với ước nguyện. Nghĩ vậy, nàng Cāpā gạt nước mắt, nói:

- Thôi, vì thương chàng nên em để cho chàng ra đi. Ở nhà, mọi việc em lo liệu được. Nhưng chàng đi đâu?

Upaka nắm tay nàng Cāpā:

- Cảm ơn em. Cảm ơn em đã hiểu ta. Việc ta đi đâu thì em không phải lo lắng. Ta sẽ đến với bạn của ta, bậc chiến thắng bất diệt.

- Vị ấy ở đâu?

- Bạn của ta đang đi gióng tiếng trống bất tử ở Vườn Nai, và cũng từ đó bạn ta chuyển Bánh Xe Pháp.

Im lặng khá lâu giữa hai người.

Nàng Cāpā chợt nói:

- Vậy khi chàng đến gặp vị ấy, hãy thay mặt em, nhiễu quanh ba vòng về phía hữu, chàng đảnh lễ vị ấy dùm em. Em tỏ lòng cung kính đối với vị ấy, bậc chiến thắng bất tử, đã quyến dụ được chồng em, hơn em!

Upaka mỉm cười sung sướng:

- Phải thế. Nói vậy là đúng đắn. Vì lợi ích cho cả hai ta, ta sẽ tỏ lòng cung kính và tri ân bậc vô thượng ấy.

Đức Đạo Sư, hôm ấy, ở Xá Vệ, Kỳ Viên tịnh xá, trước khi vào hương phòng, nói với người thị giả:

- Này, tỷ-kheo! Khi nào có ai đến nói ta câu này: “Bậc chiến thắng bất diệt, bạn của ta, giờ ở đâu”, thì hãy đưa người ấy vào gặp Như Lai.

Vẫn còn trong y phục của người thợ săn, Upaka sau rất nhiều do tuần đường đất theo dấu chân Đức Đạo Sư từ phương này sang phương khác, hôm kia lần đến Xá Vệ, tìm ra cửa tịnh xá, cất giọng oang oang:

- Này, các ông Sa-môn! Bậc chiến thắng bất diệt, bạn của ta, giờ ở đâu?

Đức Đạo Sư chờ đợi người ấy, chờ đợi đã lâu, không phải chỉ sáng nay, nhờ thiên nhãn, mà chờ đợi từ ngày giác ngộ dưới cội Bồ-đề. Đức Đạo Sư khi quán nhân duyên, biết rằng trên đường về Vườn Nai sẽ gặp người ấy, một đạo sĩ ngoại đạo. Gặp rồi, ngài không nói gì nhiều, chỉ gieo một hạt giống. Hạt giống ấy hôm nay đã nẩy mầm, lớn rất nhanh và chờ lúc trổ quả.

Gặp Đức Thế Tôn, sau vài lời giáo giới, Upaka được Ngài cho xuất gia. Sau đó, Upaka dễ dàng chứng đạo quả Bất Lai, không một gắng sức nào. Cuối đời, mệnh chung, sinh vào cõi Aviha thanh tịnh rồi đắc quả A-la-hán luôn tại đấy.

Còn nàng Cāpā, không bao lâu sau, gởi con trai cho ông ngoại, theo chân Upaka, xuất gia với trưởng lão ni Gotamì, đắc quả A-la-hán.

Thật là lạ lùng! Chàng và nàng gặp gỡ nhau, yêu nhau, sinh con, giận nhau, cãi nhau, chia tay nhau... rồi gặp lại nhau nơi cõi A-la-hán vô sanh bất diệt! Hy hữu thay!

Cho nên có thơ rằng:

“Tích xưa chuyện cũ rành rành

Có khi gương vỡ lại lành hơn xưa”!

 


Vòng luân hồi
của người ngu si


Vào thời kỳ mà Tăng Chúng quá đông, thiện nam tín nữ dâng cúng quá nhiều thực phẩm, trưởng giả Cấp-cô-độc phải cho xây dựng thêm nhiều kho lẫm ở Tịnh xá Kỳ Viên để chứa đựng và phân phối.

Tỷ-kheo Dabhamalla được Tăng Chúng chỉ định công việc này. Ngài cầm cán cân phân phối thực phẩm rất phân minh và chu đáo. Với số hạ lạp như vậy được gạo hoặc thực phẩm tương đương. Và thường thường số gạo xấu, phẩm chất thô là phần cho các vị còn trẻ hoặc sơ tu. Đấy là thứ tự hình thức, là lễ giới cần thiết trong giáo pháp của Đức Tôn Sư.

Hôm kia, tỷ-kheo Udāyi mặc dầu hạ lạp khá cao nhưng nhận được gạo xấu liền làm rộn lên trong phòng phát thẻ. Người ta biết vị đó còn nhiều phàm phu tính nên ai nấy đều giữ im lặng.

Ngày hôm sau, ngày hôm sau nữa, tỷ-kheo Udāyi vẫn nhận được gạo xấu, vì thật ra gạo tốt không còn bao nhiêu, phải để dành cho các vị Đại trưởng lão niên cao, lạp lớn. Tỷ-kheo Udāyi mặc dầu biết vậy, vẫn nói nặng lời với tỷ-kheo Dabhamalla, chỉ trích và phỉ báng vị ấy.

Tỷ-kheo Dabhamalla im lặng như cái mõ bể, chỉ lo tròn bổn phận mình, không hề cãi lại. Nhưng có một số tỷ-kheo sơ tu, tập khí còn nhiều, nội tâm chưa ổn định, tham sân và uế trược chưa lắng dịu... cũng nhân cơ hội ấy mà la ó lên, làm cho căn phòng phát thẻ ồn ào như vỡ chợ.

- Ngài Dabha không công bằng, nghỉ việc đi!

- Đề nghị ngài Udāyi làm thay!

Giáo hội của Đức Tôn Sư là tập thể dân chủ; lại biết phân công các vai trò quản lý hay các chức vụ điều hành sinh hoạt, nên cũng dễ hiểu thôi, sự đề nghị tỷ-kheo Udāyi thay thế chức vụ ấy được Tăng Chúng chấp nhận ngay.

Cuộc phát gạo đã xong, tỷ-kheo Dabhamalla mang thẻ đến, trao vào tay tỷ-kheo Udāyi:

- Bây giờ đến phiên hiền giả gánh vác tránh nhiệm này. Tôi có một lời khuyên đến hiền giả. Hiền giả phải biết tôn kính bậc nên tôn kính. Hiền giả phải biết vị nào nhiều công đức và vị nào ít công đức. Đây là việc làm không thể chiếu lệ, đại khái, mà cần sự sáng suốt, định tĩnh và nghiêm túc. Nó cần sự tinh tấn, cần mẫn, chăm chuyên và chịu khó. Không thể cẩu thả, làm biếng, thiểu trí và vô trách nhiệm được đâu. Hiền giả Udāyi thân mến! Hiền giả phải biết như vậy.

Udāyi bực mình hét toáng lên:

- Sao tôn giả lại quá nhiều lời? Tôn giả có phải là Đạo Sư của tôi đâu. Tôi biết việc mình phải làm, đâu cần phải quá nhiều giáo giới của tôn giả!

Biết cái cứng đầu và ngu si của vị ấy, tỷ-kheo Dabhamalla bỏ đi với ý nghĩ: “Hy vọng ông ta học được bài học và giác ngộ được vài điều trong khi làm công việc này! Chắc chắn Đức Đạo Sư biết rõ là lúc nào đúng thời để thuyết giáo đến ông ta”.

Thế rồi đến phiên tỷ-kheo Udāyi phát thẻ phân phối gạo. Ông ta không cần biết đến số hạ lạp và tuổi tác của một ai; không cần biết vị nào nhiều công đức, vị nào ít công đức. Ông ta ghi những cái dấu trên sàn hoặc trên tường để chỉ rõ hàng này bao nhiêu người, hàng kia bao nhiêu người. Và ông ta cứ y vào đấy, y cứ vào những cái dấu của mình mà phân phối gạo.

Đến ngày sau, dĩ nhiên là thường có một số tỷ-kheo ra đi và có một số tỷ-kheo khác mới đến. Do vậy, số người nhận gạo thường phải thay đổi luôn, cả số thẻ và hàng. Tỷ-kheo Udāyi lại không để ý đến điều đó, cứ theo cái dấu của mình mà phát. Bởi thế, có những người không nhận được gạo, và gạo tốt không vào tay các vị Đại trưởng lão. Người ta phản ánh với Udāyi điều đó. Tỷ-kheo Udāyi nói:

- Sao các tôn giả không tự động đứng theo những cái dấu của tôi? Tại sao tôi lại tin lời các tôn giả? Tôi tin vào cái dấu của tôi hơn.

Thế rồi Udāyi gạt phăng chư vị ra một bên bằng cánh tay lực lưỡng thô bạo của mình.

Có vị tỷ-kheo có ý thức, nắm tay Udāyi lại, rồi kéo qua một bên:

- Này bạn, liệu hồn đấy! Có rất nhiều vị trưởng lão không có phần, và các ngài đã không nói gì, lặng lẽ ra đi như chiếc bóng.

Udāyi sừng sộ nói:

- Tôi không cần biết là ai. Tôi đã có những cái dấu của tôi!

- Bạn vừa nói gì? Một giọng quát lớn - Bạn xúc phạm đến chúng tôi thì được. Nhưng bạn vừa nói gì đó? Bạn dám đụng đến các bậc trưởng lão đáng kính trong giáo pháp này? Tôi với cái nắm tay, cái mũi của bạn sẽ như trái cà chua đỏ, và cái miệng của bạn sẽ méo qua một bên như trái xoài dập!

Tỷ-kheo to lớn kia nói xong liền bước lại. Các vị khác can ra. Ồn áo, huyên náo thế là xảy ra trong phòng phát thẻ.

Bậc Đạo Sư lúc ấy đang đi kinh hành, quay lại hỏi ngài Ānanda:

- Như một cái chợ đang họp trong phòng phát thẻ. Chuyện gì vậy?

Một lát sau, Đại Đức Ānanda trình bày tự sự lại với Đức Thế Tôn. Bậc Đạo sư yên lặng giây lát rồi nói:

- Này Ānanda! Hãy lấy đó làm gương, lấy đó làm bài học, lấy đó làm điều để giác ngộ. Có người chỉ giết một sinh mạng mà phải lấy năm trăm mạng liên tiếp để trả quả. Có những chúng sanh bị những tật, những nghiệp, những kiết sử dầu lớn, dầu nhỏ mà trải qua vô lượng kiếp chúng vẫn không làm cho nó nguội tắt đi, tốt đẹp hơn, thanh lương hơn! Nó chỉ nguội lạnh đi, tốt đẹp hơn, thanh lương hơn khi chúng thấy rõ, giác ngộ được bài học ấy. Còn nếu không thì cứ mãi mãi, liên tục bị trả quả, mãi mãi liên tục bị khổ đau và phiền não.

Như kẻ Udāyi ngu si kia! Nó làm mất phần gạo của các vị trưởng lão, làm cho số đông tỷ-kheo bị thiệt thòi. Không phải chỉ ngày nay mới thế thôi đâu, mà một kiếp lâu xa kia, nó cũng làm cho nhiều người khác bị thiệt thòi rồi. Từ đấy biết bao nhiêu là quả đau khổ mà nó phải gánh chịu. Tuy nhiên, nó vẫn không giác ngộ được bài học.

Thế rồi Đức Đạo Sư kể chuyện về quá khứ đã bị che lấp như sau.

Thuở xưa, ở nước Kāsi, Bồ-tát là vị quan đại thần chuyên trách việc đánh giá của cải, tài sản, châu báu cho quốc độ. Bồ-tát biết đúng giá trị của từng hiện vật, từng loại hàng hóa nên sự định giá không bao giờ lầm lẫn, cố tránh sự thiệt thòi cho người này hay thiệt hại cho người kia.

Nhưng Đức Vua vốn là kẻ tham lam, bao giờ cũng muốn lợi về phần mình, nên tỏ vẻ không bằng lòng sự công bình đúng mức của vị quan đại thần nọ. Do vậy, Đức Vua luôn cố tìm một kẻ tín cẩn, kẻ tri kỷ, kẻ cùng một tâm địa, kẻ cầm cán cân nghiêng về một bên.

Hôm kia, giả dạng thường dân để cùng du hành với Bồ-tát, Đức Vua quan sát, theo dõi một người đang đánh giá một món hàng trước cửa hiệu của y. Hàng là một bao sắn to nặng của người nhà quê lam lũ, nghèo khổ.

Người chủ hiệu nói:

- Giá nó chỉ bằng bốn trái cam! Cam ăn mát mẻ, thanh nhiệt, bổ dưỡng, còn sắn của ngươi chỉ ăn nặng bụng, thường dành cho heo cho chó mà thôi.

- Thưa chủ! Người nhà quê khép nép nói - Không được đâu! Cam nhà cháu cũng có đấy nhưng không thể ăn no. Đây là cả một bao sắn to, ăn cả trăm người không hết.

Người chủ hiệu gắt:

- Mày mà biết gì nào? Sắn kia chỉ để cho súc vật ăn. Cam là để cho người ăn. Thế ra mày bảo súc vật giá trị hơn người sao? Quân này láo!

- Cháu không dám, cháu có nói thế đâu!

- Thế hãy để hàng lại. Và đây là hai đồng xu tiền vàng - hai xu māsaka kia đấy! Nhiều lắm rồi, hãy xéo đi!

Nói xong người chủ hiệu sai người vác bao sắn vào nhà và quẳng xuống chân người nhà quê hai đồng xu. Người nhà quê đứng chết lặng, miệng há hốc ra.

- Chê vàng à? Người chủ hiệu quát - Thế ra mày chê vàng à? Mày chê vàng không có giá trị bằng sắn? Chao ôi! Sắn thì sắn mốc, sắn meo, có xương không có thịt. Còn cam của ta kìa! Tươi roi rói, mọng mọng vàng, ngọt lịm kìa! Chê ít à? Xem chừng hai xu còn nhiều quá đấy. Một xu thôi! Nếu không lấy mà đi thì ông kêu lính bắt!

Người nhà quê kinh hãi:

- Cháu có tội tình gì?

- Sao không tội? Người chủ hiệu hăm dọa - Muốn tội là có tội ngay thôi. Mày chê vàng - thế là mày đã chê giá trị mà Đức Vua anh minh xứ Kāsi này đã định đặt. Thế không phạm pháp luật quốc độ là gì?

Người nhà quê xanh mặt, cúi xuống lượm hai xu rồi hốt hoảng đi như chạy không dám ngoái lại.

Bồ-tát đau lòng chảy nước mắt nhìn cảnh bất công, nhưng Ngài biết rõ, can thiệp vào lúc này là không có lợi; đành phải ẩn nhẫn thôi, chờ một dịp nào đấy, sẽ đem đến lợi ích toàn diện cho mọi người bằng công pháp nghiêm minh hơn chứ không phải bằng tình cảm nhất thời.

Bồ-tát biết rằng, người bán hàng tội nghiệp kia, nếu không chịu lấy hai xu thì sẽ còn bị thiệt hại nữa. Và nếu không bán cho người chủ hiệu này, thì dẫu cho y có đi cùng thành phố Kāsi, hàng cũng không bán được. Đấy là luật “đen”, luật “bất thành văn”, luật “phi pháp” vốn đã được thỏa thuận ngầm với nhau của giới con buôn, bọn thương gia bất hảo. Lại nữa, chuyện hăm dọa cho lính bắt, không phải là không thể xảy ra. Khi lòng tham đã chế ngự lương tâm thì trí óc của nó đã biến thành sự quỷ quyệt, lật lường của loài chồn cáo!

Trong lúc Bồ-tát thở dài, chán ngán thay cho lòng người thì Đức Vua mặt mày hớn hở, tươi như hoa, miệng không ngớt tủm tỉm cười.

- Tuyệt! Tri kỷ! Thật là tri kỷ! Với người đánh giá này, xoài chín sẽ thành xoài thối, cam tươi sẽ thành cam sống, vàng mười sẽ thành vàng non, chuối mật mốc sẽ thành chuối hư! Ta mà có y thì chẳng mấy chốc, vương quốc ta sẽ giàu có nhất châu Diêm Phù Đề. Lại nữa, y còn biết bảo vệ luật pháp của quốc độ. Một công dân toàn hảo như thế mà sao từ lâu ta không biết kìa?

Ngày hôm sau, đột ngột, Bồ-tát nhận được giấy ban khen của nhà vua với một số tiền phụ cấp hưu dưỡng. Và người chủ hiệu tri kỷ của Đức Vua được phong quan to, thế chân Bồ-tát.

Vị quan đánh giá là người có bổn phận đánh giá hàng, là người cầm cán cân thương mại cho cả nước. Quan đánh giá như thế nào thì hàng đó trị giá như vậy. Đấy là luật pháp của quốc độ mà mọi người phải tuân theo.

Vị tân quan từ khi nhậm chức đã tỏ ra khả năng “siêu quần bạt tụy” của mình trong lĩnh vực này. Y đánh giá tùy sở thích, tùy cảm hứng vui buồn của mình. Không đếm xỉa gì đến sự thua lỗ của người khác hoặc giá trị đích thực của món hàng như thế nào. Tất cả, miễn là có lợi ích cho Đức Vua là được. Đôi khi vì tức giận vô cớ, y như cướp không của người ta bằng giá cám bèo rẻ mạt. Cho nên, chẳng bao lâu, tài sản của Đức Vua cứ tăng lên vùn vụt như nước của trăm con sông chảy tràn vào. Người ta bắt đầu sợ hãi không đem đến bán, thì đích thân vị quan đánh giá “mẫu mực” này cho xe đi thu mua chỗ này, chỗ khác với lính tráng tiền hô hậu ủng. Mỗi ngày tài sản đổ về cho công khố mà Đức Vua không phải tốn kém bao nhiêu giá trị hàng trao đổi.

Hôm kia, từ một nước ở phương bắc, một lão lái buôn “vô phước” dẫn đến Đức Vua năm trăm con ngựa. Đấy là ngựa thuộc nòi giống tốt. Vua rất thích bèn kêu vị quan đánh giá tri kỷ của mình đến.

Vị quan đánh giá nhìn biết ngay là giống ngựa tuyệt hảo, một số được lai với ngựa rừng, lai với nòi giống Sindhu tối thượng. Tuy nhiên, y bắt đầu chê. Y chê con này mập quá, con này gầy quá, con kia quá cao cẳng, con này quá thấp cẳng, sắc lông con này quá hung, quá nhạt, quá bù xù, lông đuôi quá ít, bụng quá tóp, ngực quá gồ... rồi y đánh giá như sau:

- Trị giá năm trăm con ngựa tồi tệ này chỉ bằng một đấu gạo, tâu Đại Vương. Mặc dầu ngựa xấu, nhưng dẫn ngựa đi quá xa xôi mệt nhọc, ta nên đánh giá nới tay một chút kẻo tội nghiệp!

Nói xong, vị quan đánh giá sai người đem cho lão lái buôn một đấu gạo rồi dẫn ngựa vào chuồng, trao người chăn giữ.

Lão lái buôn chết sững, đứng im như hóa đá, không biết nói năng gì, chẳng biết khiếu nại cùng ai. Sau đó, y tức giận, đau khổ đi thất tha thất thiểu như người điên. Biết chuyện ấy, người trong thành phố Kāsi ai cũng thương tình, khuyên lão lái buôn nên đến gặp Bồ-tát xin ngài bày cho phương kế lấy lại ngựa.

Sau khi nghe chuyện, Bồ-tát trầm ngâm giây lâu rồi nói:

- Vị quan đánh giá kia chỉ là một gã tiện dân tham lam, không có trí. Đối với y, tiền là tối mắt, có tiền thì bảo sao nó nghe vậy.

- Trăm sự nhờ Ngài - lão lái buôn van vỉ - Nhờ Ngài tìm phương kế cho chứ con e không sống nổ khi sự nghiệp tiêu tan. Và hiện giờ con chẳng còn một trinh, một hào dính túi! Ngài hãy cứu con!.

Bồ-tát đưa mắt ra xa, nói như nói một mình:

- Sự bất công, ngu muội, đảo điên xảy ra khắp nơi. Tất cả đều do tham lam, sân hận và si mê mà ra cả. Dẫu ta có tìm phương cách đối trị mọi bất công trên xã hội thì nó cũng có giá trị tạm thời. Phải có một phương thuốc nhiệm mầu hơn, vĩnh cửu hơn có thể chẩn trị tận căn gốc, tận nguyên nhân, lúc ấy mới chấm dứt được tất cả mọi đau khổ, trầm thống của chúng sanh. Vì lòng từ với sanh loại, ta phải tìm ra con đường bất tử.

Rồi Bồ-tát nói với lão lái buôn:

- Trường hợp mất ngựa của ngươi không khó lắm đâu. Hãy bình tĩnh, hãy an tâm. Ta sẽ cứu ngươi. Tuy là ta cứu ngươi nhưng đồng thời, ta cũng cứu luôn cho cả quốc độ. Từ lâu ta vẫn chờ cơ hội. Nay cơ hội đã đến. Đức Vua sẽ tự thấy xấu hổ mà ngưng đi sự tham lam ngu si của mình.

Bồ-tát đứng dậy, trao cho lão lái buôn thêm một bọc tiền vàng rồi nói: Ngươi hãy đến trao tận tay vị quan đánh giá kia bọc tiền vàng này và nói với y rằng: “Cúi xin quan đánh giá cho thật tốt, cho thật lớn vào giá trị của đấu gạo trước mặt Đức Vua. Chỉ có thế thôi. Làm như vậy, quan chẳng mất gì mà lại còn được vàng nữa”. Ngươi hãy nói với y như thế, là ngươi sẽ lấy lại được ngựa. Ta sẽ gặp nhau vào ngày mai, tại triều đình.

Lão lái buôn ngần ngừ không dám nhận bọc tiền vàng. Bồ-tát mỉm cười nói:

- Đấy chỉ là cái mồi, nhử con rắn tham lam đi ra khỏi cái hang của nó. Bắt được rắn, ta lấy mồi lại chứ không mất đâu!

Lão lái buôn tin tưởng vào Bồ-tát nên vui mừng đến sa nước mắt. Y quỳ xuống ôm chân Bồ-tát với lòng tri ân vô hạn.

Quả nhiên, với bọc tiền vàng, vị quan đánh giá vâng dạ đủ điều.

Hôm sau, trước đầy đủ tai mắt của bá quan văn võ, có cả Bồ-tát, lão lái buôn quỳ lạy Đức Vua xong rồi nói:

- Tâu Đại Vương chí tôn! Con đã biết giá trị năm trăm con ngựa bằng một đấu gạo, nhưng giá trị một đấu gạo là bao nhiêu con cũng chưa rõ. Vậy Đại vương hãy cho quan đánh giá xác định trị giá của đấu gạo để con dễ bề tính toán lúc trở về.

Đức vua cũng không phải là người có trí, nên không thấy cái mồi câu, cái lưỡi câu con rắn tham lam nằm ở đâu, bèn chuẩn tấu.

- Này ái khanh! Ái khanh hãy lập lại trị giá năm trăm con ngựa cho trẫm nghe nào!

- Là một đấu gạo tâu Đại Vương

Đức Vua gục gặc đầu rồi tiếp:

- Vậy trị giá một đấu gạo là bao nhiêu, hãy cho lão lái buôn này rõ, hỡi quan đánh giá hiền thiện!

Chỉ thấy túi vàng, không thấy Đức Vua mà cũng chẳng thấy ai nữa cả, vị quan đánh giá đáp:

- Trị giá một đấu gạo thì quá lớn, quá nhiều, tâu Đại Vương! Nó bằng cả kinh đô Ba-la-nại và cả vùng ngoại ô cộng lại!

Lúc bấy giờ toàn thành Ba-la-nại dài đến mười hai do tuần. Còn nội ngoại thành Ba-la-nại rộng lớn mỗi bề đến ba trăm do tuần. Cho nên khi vị quan đánh giá xong, tất cả bá quan văn võ đồng “ồ” lên một tiếng. Có nhiều vị đã cất tiếng cười chế nhạo, châm biếm, xem vị quan đánh giá như một gã hề trên sân khấu.

Có một quan đại thần thanh liêm chính trực, là bạn thân của Bồ-tát, cảm thấy xấu hổ trước lão lái buôn là người nước ngoài, nên nói to với giọng mỉa mai, cốt ý cho Đức Vua nghe:

- Trước đây tổ tiên chúng ta nói quốc độ là vô giá. Nhưng nay chúng ta biết rằng nó có giá hẳn hòi. Ai cũng có thể mua được Đức Vua chí tôn và quốc độ một cách dễ dàng. Vì chỉ cần một đấu gạo, ta có thể mua nội ngoại thành Ba-la-nại, dĩ nhiên là có cả Đức Vua, Hoàng hậu, ba cung, sáu viện, điện ngọc lầu vàng, quốc khố, quốc bảo cùng của cải tài sản của lương dân trăm họ! Ôi! Vị quan đánh giá này thật là bậc đại siêu việt, thật là bậc đại trí tuệ!

Bá quan văn võ được dịp cười thật hả dạ.

Đức Vua hổ thẹn quá không biết dấu mặt vào đâu, tức giận tên đánh giá ngu si nên nổi cơn thịnh nộ, quát mắng liên hồi, rồi sau đó, tước bỏ chức vị, lấy hết gia sản của nó rồi tẩn xuất ra khỏi quốc độ.

Tuy thế, khi quay lại, Đức Vua thấy rõ trăm quan vẫn nhìn mình với đôi mắt thiếu thiện cảm, khinh bỉ thế nào, bèn hối lỗi:

- Trẫm có lỗi thật sự, hỡi các khanh! Trẫm nguyện sẽ chừa bỏ. Vì lòng tham nên Trẫm đã u tối lương tri. Từ rày về sau, Trẫm sẽ đốt lên một ngọn đèn. Ngọn đèn này sẽ thường trực chiếu sáng để soi dẫn mọi hành động hợp với đạo đức, hợp với lẽ phải, hợp với tình người.

Bá quan đồng phủ phục lạy mừng, cảm kích thái độ cải hối sáng suốt của Đức Vua. Rồi họ đồng thanh tâu xin cho Bồ-tát phục hồi chức cũ để nắm cán cân công minh cho sơn hà xã tắc.

Đức Vua thân hành đến nắm hai tay của Bồ-tát, cất giọng đầy xúc động:

- Chỉ có khanh, không những là ngọn đèn cho Trẫm mà còn là ngọn đèn cho cả quốc độ. Khanh phải được tạc tượng bỏ lên bệ thờ cho mọi người ngưỡng mộ và tôn thờ mới phải.

Từ đó, Bồ-tát phục hồi chức cũ, dẫn dắt cả vương quốc theo lẽ công bằng, tự do và hạnh phúc.

Mệnh chung, Bồ-tát đi theo nghiệp của mình.

Kể xong chuyện quá khứ, Đức Đạo Sư nói với Ānanda:

- Tên chủ hiệu đánh giá ngày xưa chính là Udāyi ngày nay vậy. Thuở ấy, nó đâu thèm để ý đến sự thiệt thòi của người khác thì nay vẫn cứ vậy. Cái ngu si cứ chồng chất ngu si, lặp lại sự ngu si mãi hoài như vậy mà nó vẫn không nhận chận được bài học. Những kẻ như vậy thì vòng tử sinh thống khổ sẽ còn trầm luân, tiếp diễn mãi mãi.

Còn Như Lai, tức vị quan đánh giá công minh, từ vô lượng kiếp trước cho đến vô lượng kiếp sau, luôn luôn đi tìm phương thuốc nhiệm mầu, bất tử để chữa trị tận căn gốc mọi đau khổ trầm thống của chúng sanh. Và nay Như Lai đã tìm ra...

 


Giết người để tế thần


Đấy là một quốc độ đầy ngu si, ác giới và tà hạnh.

Những nhà đạo đức xã hội, những nhà tư tưởng, lý thuyết gia... thường thảo luận với nhau rằng là phải có một bậc minh quân dùng vương pháp để trị dân! Rằng như vậy là không được, phải dùng pháp trị, bàn tay sắt, xử giảo, lăng trì, cho voi xé xác những tử tội ngoan cố, bọn khinh khi phép nước! Rằng là chẳng đặng đâu vì cái bụng mà ra cả, bần cùng sinh đạo tặc, cứ có chính sách cải thiện kinh tế thế nào cho dân no là các tệ trạng kia sẽ chấm dứt, chẳng cần “vương”, cần “bá” gì cả! Rằng là... rằng là...

Hoàng tử Brahmadatta tuy mới mười sáu tuổi nhưng đã nổi danh là bậc hiền trí. Ai bàn luận như thế nào chàng cũng chăm chú lắng nghe, thành kính rất mực, nhưng sau rốt, chàng chẳng có ý kiến nào, chẳng gật đầu mà cũng chẳng lắc đầu, cảm ơn tất cả mọi người.

Hôm ấy, người ta thấy Hoàng tử chít khăn mặt trời, áo màu đại dương, giày san hô, trang điểm diêm dúa, với ngựa xe khảm vàng khảm bạc, cùng tùy tùng rực rỡ đồ đại lễ đi ra cửa thành. Chàng xuống xe nơi cây đại thọ, cành lá sum sê phủ cả nửa ngôi làng, ở đấy người ta đang tế thần với thịt súc vật còn tươi máu, với ngũ cốc, với hương trầm và hoa quả. Cũng như mọi người cuồng tín khác, Hoàng tử thành kính đi nhiễu ba vòng về phía hữu, cúng dường trái cây, hương hoa, rưới nước, đảnh lễ Thần Cây rồi ra về.

Các quan đại thần có đức độ trong triều đình không chịu được hành động đó của Hoàng tử. Họ gặp nhau và thảo luận:

- Thế là Hoàng tử hiền trí của chúng ta cũng mê tín dị đoan chẳng khác bọn dân đen ngu si. Ngài cũng sì sụp khấn vái, cũng xin Thần Cây ban cho danh vọng, tài sản, quyền lực, tuổi thọ, con đàn cháu đống rồi đây!

Vị khác than dài:

- Ôi! Chắc Hoàng tử cũng đã thấy những buổi lễ người ta cúng thần! Ôi! Hàng ngàn, hàng vạn súc vật vô tội bị chém, bị chặt đầu, bị móc họng, bị phơi ruột? Cả một núi thực phẩm đem đổ xuống sông Hằng, phơi giữa hư không, chất đầy những nghĩa địa! Rồi chúng làm gì? Ôi, cái lũ trời đánh ấy, chúng uống rượu, chúng đỏ mặt như cái ông trời, chúng chửi mắng đánh đập nhau, nói lời ác khẩu, rắn rít và dơ dáy như chuột hôi! Ôi! Chắc Hoàng tử hiền trí của chúng ta cũng đã thấy rồi chứ?

Những lời thảo luận ấy, dù xa dù gần rồi cũng đến tai Hoàng tử, nhưng Hoàng tử cũng không nói gì, im lặng như cái tịnh bình.

Hôm sau, những hôm sau nữa, người ta lại thấy Hoàng tử với khăn mặt trời, áo màu đại dương, giày san hô..., cùng đám tùy tùng và đồ đại lễ đi ra cửa thành. Chàng đến cây đại thọ dâng phẩm vật, cầu nguyện, rưới nước, đảnh lễ Thần Cây rồi về.

Các quan đại thần đức độ trong triều đình không còn thảo luận với nhau nữa, họ đích thân đến gặp Hoàng tử để chất vấn.

- Thưa Hoàng tử đáng kính trọng! Đức Vua vì tuổi già, sức yếu, không còn kham nổi việc nước, biết rõ Hoàng tử là bậc hiền trí nên đã ưu ái và tín cẩn giao chức Phó Vương. Sự thịnh suy, trị loạn của quốc độ là ở nơi bàn tay nắm của Hoàng tử cả. Nhưng mà từng buổi sáng, với đại lễ, tùy tùng và phẩm vật, Hoàng tử đến cái cây ấy để làm gì? Quốc độ cần cái mặt trời để soi sáng chứ không cần cái mặt trời chui vào hang đen!

- Ta biết!

Hoàng tử gật đầu đáp với sự bình thản, an nhiên của đỉnh núi.

Một vị lão quan cất giọng:

- Hoàng tử biết? Ngài biết như thế này và làm như thế kia? Có thể nào, như con cú kia, ban đêm nó thấy cả cây kim, sợi chỉ, mà ban ngày cả ngọn núi nó cũng không thấy! Bọn ngu si tà giáo đã vấy độc lên trái tim và khối óc của Hoàng tử rồi sao?

Sắc mặt Hoàng tử Brahmadatta thoáng thay đổi nhưng ngài trấn tỉnh được ngay, cất giọng điềm đạm và bình hòa:

- Các ngài đều là những đại quan, lão thần có trí, có đạo đức và phẩm hạnh. Ta kính trọng các ngài. Ta cũng biết nghe những lời nói phải, những lời rất chướng tai nhưng chính trực, liêm khiết, thẳng thắn. Ta ghi nhận tất cả những điều ấy! Nhưng hiện giờ thì các ngài hãy trở lại chỗ đứng của mình đi thôi. Hơn ai hết, ta biết rất rõ việc ta đang làm.

Các quan đại thần thất vọng ra mặt. Nhưng họ lại càng buồn khổ, thất vọng hơn khi thấy Hoàng tử lại trang điểm, đại lễ, tùy tùng và phẩm vật để đến Thần Cây của mình vào mỗi buổi sáng.

Hôm kia, với thái độ rất quyết liệt, các vị lão quan không sợ chết này, họ đến nằm dài trên lối đi, cản chân ngựa của Hoàng tử.

Với khuôn mặt lạnh như tiền, Hoàng tử ra lệnh cho tùy tùng bắt giam tất cả, nói to cho nhiều người cùng nghe:

- Từ rày ai cố ý ngăn cản ta đi đến vị Thần Cây của ta, ta sẽ chém đầu tất cả!

Rồi Hoàng tử nói nhỏ với người hầu cận tâm phúc:

- Đem các vị lão quan đến chỗ quản thúc tạm thời thôi, lo chỗ ngủ nghỉ, việc ăn uống cho đàng hoàng, tươm tất.

Từ đấy, chẳng còn ai dám can gián nữa. Đức tin của quần chúng đối với Thần Cây mạnh mẽ như sóng tràn chẳng sức gì cưỡng nổi.

Không lâu sau, Vua cha băng hà, Hoàng tử lên kế vị ngôi Vương. Ngày lễ đăng quang, ngài cho mời rộng rãi trăm quan, các giáo chủ Bà-la-môn, các đại thần gia chủ, các vị bô lão đại diện bá tánh.

Đức Vua nói:

- Ai trong chư khanh biết vì lý do nào mà Trẫm đạt được Vương vị?

Mọi người đều trả lời là không biết.

Đức Vua lại hỏi:

- Ai trong chư khanh đã có thấy trước đây, khi còn là Hoàng tử, ta thường cùng đám tùy tùng, với trang sức, với đồ đại lễ, ra cửa thành và đảnh lễ Thần Cây?

Một vị cận thần xu nịnh tâu:

- Thưa Thiên tử! Ai là con dân trong quốc độ này cũng biết việc làm thiêng liêng ấy của Thiên tử.

Vua gật đầu nói:

- Đấy là lý do. Lúc ấy, với tất cả lòng thành, ta phát nguyện như sau: “Nếu Thần Cây với uy lực của mình, cho ta được làm vua thì ta chẳng tiếc tài vật lẫn sanh mạng của mọi người để làm vật hiến cúng”. Vậy hôm nay làm lễ quán đỉnh lên ngôi, ta nhớ ơn Thần Cây, chư khanh hãy chuẩn bị phẩm vật, vật tế để cho ta tròn với lời hứa thiêng liêng.

Mọi người xôn xao vì họ chưa nắm rõ ý câu nói của Đức Vua.

Một vị giáo chủ đứng dậy tâu:

- Lệnh vua là lệnh trời. Nhưng thưa Thiên tử! Tài vật ấy như thế nào? Sanh mạng ấy như thế nào?

Đức Vua cất giọng sang sảng:

- Này chư khanh! Tài vật thì dễ rồi, nhưng sanh mạng mới khó! Sanh mạng của ai? Ồ! Điều ấy ta cũng từng nói với Thần Cây như sau: “Tất cả những ai ở trong quốc độ của ta nếu chuyên hành ác giới, mười hạnh bất thiện, ta sẽ giết tất cả chúng với đầu, nội tạng, thịt và máu để làm lễ tạ ơn. Chẳng kể một ngàn, hai ngàn, hễ cứ ai ác giới, tà hạnh là giết hết, không chừa một mống!”.

Như một tiếng sét nổ kinh hoàng giữa lưng mây, mọi người bàng hoàng run sợ.

Một vị giáo chủ đã có tuổi tâu:

- Thưa Thiên tử! Làm sao mà giết chúng hết? Vả lại, chúng phạm tội khi luật chưa thành văn!

Đức Vua cứng rắn:

- Vậy sẽ thành văn tức khắc. Này chư khanh! Hãy đánh trống bá cáo cùng khắp lời truyền của ta. Trong quốc độ này, bắt đầu từ hôm nay, ai hành năm ác giới và mười ác hạnh, không kể con số nghìn vạn, quan hay dân, kẻ ngu phu hay người tri thức, ta sẽ giết hết để làm lễ tế thần! Ngay chính cả ta và mọi người trong hoàng tộc cũng không có biệt lệ!.

Các quan đại thần có đức độ, gồm các vị lão quan đã được thả ra - đến ngang đây mới thấy rõ sự dụng tâm cơ khổ của bậc hiền trí: lặng lẽ chịu đựng tất cả mọi oan khuất, lời phỉ báng của mọi người, cốt mong sao đem chính đạo cai trị muôn dân! Họ chợt sinh lòng kính trọng và ngưỡng mộ Đức Vua vô cùng. Họ cảm động đến chảy nước mắt. Sau đó họ mau mắn cử phi mã, khoái mã đi đánh trống, truyền thông điệp, bá cáo khắp tận hang cùng ngõ hẻm nghiêm lệnh của tân quốc vương.

Lạ thay! Tiếng trống vừa báo tin đi mấy hôm thì vó ngựa khắp các phương lần lượt mang tin về: mọi người sợ hãi tái xanh mặt, chỗ này hợp làng, họp xóm; chỗ kia họp hội đồng gia tộc, từng gia đình... Họ dặn bảo nhau, nhắc nhở nhau, đe dọa nhau bởi lời bố cáo đanh thép của Đức Vua với triện son tươi roi rói.

Chỉ một thời gian ngắn, cả quốc độ không còn ai dám hành năm ác giới và mười bất thiện hạnh nữa. Chẳng những thế, khắp tất cả thành phố, thị trấn, làng mạc... Đức Vua cho tung ra hàng ngàn vị Bà-la-môn học thức, có phẩm hạnh, dạy cho dân các công nghệ chánh mạng và thực dụng hầu đáp ứng nhu cầu vật chất áo cơm cho toàn xã hội. Các lớp dạy chữ, dạy văn chương, tư tưởng đạo đức làm người cũng được mở khắp nơi. Dân chúng sống trong cảnh thanh bình, an lạc, biết giữ giới luật, biết san sẻ, tương thân tương trợ, biết bố thí, cúng dường, biết làm các thiện sự xã hội....

Như vậy, người hiền trí với dụng tâm và cơ mưu thiện xảo, không làm ai đau khổ, không làm cho ai đổ mồ hôi mà thiết lập được một triều đại Chánh Pháp huy hoàng, rực rỡ trong lịch sử loài người. Ngài đã làm cho một quốc độ đầy ngu si, ác giới và tà hạnh tràn ngập con đường thiên giới!.

 


Quả báo khủng khiếp


Thuở Phật Ca-Diếp còn tại thế, có một vị tỷ-kheo sống trong ngôi làng nhỏ dưới sự hộ độ của người chủ ruộng. Vị ấy tính tình bộc trực, hồn nhiên, giữ giới trong sạch và chuyên tu thiền quán. Ngài sống như vậy trong thời gian dài không có phiền lao và nhiệt não.

Hôm kia, có một vị trưởng lão lục căn thanh tịnh đi qua làng. Người chủ ruộng trông thấy, phát tâm tịnh tín, thỉnh bát, mời vào nhà, cúng dường các món ăn, nghe pháp rồi thưa:

- Thật ít khi mà ngôi làng nhỏ bé của chúng con được phước để nghinh tiếp và cúng dường đến các bậc Sa-môn phương xa. Thưa tôn giả kính mến! Nay tôn giả đã đến đây thì xin ngài hoan hỷ dừng bước để cho chúng con thêm được phần cơ duyên tấn ích. Ở đây, có một ngôi tịnh xá, ngài sẽ gặp đầu tiên ở con đường. Thỉnh tôn giả ở lại đấy, buổi chiều, chúng con sẽ đến.

Vị trưởng lão im lặng nhận lời đi đến tịnh xá, đảnh lễ vị tỷ-kheo trụ trì và xin chỗ tạm cư.

Vị tỷ-kheo trụ trì ân cần tiếp đón, mời ngồi rồi hỏi:

- Chẳng hay hiền giả ở xa lại mà đã có gì độ thực chưa?

- Đã có rồi, thưa hiền giả

- Ở đâu vậy, hiền giả quý mến?

- Gần đây thôi, thưa ngài, nơi gia đình người chủ ruộng ở trong làng.

Vị trụ trì sửa soạn sàng tọa, chỗ cất đặt y bát, nước rửa, khăn tắm, khăn lau mặt, chỉ chỗ vệ sinh, quét dọn đâu đấy ngăn nắp rồi mời vị khách tăng vào nghỉ ngơi.

Vị trưởng lão vốn là bậc A-la-hán, lậu hoặc đã tận, sống bình đẳng hài hòa với các vị đồng phạm hạnh, hoan hỷ đến chỗ sàng tọa của mình, ngồi xuống và hưởng lạc thọ của thiền, của quả.

Buổi chiều, với hương hoa, dầu đèn, người chủ ruộng đến tịnh xá, đảnh lễ cúng dường vị trụ trì rồi thưa hỏi vị khách tăng. Người chủ ruộng vấn an sức khỏe, đảnh lễ, ngồi xuống một bên vị trưởng lão và nghe pháp. Đến lúc mát trời, người chủ ruộng xin được mời thỉnh cả hai vị về nhà mình.

Vị trụ trì tâm tư không được thoải mái, tự nghĩ:

“Kẻ hộ độ cho ta tâm đã bị phân tán thành hai. Một lúc nào đó, y sẽ không còn ngó ngàng gì đến ta nữa. Vậy hãy làm thế nào cho vị khách tăng bỏ tịnh xá và ra đi?”

Đến giờ hầu thăm, khi vị trưởng lão đến, vị trụ trì tỏ thái độ im lặng một cách khó chịu.

Quán tâm, biết rõ tâm của vị trụ trì, bậc trưởng lão về chỗ sàng tọa của mình, suy nghĩ:

“Ngài trụ trì này không biết, chớ ta có bao giờ làm phiền lụy, trở ngại cho ai?”.

Sáng ngày, vị trụ trì lấy tay gõ nhẹ cái chuông, lấy móng tay cào nhẹ nơi cửa rồi ôm bát đến nhà thí chủ hộ độ hàng ngày. Người chủ ruộng thỉnh bát, mời ngồi rồi hỏi vị khách tăng sao không thấy đến.

Vị trụ trì tỏ vẻ ngần ngại một lát rồi mới nói:

- Tôi không biết gì về vị tỷ-kheo đáng mến ấy! Sáng ngày, tôi đã đánh chuông, gõ cửa nhưng không thể đánh thức vị ấy được. Bữa qua, sau khi dùng các món ăn thượng vị nơi nhà của thí chủ, có thể chưa tiêu hóa được, nay đang còn ngủ chăng? Tôi không rõ lắm, mà có thể vị ấy đang hoan hỷ với những việc như vậy!

Trong khi ấy, bậc trưởng lão A-la-hán biết giờ khất thực đã đến, không muốn làm phiền vị trụ trì nên đã dọn dẹp sàng tọa, cất đặt, quét tước đâu đó tươm tất, sạch sẽ, rồi đắp y, quăng bát qua hư không đi đến một trú xứ khác.

Người chủ ruộng sau khi cúng dường cơm, canh, bánh, sữa, sanh tô, mật và đường đến vị trụ trì, lại gói sẵn thêm một phần nữa rồi thưa:

- Bạch tôn giả! Ngài trưởng lão khách tăng chắc đi đường xa còn mệt, vậy nhờ tôn giả hoan hỷ mang phần vật thực mà chúng con đã có nhã ý cúng dường cho vị ấy.

Chẳng thể từ chối, vị trụ trì đi về với tâm tư phiền muộn, tự nghĩ:

- “Nếu y được ăn cơm với sữa, mật và sanh tô này, ai nắm cổ đuổi đi, chắc y sẽ không đi. Vậy ta phải làm sao? Đem cho người khác, việc làm của ta sẽ bị bại lộ. Nếu đổ xuống nước, sanh tô sẽ nổi lên và sẽ bị thấy. Quăng trên đất thì lũ quạ sẽ tụ họp lại, kẻ qua đường sẽ biết, và rồi sẽ đến tai người chủ ruộng. Nay ta sẽ thủ tiêu phần vật thực này ở đâu?”

Đang phân vân như vậy, vị trụ trì chợt thấy một đám cây và một đám ruộng bị đốt, lửa nghi ngút bốc lên. Ý nghĩ đi liền theo, vị trụ trì khều một đống than đỏ lên, bỏ vật thực xuống rồi phủ lên đó một lớp than nữa. Làm xong công việc ấy, vị trụ trì mỉm cười hài lòng:

- “Sẽ không còn vật thực thượng vị, rồi tứ đại sẽ hoàn cho tứ đại”.

Về tịnh xá, thấy vắng vẻ, mở cửa nhìn chỗ sàng tọa của vị khách tăng, thấy đâu đó đã được dọn dẹp ngăn nắp, sạch sẽ, vị trụ trì giật mình:

- “Vậy là y biết rõ tâm tư của ta, không muốn phiền nhiễu ta, quấy rầy ta nên đã lặng lẽ bỏ đi nơi khác. Đây đúng là hành động của một bậc A-la-hán đã đoạn tận các lậu hoặc rồi!”.

Nghĩ vậy, một nỗi sợ hãi to lớn khởi lên thiêu đốt tâm can, vị tỷ-kheo trụ trì khốn khổ than dài:

- “Ôi! Vì một miếng ăn, một chút ganh tỵ mà ta đã thiêu rụi vô vàn công đức và phước báu tu tập được. Ta đã ngu si làm một tội lỗi tày trời!”.

Từ đấy, vị tỷ-kheo trụ trì bị dằn vặt, đau khổ, phiền muộn, ưu sầu. Ngày và đêm, vị ấy như ở trong một lò lửa lớn, đun bằng dầu sôi, đốt cháy ruột gan và óc não. Trạng thái này kéo dài cho đến khi chấm dứt thọ mạng, vị tỷ-kheo trụ trì rơi xuống địa ngục, bị đốt, bị nấu nhiều trăm nghìn năm.

Do sức mạnh của ác nghiệp, từ địa ngục, vị ấy bị sanh năm trăm kiếp liên tục làm Dạ Xoa đói, không được ăn đầy bụng dù chỉ một ngày. Chỉ có một bữa, vị ấy được no bụng bởi ăn đồ uế nhiễm của thai bào.

Hết năm trăm kiếp Dạ-xoa, năm trăm đời vị ấy sanh làm chó đói. Liên tiếp năm trăm đời, không một ngày no bụng, chỉ được một bữa no đầy do ăn vật thực ói mửa của người khác.

Khi kiếp chó mạng chung, vị ấy sinh ở nước Kāsi, tại một làng nghèo đói, trong một ngôi nhà nghèo đói nhất. Từ khi vị ấy sinh ra, gia đình ấy trở nên nghèo đói cùng cực. Nơi cái bụng ọc ạch của vị ấy, chưa bao giờ chứa được một nửa bát nước cháo chua! Cha mẹ vị ấy không thể chịu nổi cái đói, đành đuổi vị ấy đi với lời nguyền rủa “con số đen bất hạnh!”. Không nơi nương tựa, vị ấy lang thang đến Ba-la-nại.

Thuở ấy, tiền thân Phật Thích Ca là một vị giáo sư có tiếng khắp các phương. Dân Ba-la-nại trả tiền công cho ngài để ngài dạy tri thức và nghề nghiệp cho năm trăm thanh niên con em của họ. Tình cờ, Bồ-tát gặp “con số đen bất hạnh”. Thấy đói khổ, tội nghiệp, ngài mang về cho cơm ăn, áo mặc rồi dạy cho học. Nhưng vị ấy cứng đầu, ngang ngạnh, hay đánh bậy, không chịu nghe lời khuyên bảo. Từ khi có nó, tiền dạy của Bồ-tát bỗng dưng giảm sút, không rõ người ta cố ý không trả tiền công hay người ta quên! Tuy nhiên, mặc dù biết rõ do nghiệp của nó, Bồ-tát vẫn nhẫn nại, khoan dung, cố dạy dỗ cho nó nên người.

Cũng do nghiệp xui nên, vị ấy không thể ở yên trong hoàn cảnh tốt. Nó gây lộn, ẩu đả với nhiều thanh niên rồi trốn đi, lang thang đến một làng biên địa làm thuê sinh sống.

Tại đấy, nó chung sống với một người đàn bà nghèo khổ và sinh được hai con. Từ khi có nó ở đây, ngôi làng biên địa này bị vua xử phạt bảy lần vì săn thú trái phép, nhà cửa bị cháy bảy lần và hạn hán cũng xảy ra bảy lần. Đời sống của dân chúng vốn đã chẳng no đủ gì, lại trở nên khó khăn, nghèo đói, cơ cực không thể tưởng. Họ nghĩ: “Có lẽ tại con số đen bất hạnh kia chăng? Trước đây, chúng ta đâu có khổ cùng, khổ cực đến vậy?”.

Dân làng họp nhau lại rồi tẩn xuất nó đi. Với vợ và con, nó lang thang lếch thếch đến một khu rừng. Một bữa đi kiếm trái cây trở về, vợ và hai con nó chỉ còn là đống xương và máu bầy nhầy. Một phi nhân đã ăn thịt những kẻ thân yêu của nó! Sợ hãi, đau đớn, đói khát, nó ra khỏi rừng, vất vưởng từ núi này sang núi nọ, làng này sang làng khác. Đến một vùng biển, gặp lúc một chiếc tàu vừa nhổ neo, nó xin được một chân làm thuê. Tàu đi được bảy ngày thì đột nhiên đứng yên như bị mắc cạn. Chúng rút thăm xem ai là “con số đen bất hạnh”. Cả bảy lần rút thăm, “con số đen” đều rơi vào tay nó. Thế là người ta hè nhau, quăng nó xuống trên một chiếc bè. Không có nó, tàu bình yên vô sự ra đi!

Do quả giữ giới, sống đời phạm hạnh một thời gian thuở Phật Ca Diếp, bè tre của nó trôi đến một hòn đảo xinh đẹp. Tại đây, nó sống hưởng lạc bảy ngày trong tòa lâu đài pha lê với bốn tiên nữ (Dạ Xoa thiên). Hết bảy ngày, nó lại lên bè tre trôi đến một hòn đảo khác, gặp tám tiên nữ và sống hưởng lạc thú với họ trong một tòa lâu đài bằng ngọc. Phước báu này đẩy nó đi rồi gặp mười sáu tiên nữ, ba mươi hai tiên nữ. Hết phước, nó lạc đến một hòn đảo hoang vu. Có một con quỷ Dạ Xoa trong hình dáng một con dê đang ăn cỏ ở đấy. Vì đói, nó nhảy đến định bắt dê để ăn thịt. Với thần lực của loài quỷ, Dạ Xoa nhấc bổng nó và quăng qua hư không. Nó băng băng bay qua biển, không biết với thời gian bao lâu, nó rơi xuống trên đầu một bụi gai, lăn tròn qua một cái hào khô nước rồi đứng dậy.

Lúc bấy giờ, tại cái hào ấy, ăn trộm thường đến bắt dê của vua, và những người rình bắt trộm đang núp sẵn ở đấy. “Con số đen bất hạnh” thấy dê nhiều quá, ngu si tự nghĩ: “Khi ta chụp bắt dê ngoài hoang đảo, nó quăng ta qua biển rồi rơi xuống đây. Bây giờ, ta lại chụp bắt một con dê, như thế, nó lại quăng ta qua biển, rơi xuống nơi hòn đảo có các vì tiên nữ!”

Với tác ý bất chánh như vậy, nó nhảy tới chụp chân dê, dê kêu lên, thế là người ta đổ ra bắt nó: “Đây đúng là đứa ăn trộm dê của vua từ trước tới nay!” Người ta đánh nó, trói lại rồi dẫn về cho Đức Vua trị tội.

Hôm ấy, ở Ba-la-nại, Bồ-tát đang dẫn năm trăm người học trò của mình xuống sông tắm thì gặp nó đang bị lính trói dẫn đi. Hỏi tự sự đầu đuôi câu chuyện, Bồ-tát biết nó không phải là đứa ăn trộm dê, chỉ do một sự trùng hợp ngẫu nhiên nào đó thôi. Nó cũng tình thật kể lại tác ý của nó khi được hưởng lạc thú ở đảo với những tiên nữ. Bồ-tát chi trả một ít tiền thù lao công khó đêm hôm cho những người rình trộm rồi xin họ ân xá cho sự ngu si của nó. Nể tình Bồ-tát, nó được tha mạng. Bồ-tát lại mang nó về nhà nuôi dưỡng rồi tiếp tục khuyên lơn, dạy bảo. Chấm dứt thọ mạng, Bồ-tát và “con số đen bất hạnh”, mỗi người đi theo nghiệp của mình.

Cái quả báo khủng khiếp của vị tỷ-kheo trụ trì thuở xưa, vì nguyên nhân một miếng ăn, một chút ganh tỵ mà đốt cháy vật thực, không phải ngang đây là chấm dứt. Cái kiếp ngu si, bần cùng, khốn khổ bất hạnh tương tự như trên còn kéo dài đến năm trăm đời sau nữa.

Kiếp cuối cùng, nó sanh thú tại Kosala, trong một làng đánh cá, tại một gia đình nghèo khổ. Từ khi nó tượng hình trong thai bào người vợ thì cả ngôi làng, gồm một ngàn gia đình rơi vào thảm họa, tổn hại, cá trong biển dường như trốn đi đâu mất hết, dân làng thường trở về tay không mỗi ngày, mỗi tuần. Họ phải đi xa hơn, ngoài ranh giới của mình, thế là bị Đức Vua xử phạt bảy lần! Rồi tiếp theo là ngôi làng bị cháy bảy lần! Thế rồi, cả làng chỉ còn tay trắng, nghèo đói cùng cực.

Họ bàn với nhau:

- “Trước kia, chúng ta không có như vậy. Làng của chúng ta chắc chắc phải có một “con số đen” nào đây, phải tìm cho ra!”.

Rồi họ phân thành hai nhóm, mỗi nhóm năm trăm gia đình. Chuyện lạ xảy ra. Nhóm nào có cha mẹ nó thì vẫn đen đủi, xui xẻo. Nhóm kia dần dần được tăng thịnh, hết đói nghèo

Người ta lại chia hai cái nhóm năm trăm gia đình “con số đen”, mỗi bên hai trăm rưỡi gia đình. Nhóm có cha mẹ nó thì nghèo đói như cũ, còn nhóm kia bắt đầu may mắn. Tuần tự chia đôi mãi như vậy, người ta tìm ra được gia đình có nó đầu thai, rồi tẩn xuất cả gia đình nó ra khỏi làng.

Người chồng biết cái “quái thai” kia nằm trong bụng vợ nên cũng sợ hãi, trốn vợ bỏ đi luôn. Thật khốn khổ cho người đàn bà bụng mang dạ chửa, lê lết tấm thân gầy đi xin ăn qua bữa. Cuối cùng, đứa bé cũng được sinh ra.

Vì là đời sống cuối cùng nên dầu có bị khốn khổ, đói rét, đứa bé vẫn không thể chết. Như ngọn đèn nằm trong chiếc ghè, điều kiện để thành A-la-hán cháy đỏ trong tim của nó.

Khi đã biết đi, biết chạy, người mẹ giao cho đứa bé một cái bát và bảo nó đi ăn xin, rồi bỏ trốn. Bà nghĩ rằng, cưu mang nó cho đến bây giờ quả là tận tình, tận nghĩa đối với nó rồi.

Từ đó, nó sống một mình, tìm đồ ăn tại chỗ này, chỗ kia, không một mảnh vải che thân, nằm ngủ đầu đình, xó chợ. Nó tìm sống một cách cực khổ như một con quỷ ăn bùn, bới trong những đống rác, lượm những hạt cơm đổ tại các cửa nhà, moi móc những đồ ăn thừa người ta rửa, thải từ các mương cống ...

Hôm nọ, bậc Tướng quân Chánh Pháp đang đi khất thực ở Xá Vệ, thấy đứa bé, động tâm suy nghĩ: “Chẳng biết nó là con của ai, ở đâu mà sống một đời đáng thương hại như vậy?” Rồi khởi lòng bi mẫn, ngài gọi:

- Này con, hãy đến đây!

Đứa bé đến, thấy dung nghi của trưởng lão, một niềm kính trọng sâu xa khởi lên, nó liền chấp tay đảnh lễ rồi đứng khép nép ở một bên.

- Con ở làng nào? Cha mẹ con ở đâu?

- Thưa tôn giả, con không có nơi nương tựa. Cha mẹ con, vì con mà đời sống quá khốn khổ, quá mệt mỏi nên họ đã bỏ rơi con và trốn đi.

Ngài Xá Lợi Phất ân cần:

- Này con, con có muốn sống đời xuất gia như ta không?

- Con muốn lắm. Đứa bé nói - Nhưng ai sẽ cho kẻ khốn nạn như con xuất gia?

- Ta, ta sẽ cho con xuất gia.

Tôn giả Xá Lợi Phất sau khi cho đứa bé ăn các món ăn loại cứng và mềm, dắt về tịnh xá Kỳ Viên, tự tay tắm rửa, cho y áo, rồi cho đứa bé xuất gia làm sa-di đuổi quạ. Đến tuổi trưởng thành, trao cho đại giới, từ đấy được gọi là tỷ-kheo Losaka.

Losaka do nghiệp quá khứ còn dư sót nên ít được phước báu, ít nhận được các món ăn cúng dường. Dầu cho có được bố thí lớn cách mấy, không gì sánh nổi, bụng của vị tỷ-kheo này cũng không được no, chỉ vừa đủ để duy trì mạng sống cầm chừng mà thôi! Một muỗng cháo là hình như đã tràn đầy bình bát của vị ấy. Người ta luôn luôn cảm thấy bát của vị tỷ-kheo đã đầy - dầu bên trong không có gì - nên họ lại đem dâng cúng cho vị đi sau.

Tỷ-kheo Losaka, tuy vậy, tu hành rất tinh tấn, thiền quán tăng trưởng, sau một thời gian, chứng quả A-la-hán. Tuy vậy, ngài cũng chỉ được món ăn cúng dường ít ỏi. Vì thiếu thốn vật thực nên thọ hành giảm thiểu và ngày Niết bàn Vô dư đã đến.

Bậc Tướng quân Chánh Pháp, hôm ấy hướng tâm đến, biết được thọ hành của người đệ tử, bèn nghĩ rằng: “Losaka hôm nay sẽ nhập Niết bàn không có dư y. Ta làm thế nào cho vị ấy được một bữa ăn no bụng lần cuối cùng?”

Thế rồi, tôn giả dẫn ngài Losaka vào Xá Vệ để khất thực. Dẫu cả thành phố ai cũng biết tôn giả, nhưng hôm ấy, không hiểu tại sao, cả hai không nhận được một lời chào hỏi, huống nữa là cúng dường! Tôn giả Xá Lợi Phất bảo ngài Losaka về tịnh xá, ngồi tại giảng đường rồi tôn giả sẽ gởi vật thực về cho.

Khi không có tỷ-kheo Losaka đi bên cạnh, tôn giả liền đầy một bát, đầy hai bát. Tôn giả cẩn thận sớt ra nhiều phần, gặp vị tỷ-kheo nào, tôn giả cũng nhờ mang về cho tỷ-kheo Losaka đang đợi ở giảng đường. Rồi tôn giả lại đi bát tiếp cho mình.

Kinh kể rằng, vì nghiệp ác xui khiến nên tất cả những người tôn giả Xá Lợi Phất nhờ mang về, đều quên, không đem vật thực cho tỷ-kheo Losaka, họ ăn hết, hoặc họ sớt cho vị khác.

Đến trưa, khi về tịnh xá, ngài Losaka tìm đến đảnh lễ, Tướng quân Chánh pháp ân cần hỏi:

- Này hiền giả! Hiền giả có nhận được chút ít vật thực nào chăng?

Vì là bậc Thánh, ngài Losaka trả lời nhũn nhặn:

- Thưa tôn giả! Rồi con sẽ nhận được.

“Rồi con sẽ nhận được”! Nghĩa là hiện giờ thì chưa nhận được! Tôn giả Xá Lợi Phất ngẩng đầu nhìn trời. Đã quá ngọ!

- Hãy ngồi xuống đây, hiền giả! Tôn giả Xá Lợi Phất nói nhanh - Hãy ngồi xuống đây và chỉ đợi ta trong giây lát thôi.

Xong, như cánh chim ưng vàng, tôn giả quăng bát qua hư không, vận thần thông lực, bay đến trú xứ của Vua Kosala. Ở đây, sau khi nhận đầy bát bốn loại bánh ngọt và những thức ăn phi thời, tôn giả mau chóng trở về, đứng, cầm bình bát và nói:

- Này hiền giả Losaka, hãy ăn đi. Đây là những thức ăn phi thời được phép dùng. Ta cho phép hiền giả cứ lấy ăn.

Nhưng ngài Losaka vì lòng kính trọng thầy, không thể để thầy đứng cầm bát cho mình ăn, nên còn ngần ngại.

Tôn giả lại nói:

- Này hiền giả! Đáng quý thay là đức hạnh cung kính, nhưng đây là do ta cho phép chứ không phải tự ý của hiền giả. Ta cầm bát và đứng, còn hiền giả cứ lấy bánh mà ăn. Vì sao vậy? Vì ta biết rõ rằng, khi tay ta vừa rời khỏi bình bát thì sẽ không còn một vật thực nào ở đấy nữa!

Do thần thông lực của bậc Tối Thượng Thủ duy trì nên bánh đã không biến mất do nghiệp còn dư sót của tỷ-kheo Losaka, nên hôm ấy ngài được ăn một bữa ăn no bụng trong suốt một kiếp làm người!

Sau đó, tỷ-kheo Losaka nhập Niết-bàn. Đức Chánh Đẳng Chánh Giác đứng một bên chứng kiến thi hài được hỏa táng. Các xá-lợi được thâu nhận và điện tháp được xây dựng để tôn trí lên trên.


 


[Ðầu trang][Trở về trang Mục Lục][Trở về trang Thư Viện]

updated: 2007