• Nền Tảng Phật Giáo - Quyển VII - Tập 1

    PHÁP HÀNH THIỀN ĐỊNH

  • Tác giả: Hộ Pháp

 

Tính Của Hành-Giả

 

Pháp-hành-thiền-định có 40 đề-mục-thiền-định, hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định, ban đầu nếu biết chọn được đề-mục-thiền-định phù hợp với tính (carita) của mình, rồi thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định ấy thì rất thuận lợi, pháp-hành-thiền-định dễ dàng phát triển tốt, dẫn đến chứng đắc các bậc thiền sắc-giới, tuỳ theo mỗi đề-mục-thiền-định.

 

Trong bộ Visuddhimagga, bậc Tiền-bối phân chia tính của hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định có 6 loại tính gốc căn bản như sau:

 

1- Tính-tham (Rāgacarita),

2- Tính-sân (Dosacarita),

3- Tính-si (Mohacarita),

4- Tính-tín (Saddhācarita),

5- Tính-giác (Buddhicarita)

6- Tính-suy-diễn (Vitakkacarita). 

 

Thật ra, mỗi người có nhiều loại tính xen lẫn vào nhau, nhưng nếu người nào có tính nào thường hay phát sinh, dễ phát sinh hơn hết thì xem người ấy có tính ấy. 

 

Ví dụ: Nếu người nào thường hay phát sinh tâm tham, dễ phát sinh tâm tham trong các đối-tượng tốt đẹp đáng hài lòng thì xem người ấy có tính-tham (rāgacarita).

 

Cho nên, phân chia 6 loại tính gốc căn bản của hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định, cốt yếu phân loại 40 đề-mục-thiền-định, các đề-mục-thiền-định nào phù hợp với tính gốc căn bản của mỗi hành-giả. 

 

* Nếu hành-giả nào chọn đề-mục-thiền-định nào phù hợp với tính của mình thì hành-giả ấy thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định ấy rất thuận lợi, pháp-hành-thiền-định dễ dàng phát triển tốt.

 

* Nếu hành-giả nào chọn đề-mục-thiền-định nào không phù hợp với tính của mình thì hành-giả ấy thực- hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định ấy không được thuận lợi, pháp-hành-thiền-định khó phát triển được.

 

Tính (Carita) của mỗi hành-giả là điều khó xác định chính xác, bởi vì mỗi người có nhiều loại tính. Cho nên mỗi hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định chọn cho mình một đề-mục-thiền-định phù hợp với mình không phải là điều dễ dàng đâu! 

 

Tính gốc căn bản có 6 loại tính, nếu phân loại tính chi tiết thì có 2 nhóm tính:

 

1- Suddhacarita: Tính thuần là tính xấu hợp với tính xấu, tính tốt hợp với tính tốtcó 14 loại tính là rāgacarita, dosacarita, mohacarita, rāgadosacarita, rāgamoha-carita, dosamohacarita, rāgadosamohacarita, saddhā-carita, buddhicarita, vitakkacarita, saddhābuddhicarita, saddhāvitakkacarita, buddhivitakkacarita, saddhābuddhi-vitakkacarita.

 

2- Missakacarita: Tính tạp là tính xấu và tính tốt lẫn lộn với nhau có 49 loại tính là rāgasaddhācarita, rāga- buddhicarita, rāgavitakkacarita, rāgasaddhābuddhi-carita, rāgasaddhāvitakkacarita, v.v…

 

Để biết hành-giả nào thuộc loại tính nào nên thực-hành đề-mục-thiền-định nào cho phù hợp, thì chỉ có những bậc Thiền sư có phép-tha-tâm-thông (cetopariya-ñāṇa) mà thôi. Ngoài ra, không có một ai có khả năng biết được người khác thuộc loại tính nào.

 

Tuy nhiên, trong bộ Visuddhimagga, chư bậc Tiền-bối chỉ dạy căn cứ vào 5 điều để phân biệt tính của hành-giả thuộc loại tính nào trong 6 tính gốc căn bản bằng câu kệ rằng:

 

Iriyāpathato kiccā, bhojnā dassanādito.

Dhammappavattito ceva, cariyāyo vibhāvaye.([1])

 

Chư bậc thiện-trí biết phân biệt hành-giả có tính nào do căn cứ vào 5 điều là:

1- Iriyāpatha: Các oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm, v.v…

2- Kicca: Công việc làm,

3- Bhojana: Các món ăn uống,

4- Dassanādi: Thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc giác, v.v…

5- Dhammappavatti: Các pháp thường ngày.

 

1- Người Có Tính-Tham (Rāgacarita)

 

Người có tính-tham (Rāgacarita) là người dễ phát sinh tâm tham hơn các tâm khác, thường hay phát sinh tâm tham trở thành thói quen, nên gọi là người có tính- tham.

 
Người có tính tham thường thể hiện ra 5 điều:
 

1- Các oai nghi: Người có tính-tham (rāgacarita) trong 4 oai nghi như khi đi, bước đi khoan thai nhẹ nhàng; khi đứng, khi ngồi nghiêm chỉnh đàng hoàng; khi nằm, nằm trên chỗ sạch sẽ, sang trọng, thân hình nằm đàng hoàng.

 

Khi bị đánh thức, từ từ thức dậy, trả lời như người còn ngáp ngủ, …

 

Các oai nghi phụ khác cử động cũng đàng hoàng.

 

* Trong chú giải Suttanipāta giải về tư thế đi của 4 hạng người:

* Người có tính-tham nhón bàn chân đi nhẹ nhàng,

* Người có tính-sân đi kéo bàn chân,

* Người có tính-si đi nhấn gót bàn chân,

* Bậc không còn mọi phiền-não đi đạp bàn chân bằng phẳng.

 

2- Các công việc: Người có tính-tham khi làm công việc nào đều cố gắng tận tụy trong công việc ấy cho được hoàn thành tốt đẹp, có tính mỹ thuật cao.

 

3- Các món ăn uống: Người có tính-tham thích dùng những món ăn ngon miệng, khi ngồi ăn đàng hoàng, ăn uống thong thả, không vội vàng, thường thích những món ngon vật lạ miệng.

 

4- Khi thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc giác,Người có tính-tham, mắtthích nhìn thấy những hình ảnh, cảnh vật xinh đẹp; tai thích nghe những âm thanh, tiếng hát hay; mủi thích ngửi những mùi hương thơm tho ngào ngạt; lưỡi thích nếm những vị ngon bổ; thân thích xúc giác chỗ êm ấm sang trọng,...

 Người có tính-tham say mê trong các đối-tượng tốt, khi đối-tượng tốt ấy không còn nữa, cảm thấy tiếc.

 

5- Các pháp thường ngày:Người có tính-tham thường phát sinh tâm tham được thể hiện là người xảo trá, người khoe khoang, người có ác tâm muốn làm ác, người muốn được người khác khen ngợi, tán dương ca tụng mình, người không hài lòng những gì mà mình đã có, … là người thích điểm trang những đồ trang sức quý giá, vv...

 

2- Người Có Tính-Tín (Saddhācarita)

 

Người có tính-tín (Saddhācarita) là người dễ phát sinh đức tin hơn các tính khác, thường hay phát sinh đức tin trở thành thói quen, nên gọi là là người có tính-tín. 

 
Người có tính-tín thường thể hiện ra 5 điều:
 

1- Các oai nghi, 2- Các công việc, 3- Các món ăn uống, 4- Khi thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc giác, … Người có tính-tín gần giống như người có tính-tham, nhưng chỉ có điều thứ 5 là các pháp thường ngày hoàn toàn khác hẳn với người có tính-tham như sau:

 
5- Các pháp thường ngày: Người có tính-tín hoàn toàn khác hẳn với người có tính tham.

Người có tính-tín là người trung thực, không xảo trá, không khoe khoang, v.v…

Người có tính-tín là người có đức tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, thích tạo mọi phước-thiện, hoan hỷ làm phước-thiện bố-thí, có giới đức trong sạch, mong gần gũi thân cận với bậc thiện trí, mong nghe chánh-pháp của bậc thiện trí, có thiện-tâm cung kính, lễ bái cúng dường cha mẹ, thầy tổ, tôn kính những bậc đáng tôn kính.

 
 3- Người Có Tính-Sân (Dosacarita)
 

Người có tính-sân (Dosacarita) là người dễ phát sinh tâm sân hơn các tâm khác, thường phát sinh tâm sân trở thành thói quen, nên gọi là người có tính-sân.

 

Người có tính-sân thường thể hiện ra 5 điều:

 

1- Các oai nghi: Người có tính-sân (dosacarita) trong 4 oai nghi như khi đi, bước đi nặng nề, dở bàn chân lên, rồi đạp bàn chân xuống mau lẹ, dáng đi vội vã; khi đứng, khi ngồi không nghiêm chỉnh; khi nằm, nằm trên chỗ không sắp đặt gọn gàng, thân hình nằm không đàng hoàng.

 

Khi bị đánh thức, vội vàng thức dậy, trả lời như người bực bội,…

 

Các oai nghi phụ cử động không đàng hoàng.

 

2- Các công việc: Người có tính-sân khi làm công việc đều vội vàng, dù có hoàn thành cũng không tốt đẹp.

 

3- Các món ăn uống: Người có tính-sân dùng món ăn cốt đỡ đói, no bụng là đủ. Món ăn có vị mặn, vị đắng, vị cay. Khi ngồi ăn không đàng hoàng, ăn miếng đồ ăn lớn, ăn uống vội vàng, khi gặp món ăn không thích dễ phát sinh tâm sân cau có.

 

4- Khi thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc giác, … Người có tính sân mắt nhìn thấy những hình ảnh xấu, cảnh vật xấu; tai nghe những âm thanh, tiếng hát không hay; mũi ngửi những mùi hôi hám; lưỡi nếm vị dở, thân xúc giác chỗ thô cứng, dù những đối-tượng ấy có xấu chút đỉnh, cũng phát sinh tâm sân bực bội.

 

Dù những đối-tượng ấy có phần tốt, cũng không quan tâm đến phần tốt ấy. Những đối-tượng ấy bị mất, cũng không luyến tiếc.

 

5- Các pháp thường ngày:Người có tính-sân thường phát sinh tâm sân được thể hiện là người hay giận hờn, người hay thù hận, hay quên ơn người khác, người có tính ganh tị tài đức của người khác. 

 

4- Người Có Tính-Giác (Bodhicarita)

 

Người có tính-giác (Bodhicarita) là người dễ phát sinh trí-tuệ hơn các tính khác, thường phát sinh trí-tuệ trở thành thói quen, nên gọi là là người có tính-giác. 

 
Người có tính giác thường thể hiện ra 5 điều:
 

1- Các oai nghi, 2- Các công việc, 3- Các món ăn uống, 4- Khi thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc giác,Người có tính-giác gần giống như người có tính-sân, nhưng chỉ có điều thứ 5 là Các pháp thường ngày hoàn toàn khác hẳn với người có tính sân như sau: 5- Các pháp thường ngày: Người có tính-giác hoàn toàn khác hẳn với người có tính-sân.

 

Người có tính-giác người có đức-tính nhẫn-nại, không hay giận-hờn, không hay thù-hận, v.v…

 

Người có tính-giác là người dễ dạy, khi nghe người nào chỉ dạy đúng theo chánh-pháp, dù người ấy không phải là thầy, cha mẹ, thân quyến, bạn hữu,… cũng biết cung kính nghe và thực-hành theo lời dạy của người ấy. 

 

Người có tính-giác là người biết tìm đến bậc thiện-trí làm bạn, mà không phân biệt dòng dõi, giai cấp, già trẻ, là người có trí-tuệ thấy rõ, biết rõ sự khổ sinh, lão, bệnh, tử, là người có sự tinh tấn trong mọi thiện-pháp, để làm duyên lành cho sự giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

 
 5- Người Có Tính-Si (Mohacarita)
 

Người có tính-si (Mohacarita) là người dễ phát sinh tâm si hơn các tâm khác, thường phát sinh tâm si trở thành thói quen, nên gọi là người có tính-si.

 
Người có tính si thường thể hiện ra 5 điều:
 

1- Các oai nghi: Người có tính-si (mohacarita) trong 4 oai nghi như khi đi, bước đi dáng đi thẩn thờ như người mất trí, dở bàn chân lên, rồi đạp bàn chân xuống nặng gót chân; khi đứng, khi ngồi nghĩ lung tung như người mất trí; khi nằm, nằm trên chỗ không sắp đặt gọn gàng, thân hình nằm co quắp, phần đông thích nằm sấp.

 

Khi bị đánh thức, thức dậy chậm chạp, ngái ngủ, hoặc có trạng-thái ngáp ngủ,…

Các oai nghi phụ khác cử động chậm chạp.

 

2- Các công việc: Người có tính-si khi làm công việc nào tầm thường không kỹ càng, hoặc bỏ dở công việc, dù có hoàn thành công việc cũng không đạt yêu cầu.

 

3- Các món ăn uống: Người có tính-si dùng món ăn có vị không chắc chắn. Khi ngồi ăn không đàng hoàng, ăn miếng đồ ăn nhỏ, đồ ăn rơi rớt ra ngoài, vừa ăn vừa phóng tâm chuyện này chuyện kia.

 

4- Khi thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc giác,Người có tính-si mắt nhìn thấy những hình ảnh đẹp hoặc xấu, cảnh vật đẹp hoặc xấu thế nào, cũng không biết. Nếu nghe người ta khen đẹp thì cũng khen đẹp theo, nếu nghe người ta chê xấu thì cũng chê xấu theo.

 

Cũng như vậy, khi tai nghe những âm thanh, khi mũi ngửi những mùi, khi lưỡi nếm vị, khi thân xúc giác chỗ cứng hoặc mềm, người có tính-si vẫn không nhận thức được tốt xấu. 

 

5- Các pháp thường ngày:Người có tính-si là người thường hay phát sinh tâm hoài-nghi các pháp, hoài-nghi nơi Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng, hoài-nghi nơi nghiệp và quả của nghiệp, là người thường hay nghĩ lung tung, phóng-tâm chuyện này, chuyện khác; là người thường hay buồn chán, buồn ngủ, hay có tính hối hận, đặc biệt là người khó dạy.

 

6- Người Có Tính-Suy-Diễn (Vitakkacarita)

 

Người có tính-suy-diễn (Vitakkacarita) là người dễ phát sinh tâm suy-diễn hơn các tính khác, thường suy- diễn trở thành thói quen, nên gọi là người có tính-suy- diễn. 

 

Người có tính-suy-diễn thường thể hiện ra 5 điều:

 

1- Các oai nghi, 2- Các công việc, 3- Các món ăn uống, 4- Khi thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc giác, … Người có tính-suy-diễn gần giống như người có tính-si, nhưng chỉ có điều thứ 5 là các pháp thường ngày hoàn toàn khác hẳn với người có tính si như sau:

 

5- Các pháp thường ngày: Người có tính-suy-diễn hoàn toàn khác hẳn với người có tính-si.

 

Người có tính-suy-diễn hay nói nhiều, hay phóng-tâm, nói lung tung, là người thích chung chạ nhiều người, không thích bố-thí, giữ-giới, hành-thiền, tâm tính hay thay đổi, không vững tâm, khi thế này thế khác, ban đêm nghĩ thế này, đến ban ngày thay đổi thế khác, không biết nhận thức đúng sai.

 

Người có tính-suy-diễn là người hay nghĩ lung tung không có cơ sở.

 

Hành-Giả Với Tính

 

Bộ Visuddhimagga: Thanh Tịnh Đạo cũng dạy rằng:

“Sự phân biệt hành-giả có tính nào do căn cứ vào 5 điều đã trình bày không có trong Tam-Tạng Pāḷi, cũng không có trong các bộ Chú-giải Pāḷi (neva Pāḷiyaṃ na Aṭṭhakathāyaṃ āgataṃ), mà đó chỉ là 5 điều dạy của bậc Tiền-bối phân biệt hành-giả thuộc tính nào, rồi truyền dạy đề-mục-thiền-định cho phù hợp với tính của hành-giả mà thôi.”  

 

Tuy nhiên, căn cứ vào 5 điều ấy chỉ hỗ trợ một phần để xác định hành-giả bình thường thuộc tính nào mà thôi, nhưng thật ra, mỗi hành-giả không những chỉ có 1 tính gốc căn bản, mà còn có 2, 3, 4 tính khác lẫn lộn với nhau, cho nên căn cứ vào 5 điều ấy, để xác định hành-giả thuộc về tính nào là chưa đủ.

 

Hơn nữa, nếu hành-giả vốn là bậc thiện-trí, dù có tính xấu cũng có thể chế ngự tính xấu ấy không cho phát sinh do trí-tuệ sắc bén của vị ấy.

 

Cho nên, để biết rõ tính của hành-giả không phải việc dễ dàng. Vậy, chỉ có bậc chứng-đắc tha-tâm-thông (cetopariyañāṇa) mới có khả năng biết chính xác được tính của hành-giả mà thôi.

 

Nguyên Nhân Của Mỗi Tính

 

Phàm sinh ra làm người giống nhau, mà mỗi người mỗi tính khác nhau, thậm chí anh em, chị em, sinh đôi cùng cha mẹ, nhưng tính cũng hoàn toàn khác nhau.

 

Vấn: Do nguyên nhân nào mà mỗi người có tính khác nhau như vậy?

 

Đáp: Theo Phật giáo, mỗi chúng-sinh đều do nghiệp riêng của họ (sabbe sattā kammassakā), thì mỗi người cũng có nghiệp riêng của mỗi người, cũng có quả của nghiệp riêng mỗi người, cho nên mỗi người có mỗi tính khác nhau.

 

Vấn: Do nguyên nhân nào mà mỗi người có tính khác nhau vậy?

 

Đáp: * Người nào khi tạo phước-thiện bố-thí, giữ- giới, thực-hành pháp-hành thiền, v.v…rồi phát sinh tâm tham-ái mong ước được giàu sang phú quý, danh thơm tiếng tốt, chức trọng quyền cao, quả báu cõi người, quả báu cõi trời,…

* Phát sinh tâm ngã-mạn tự cho mình cao thượng hơn người, hoặc bằng người, hoặc thấp hơn người,…,

 
* Phát sinh tâm tà-kiến  chấp ngã,…
 

Khi người ấy đã tạo phước-thiện ấy, rồi tâm tham-ái, tâm ngã-mạn, tâm tà-kiến phát sinh nương nhờ nơi phước-thiện ấy.

 

Đó là nguyên nhân mà người ấy trở thành người có tính-tham (rāgacarita).  

 

* Người nào khi tạo phước-thiện bố-thí, giữ giới, thực-hành pháp-hành thiền, rồi phát sinh tâm sân, hối tiếc, ganh tị, keo kiệt, bỏn xỉn, bực bội một điều nào đó. Phước-thiện ấy bị ô nhiễm bởi phiền-não tâm sân, hối tiếc, ganh tị, keo kiệt, bực bội, …

 Đó là nguyên nhân mà người ấy trở thành người có tính-sân (dosacarita).
 

* Người nào khi tạo phước-thiện bố-thí, giữ-giới mà không hiểu biết về phước-thiện của mình đã tạo, chỉ làm theo phong tục, theo người khác, hoặc phát sinh tâm hoài nghi trong sự bố-thí, sự giữ-giới, hoặc phát sinh phóng-tâm chuyện khác, không quan tâm hoan hỷ đến phước-thiện của mình đã tạo.

 

Đó là nguyên nhân mà người ấy trở thành người có tính-si (mohacarita).

 

* Người nào khi tạo phước-thiện bố-thí, giữ-giới, thực-hành pháp-hành-thiền-định, pháp-hành-thiền-tuệ, rồi phát sinh đức-tin trong sạch nơi nghiệp và quả của nghiệp, nơi Đức-Phật-Bảo, Đức-Pháp-Bảo, Đức-Tăng-Bảo, Tam-Bảo. 

 

Đó là nguyên nhân mà người ấy trở thành người có tính-tín (saddhācarita).      

 

* Người nào khi tạo phước-thiện bố-thí, giữ-giới, thực-hành pháp-hành-thiền-định, pháp-hành-thiền-tuệ, rồi phát sinh trí-tuệ biết rõ nghiệp là của riêng mình (kammassakatāñāṇa), trí-tuệ-thiền-tuệ (vipassanāñāṇa) thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh-pháp, sắc-pháp, thấy rõ, biết rõ trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã của danh-pháp, sắc-pháp,…

 

Đó là nguyên nhân mà người ấy trở thành người có tính-giác (buddhicarita)    

 

* Người nào khi tạo phước-thiện bố-thí, giữ-giới, thực-hành pháp-hành thiền, rồi phát sinh tâm tham nghĩ trong ngũ-dục (kāmavitakka) hoặc nghĩ đến làm khổ chúng-sinh khác (byāpādavitakka) hoặc nghĩ đến làm hại chúng-sinh khác ( vihiṃsāvitakka).

 

Đó là nguyên nhân mà người ấy trở thành người có tính-suy-diễn (vitakkacarita).

 

Tóm lại, mọi người có tính (carita) khác nhau: tính tốt, tính xấu đều do từ thiện-nghiệp đã tạo trong kiếp quá-khứ của họ, có liên quan đến thiện-tâm hoặc ác-tâm của họ suy nghĩ làm ảnh hưởng trực tiếp đến thiện-nghiệp ấy cho quả tái sinh làm người trong kiếp hiện-tại.

 

Đó là nguyên nhân khiến cho mọi người có các tính khác nhau.

 

Như vậy, nếu mỗi người muốn cho mình có tính-giác buddhicarita trong kiếp vị-lai, thì ngay trong kiếp hiện-tại khi tạo phước-thiện bố-thí, giữ-giới, thực-hành pháp-hành-thiền-định, pháp-hành-thiền-tuệ, nên có trí-tuệ thấy rõ, biết rõ nghiệp là của riêng mình, trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh-pháp, sắc-pháp; trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã, … 

 

 Đó là nguyên nhân mà người ấy trở thành người có tính-giác (buddhicarita) trong kiếp vị-lai.

 

Kiếp hiện-tại được sinh làm người, gặp được Phật- giáo đang còn tồn tại trên thế gian, đó thật là điều diễm phúc vô cùng hy hữu.

Vậy, chúng ta không nên bỏ lở cơ hội tốt, nên cố gắng tinh tấn tạo mọi thiện-pháp nhất là pháp-hành-thiền-tuệ, các pháp-hạnh Ba-la-mật cho sớm được đầy đủ, để mong giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

 

Tính Của Hành-Giả Với Đề-Mục-Thiền-Định.

 

Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định có 6 loại tính là: tính-tham, tính-sân, tính-si, tính-tín, tính-giác, tính-suy-diễn. Trong 6 loại tính này chia ra làm 2 loại:

1- Tính-tham, tính-sân, tính-si, tính-suy-diễn, 4 loại tính này thuộc loại tính xấu. Hành-giả có loại tính xấu nào cần phải biết tránh đề-mục-thiền-định nào không phù hợp với tính của mình, và biết chọn sử dụng đề-mục-thiền-định nào phù hợp với tính của mình, để cho pháp-hành-thiền-định được phát triển tốt dẫn đến chứng đắc các bậc thiền sắc-giới.

 

2- Tính-tín, tính-giác, 2 loại tính này thuộc loại tính tốt. Hành-giả có loại tính tốt này cần phải biết sử dụng đề-mục-thiền-định phù hợp với tính của mình, để cho pháp-hành-thiền-định được phát triển tốt dẫn đến chứng đắc các bậc thiền sắc-giới.

 
- Tính-tham (Rāgacarita):
 
* Hành-giả có tính-tham hài lòng trong các đối-tượng đáng hài lòng, nên tránh 8 đề-mục-thiền-định này:

- 4 đề-mục: Tứ vô lượng tâm,  

- 4 đề-mục màu sắc kasiṇa (màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng).

 

Nếu hành-giả có tính-tham mà sử dụng 8 đề-mục-thiền-định này làm đối-tượng để thực-hành pháp-hành-thiền-định thì tâm tham càng tăng trưởng, pháp-hành-thiền-định không thể phát triển.

 

Vì vậy, 8 đề-mục-thiền-định này không phù hợp đối với hành-giả có tính-tham.

 

* Hành-giả có tính-tham nên sử dụng 11 đề-mục-thiền-định này: 

 

- 10 đề-mục bất tịnh,  

- 1 đề-mục niệm 32 thể trọc (trược) trong thân. 

 

Nếu hành-giả có tính-tham sử dụng 11 đề-mục-thiền-định này làm đối-tượng để thực-hành pháp-hành-thiền-định thì chế ngự được tâm tham không cho phát sinh, pháp-hành-thiền-định được phát triển.

 

Vì vậy, 11 đề-mục-thiền-định này phù hợp đối với hành-giả có tính-tham.

 
- Tính-sân (Dosacarita):
 
* Hành-giả có tính-sân không hài lòng trong các đối-tượng không đáng hài lòng,nên tránh 11 đề-mục-thiền-định này:
 

- 10 đề-mục bất tịnh,  

- 1 đề-mục niệm 32 thể trược trong thân. 

 

Nếu hành-giả có tính-sân sử dụng 11 đề-mục-thiền-định này làm đối-tượng để thực-hành pháp-hành-thiền-định thì tâm sân càng tăng trưởng, pháp-hành-thiền-định không thể phát triển.

 

Vì vậy, 11 đề-mục-thiền-định này không phù hợp đối với hành-giả có tính-sân.

 

* Hành-giả có tính-sân nên sử dụng 8 đề-mục-thiền-định này: 

 
 - 4 đề-mục: Tứ vô lượng tâm,  

 - 4 đề-mục màu sắc kasiṇa (màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng).

 

Nếu hành-giả có tính-sân sử dụng 8 đề-mục-thiền-định này làm đối-tượng để thực-hành pháp-hành-thiền-định thì chế ngự được tâm sân không cho phát sinh, pháp-hành-thiền-định được phát triển.

 

Vì vậy, 8 đề-mục-thiền-định này phù hợp đối với hành-giả có tính sân. 

 

-Tính-si (Mohacarita) và Tính-suy-diễn (Vitakkacarita)

 

* Hành-giả có tính-si thường phát sinh tâm si không hiểu biết rõ các thật-tánh của các pháp, tâm hoài-nghi trong chánh-pháp, hay phóng-tâm nghĩ chuyện này chuyện kia, và hành-giả có tính-suy-diễn đủ điều, nói năng lung tung đủ chuyện, nên tránh 4 đề-mục-thiền-định này:

 

- Đề-mục niệm về sự chết,  

- Đề-mục niệm trạng-thái tịch tịnh an-lạc Niết-bàn,

- Đề-mục vật thực đáng ghê tởm,,

- Đề-mục phân tích tứ-đại.

 

Nếu hành-giả có tính-si và hành-giả có tính-suy-diễn mà sử dụng 4 đề-mục-thiền-định này làm đối-tượng để thực-hành pháp-hành-thiền-định thì tâm si càng thêm tối tăm, và tâm suy-diễn càng thêm phóng-tâm nhiều, pháp- hành-thiền-định không thể phát triển.

 

Vì vậy, 4 đề-mục-thiền-định này không phù hợp đối với hành-giả có tính-si và hành-giả có tính-suy-diễn.

 

* Hành-giả có tính-si và hành-giả có tính-suy-diễn nên sử dụng đề-mục niệm hơi thở vào, hơi thở ra rõ ràng không có gì đáng hoài-nghi.

 

Nếu hành-giả có tính-si và hành-giả có tính-suy-diễn sử dụng đề-mục-thiền-định niệm hơi thở vào, hơi thở ra này làm đối-tượng để thực-hành pháp-hành-thiền-định thì chế ngự được tâm-si hoặc tâm suy-diễn không phát sinh, pháp-hành-thiền-định được phát triển.

 

Vì vậy, đề-mục-thiền-định niệm hơi thở vào, hơi thở ra này phù hợp đối với hành-giả có tính-si và hành-giả có tính-suy-diễn. 

 
- Tính-tín (Saddhācarita):
 

* Hành-giả có tính-tín thường có đức tin trong sạch nơi Đức-Phật-Bảo, Đức-Pháp-Bảo, Đức-Tăng-Bảo, có giới trong sạch, tin nghiệp và quả của nghiệp, nên phù hợp với 6 đề-mục-thiền-định này:

 

1- Đề-mục niệm-niệm 9 Ân-Đức-Phật,  

2- Đề-mục niệm-niệm 6 Ân-Đức-Pháp, 

3- Đề-mục niệm-niệm 9 Ân-đức-Tăng, 

4- Đề-mục niệm-niệm về giới trong sạch của mình,   

5- Đề-mục niệm-niệm về sự bố-thí của mình,   

6- Đề-mục niệm-niệm về 5 pháp chư-thiên có nơi mình.

 

Nếu hành-giả có tính-tín sử dụng 6 đề-mục-thiền-định này làm đối-tượng để thực-hành pháp-hành-thiền-định thì đức tin càng thêm tăng trưởng, nên pháp-hành-thiền-định được phát triển.

 

Vì vậy, 6 đề-mục-thiền-định này phù hợp đối với hành-giả có tính-tín.

 

 - Tính giác (Bodhicarita):

 

* Hành-giả có tính-giác có trí-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của các pháp, trí-tuệ có khả năng hiểu biết rõ các pháp vi tế, nên phù hợp với 4 đề-mục-thiền-định này:

 
- Đề-mục niệm về sự chết,

- Đề-mục niệm về trạng-thái tịch tịnh an-lạc Niết-bàn, 

- Đề-mục vật thực đáng ghê tởm,

- Đề-mục phân tích tứ-đại.

 

Nếu hành-giả có tính-giác sử dụng 4 đề-mục-thiền-định này làm đối-tượng để thực-hành pháp-hành-thiền-định thì trí-tuệ càng thêm tăng trưởng, nên pháp-hành-thiền-định được phát triển.

 

Vì vậy, 4 đề-mục-thiền-định này phù hợp đối với hành-giả có tính-giác.

 

6 Tính Đều Phù Hợp Các Đề-Mục-Thiền-Định

 

Hành-giả có bất cứ tính nào trong 6 tính cũng đều phù hợp với 10 đề-mục-thiền-định này là:

- 4 đề-mục kasiṇa đất, nước, lửa, gió,

- Đề-mục hư không ākāsakasiṇa, 

- Đề-mục ánh sáng ālokakasiṇa, 

- 4 đề-mục thiền-vô-sắc. 

 

Hành-giả có bất cứ tính nào đều có thể sử dụng 10 đề-mục-thiền-định này làm đối-tượng, để thực-hành pháp-hành-thiền-định đều có thể chế ngự được mọi phiền-não bậc trung là 5 pháp-chướng-ngại (nīvaraṇa), chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền vô-sắc-giới.

 

Đặc biệt, đối với hành-giả có tính-si, nếu sử dụng đề- mục-thiền-định đất (pathavīkasiṇa)…. làm đối-tượng, để thực-hành pháp-hành-thiền-định thì nên làm đề-mục đấtđường kính lớn rộng hơn bình thường, làm cho tâm trí hành-giả không cảm thấy khó chịu, để cho định-tâm an trú trong đề-mục-thiền-định đất  được dễ dàng.

 

Và đối với hành-giả có tính-suy-diễn, nếu sử dụng đề-mục-thiền-định đất (pathavīkasiṇa)…. làm đối-tượng, để thực-hành pháp-hành-thiền-định thì nên làm đề-mục-thiền-định đất đường kính nhỏ hẹp hơn bình thường, làm cho tâm trí hành-giả không phóng-tâm nghĩ ngợi, để cho định-tâm an trú trong đề-mục-thiền-định đất dễ dàng.

 

Đối với hành-giả có tính-tham, tính-sân, tính-tín, tính-giác, nếu sử dụng đề-mục-thiền-định đất làm đối-tượng, để thực-hành pháp-hành-thiền-định thì nên làm đề-mục-thiền-định đất…. đường kính trung bình 1 gang và 4 lóng tay nằm ngang để cho định-tâm an trú trong đề-mục-thiền-định đất được dễ dàng.

 

Tóm lại, sự phân loại đề-mục-thiền-định phù hợp với tính của mỗi hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định như đã trình bày, chỉ cốt yếu cho hành-giả hiểu biết đề-mục-thiền-định nào phù hợp với tính nào và không phù hợp với tính nào mà thôi. Nếu hành-giả có tính xấu nào thì nên sử dụng đề-mục-thiền-định chế ngự được tính xấu ấy của mình, để cho pháp-hành-thiền-định được dễ dàng phát triển.

 

Nếu hành-giả có tính tốt nào thì nên sử dụng đề-mục-thiền-định phù hợp với tính tốt ấy của mình, để cho pháp-hành-thiền-định được dễ dàng tăng trưởng. 

 

Thật ra, trong 40 đề-mục-thiền-định, đề-mục nào cũng có khả năng chế ngự được tính xấutính-tham, tính- sân, tính-si, tính-suy-diễn được, và hỗ trợ tính tốttính- tín, tính-giác thực-hành pháp-hành-thiền-định được phát triển và thêm tăng trưởng.

 

Phân Loại 40 Đề-Mục-Thiền-Định Theo Cõi (Bhūmi)

 

40 đề-mục-thiền-định phân loại theo các cõi như sau:

 

* Trong cõi người, có đủ 40 đề-mục-thiền-định.

 

* Trong 6 cõi trời dục-giới, có 28 đề-mục-thiền-định, (trừ 10 đề-mục asubha + 1 đề-mục kāyagatāsati + 1 đề-mục āhārepaṭikūlasaññā), bởi vì, chư-thiên chết rồi, sắc-thân tiêu mất ví như ngọn đèn tắt; sắc-thân của chư-thiên có tóc, lông, móng, v.v… thật là xinh đẹp, nên không thấy đáng ghê tởm gì cả; vật thực của chư-thiên phát sinh do phước-thiện, không vất vả tìm kiếm, khi hưởng xong, không có thải ra chất dơ.

 

Vì vậy, 12 đề-mục-thiền-định này không có trong cõi trời dục-giới.

Tuy nhiên, một số chư-thiên trong cõi trời tứ-Đại- thiên-vương bậc thấp (bhūmadevatā) sống cùng chung trong cõi người, hạng chư-thiên này sau khi chết cũng để lại tử-thi; sắc-thân, vật-thực cũng là đáng ghê tởm như loài người.

 

* Trong 15 cõi trời sắc-giới Phạm-thiên, có 27 đề-mục-thiền-định, (trừ 10 đề-mục asubha +1 đề-mục kāya-gatāsati + 1 đề-mục anāpānassati + 1 đề-mục āhāre-paṭikūlasaññā), bởi vì, 10 đề-mục asubha + 1 đề-mục kāyagatāsati giống như 5 cõi trời dục-giới tầng cao; chư phạm-thiên trong cõi trời sắc-giới không có hơi thở vào-hơi thở ra; không hưởng vật thực. 

 

Vì vậy, 13 đề-mục-thiền-định này không có trong 15 cõi trời sắc-giới Phạm-thiên.

 

* Trong 4 cõi trời vô-sắc-giới phạm-thiên như sau:

 

1- Tầng thứ nhất cõi trời vô-sắc-giới Phạm-thiên, có đủ 4 đề-mục-thiền-vô-sắc-giới.

 

2- Tầng thứ nhì cõi trời vô-sắc-giới phạm-thiên, chỉ có 3 đề-mục-thiền-vô-sắc-giới mà thôi. (trừ đề-mục ākāsapaññatti).

 

3- Tầng thứ ba cõi trời vô-sắc-giới phạm-thiên, chỉ có 2 đề-mục-thiền-vô-sắc-giới mà thôi. (trừ đề-mục ākāsa-paññatti và đề-mục ākāsanañcāyatanakusalacitta).

 

4- Tầng thứ tư cõi trời vô-sắc-giới phạm-thiên, chỉ có 1 đề-mục-thiền-vô-sắc-giới là ākiñcaññāyatanakusala-citta mà thôi.

 

40 Đề-Mục-Thiền-Định Phân Loại Theo 

Paññattidhamma Và Paramatthadhamma

 

40 đề-mục-thiền-định này phân loại theo chế-định-pháp (paññattidhamma) và chân-nghĩa-pháp (paramattha-dhamma) như sau:  

 

* Paññattidhamma (chế-định-pháp) có 28 đề-mục:

 

- 10 đề-mục kasiṇa

 

- 10 đề-mục asubha

 

- 1 đề-mục koṭṭhāsapaññatti là đối-tượng của đề-mục kāyagatāsati,

 

- 1 đề-mục assāsapassāsapaññatti là đối-tượng của đề-mục ānāpānassati,

 

- 4 đề-mục sattapaññatti là 4 đối-tượng của đề-mục appamaññā,

 

- 1 đề-mục ākāsapaññatti là đối-tượng của đệ nhất thiền vô-sắc-giới, ākāsanancāyatanakusalacitta,        

 

- 1 đề-mục natthibhāvapaññatti là đối-tượng của đệ tam thiền vô-sắc-giới, ākiñcaññāyatanakusalacitta.

 

* Paramatthadhamma có 12 đề-mục:

 

- 8 Đề-mục anussati (trừ đề-mục kāyagatāsati + đề-mục ānāpānassati)

 

- 1 Đề-mục āhārepaṭikūlasaññā,

 

- 1 Đề-mục catudhātuvavatthāna

 

- 1 Đề-mục ākāsanancāyatanakusalacitta là đối-tượng của đệ nhị thiền vô-sắc-giới, viññānañcāyatanakusalacitta,

 

- 1 Đề-mục ākiñcaññāyatanakusalacitta là đối-tượng của đệ tứ thiền vô-sắc-giới, nevasaññānāsaññāyatana-kusalacitta.

 

40 Đề-Mục-Thiền-Định Theo 3 Nimitta

 

40 đề-mục-thiền-định phân loại theo 3 loại nimitta như sau: 

 

1- Parikammanimitta: Đối-tượng đề-mục-thiền-định ban đầu thực-hành pháp-hành-thiền-định,

 

2- Uggahanimitta: Đối-tượng thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định phát sinh rõ ràng trong tâm,

 

3- Paṭibhāganimitta: Đối-tượng quang-ảnh-trong-sáng phát sinh rõ ràng trong tâm.

 
40 đề-mục-thiền-định phân loại theo nimitta:
 

* Parikammanimitta và Uggahanimitta trực tiếp có 22 đề-mục-thiền-định: 

 

- 4 đề-mục tứ-đại kasiṇa,

- 4 đề-mục màu sắc vaṇṇakasiṇa,

- 1 đề-mục Ākāsakasiṇa,

- 1 đề-mục Ālokakasiṇa,

- 10 đề-mục asubha,

- 1 đề-mục Kāyagatāsati,

- 1 đề-mục Ānāpānassati.

 

* Parikammanimitta và Uggahanimitta gián tiếp có 18 đề-mục-thiền-định:

 

- 6 đề-mục anussati,

- 1 đề-mục upasamānussati,

- 1 đề-mục maraṇānussati,

- 4 đề-mục tứ vô-lượng-tâm,

- 1 đề-mục āhārepaṭikkūlasaññā,

- 1 đề-mục catudhātuvavatthāna,

- 4 đề-mục thiền vô-sắc-giới.

 

* Paṭibhāganimitta trực tiếp có 22 đề-mục-thiền-định như Parikammanimitta và Uggahanimitta.

 

* Paṭibhāganimitta gián tiếp có 8 đề-mục-thiền-định:

- 4 đề-mục tứ vô-lượng-tâm,

- 4 đề-mục thiền vô-sắc-giới.

 
* Paṭibhāganimitta gồm có 30 đề-mục-thiền-định.
 

40 Đề-Mục-Thiền-Định Theo 3 Bhāvanā, 3 Samādhi

 

40 đề-mục-thiền-định phân loại theo khả năng tiến triển đến bhāvanā, samādhi như sau:

 
Bhāvanā có 3 loại:

1- Parikammabhāvanā: Tâm sơ-hành giai đoạn đầu với dục-giới đại-thiện-tâm có đối-tượng parikammanimitta, parikammasamādhi:tâm sơ-định trong dục-giới đại-thiện-tâm ấy. 

 

2- Upacārabhāvanā: Tâm cận-hành giai đoạn giữa với dục-giới đại-thiện-tâm có đối-tượng uggahanimitta gần bậc thiền, đạt đến upacārasamādhi:tâm cận-định trong dục-giới đại-thiện-tâm ấy. 

 

3- Appanābhāvanā: Tâm an-hành giai đoạn cuối với sắc-giới-tâm hoặc vô-sắc-giới-tâm có đối-tượng paṭi-bhāganimitta, chứng đắc bậc thiền sắc-giới hoặc vô-sắc-giới, đạt đến appanāsamādhi: tâm an-định trong bậc thiền sắc-giới-thiện-tâm hoặc bậc thiền vô-sắc-giới- thiện-tâm ấy. 

 

1- Parikammabhāvanā, Parikammasamādhi

 

* Tất cả 40 đề-mục-thiền-định đều có parikamma- bhāvanā: Tâm sơ-hành giai đoạn đầu với dục-giới đại-thiện-tâm 40 đối-tượng parikammanimitta, có parikam-

masamādhi: tâm sơ-định.

 

Nếu không có parikammabhāvanā thì không có upacārabhāvanā appanābhāvanā.

 

2- Upacārabhāvanā, Upacārasamādhi

 
Trong 40 đề-mục-thiền-định, có 10 đề-mục-thiền-định 

tiến triển đến upacārabhāvanā: tâm cận-hành giai đoạn giữa với dục-giới đại-thiện-tâm có 10 đối-tượng uggaha-nimitta gián tiếp, đạt đến upacārasamādhi: tâm cận-định, có 10 đề-mục-thiền-định là:

 

1- Đề-mục niệm-niệm 9 Ân-Đức-Phật (Buddhānussati),

 

2- Đề-mục niệm-niệm 6 Ân-Đức-Pháp (Dhammānussati),

 

3- Đề-mục niệm-niệm 9 Ân-Đức-Tăng (Saṃghānussati)

 

4- Đề-mục niệm-niệm về giới trong sạch của mình (Sīlānussati) 

 

5- Đề-mục niệm-niệm về sự bố-thí của mình (Cāgānussati),

 

6- Đề-mục niệm-niệm về 5 pháp Chư-thiên có nơi mình (Devatānussati)

 

7- Đề-mục niêm-niệm về trạng-thái tịch tịnh an-lạc Niết-bàn (Upasamānussati),

 

8- Đề-mục niệm-niệm về sự chết (Maraṇānussati),

 

9- Đề-mục vật thực đáng ghê tởm (Āhārepaṭikkūlasaññā),

 

10- Đề-mục phân tích tứ-đại (catudhātuvavatthāna).

 

 Bởi vì 10 đề-mục-thiền-định này là những đề-mục-thiền-định vô cùng vi tế, vô cùng sâu sắc, rộng lớn mênh mông bao la, nên định-tâm không thể an-trú trong một đối-tượng nào nhất định. Cho nên, 10 đề-mục-thiền-định này chỉ có khả năng tiến triển đến upacārabhāvanā: tâm cận-hành giai đoạn giữa với dục-giới đại-thiện-tâm,     đạt đến upcārasamādhi: tâm cận-định thôi. 

 

3- Appanābhāvanā,  Appanāsamādhi

 

* 30 đề-mục-thiền-định còn lại là 10 đề-mục-thiền-định (kasiṇa), 10 đề-mục-thiền-định tử-thi (asubha), 1 đề-mục-thiền-định niệm 32 thể trọc trong thân (kāya-gatāsati), 1 đề-mục-thiền-định hơi thở vào, hơi thở ra (ānāpānassati), 4 đề-mục-thiền-định tứ vô-lượng-tâm (appamaññā), 4 đề-mục-thiền-định vô-sắc-giới (āruppa) gồm 30 đề-mục-thiền-định này đều có khả năng tiến triển đến appanābhāvanā: tâm an-hành giai đoạn cuối với sắc-giới-tâm, hoặc vô-sắc-giới-tâm, 30 đối-tượng paṭibhāga-nimitta, đạt đến appanāsamādhi: tâm an-định chứng đắc bậc thiền sắc-giới-tâm hoặc bậc thiền vô-sắc-giới-tâm.

Chứng đắc bậc thiền sắc-giới-tâm nào hoặc bậc thiền vô-sắc-giới-tâm nào, tùy theo mỗi đề-mục-thiền-định ấy.

 

30 Đề-Mục-Thiền-Định Phân Loại Theo Bậc Thiền

 

Trong 30 đề-mục-thiền-định này là 10 đề-mục hình tròn (kasiṇa), 10 đề-mục tử-thi (asubha), 1 đề-mục niệm 32 thể trọc (trược) trong thân (kāyagatāsati), 1 đề-mục hơi thở vào - hơi thở ra (ānāpānassati), 4 đề-mục tứ vô- lượng-tâm (appamaññā), 4 đề-mục vô-sắc-giới (āruppa) mà mỗi đề-mục-thiền-định này có khả năng dẫn đến chứng đắc bậc thiền sắc-giới, bậc thiền vô-sắc-giới khác nhau như sau: 

 

Đệ Nhất Thiền Sắc-giới

 

* 11 đề-mục-thiền-định là 10 đề-mục-thiền-định tử-thi (asubha), 1 đề-mục niệm 32 thể trược trong thân (kāya-gatāsati) chỉ có khả năng chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới-tâm mà thôi.

 

Nếu hành-giả chọn 1 trong 11 đề-mục-thiền-định này làm đối-tượng để thực-hành pháp-hành-thiền-định thì đề-mục-thiền-định ấy chỉ có khả năng dẫn đến chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới-tâm mà thôi, bởi vì 11 đề-mục-thiền-định này là đối-tượng thô, nên luôn luôn cần phải nương nhờ chi-thiền hướng-tâm (vitakka) đến đề-mục-thiền-định ấy mới có thể chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới-tâm được. Còn từ đệ nhị thiền sắc-giới-tâm trở lên không có chi-thiền hướng-tâm (vitakka) nữa.

 

Vì vậy, 11 đề-mục-thiền-định này chỉ có thể chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới-tâm mà thôi.

 
 
 

4 Thiền Sắc-Giới Bậc Thấp

 

* 3 đề-mục-thiền-định là niệm rải tâm-từ (mettā), niệm rải tâm-bi (karuṇā), niệm rải tâm-hỷ (muditā) đến chúng-sinh vô lượng có khả năng dẫn đến chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc-giới-tâm cho đến đệ tứ thiền sắc-giới-tâm mà thôi. 

 

Nếu hành-giả chọn 1 trong 3 đề-mục-thiền-định vô- lượng-tâm này làm đối-tượng để thực-hành pháp-hành-thiền-định thì đề-mục-thiền-định vô-lượng-tâm ấy chỉ có khả năng dẫn đến chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc-giới-tâm cho đến đệ tứ thiền sắc-giới-tâm mà thôi, không thể chứngđắc đến đệ ngũ thiền sắc-giới-tâm được, bởi vì3 đề-mục-thiền-định vô-lượng-tâm này luôn luôn cần phải chi-thiền lạc (sukha), mà đệ ngũ thiền sắc-giới-tâm cần phải có chi-thiền xả (upekkhā) thay thế cho chi-thiền lạc.

Cho nên, muốn chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới-tâm, hành-giả cần phải thay đổi sang đề-mục vô-lượng-tâm niệm rải tâm-xả (upekkhā) đến chúng-sinh vô lượng mà thôi, không thể có đề-mục-thiền-định nào khác. 

 

Đệ Ngũ Thiền Sắc-giới

 

Đề-mục-thiền-định niệm rải tâm-xả (upekkhā) đến chúng-sinh vô lượng majjhattasattapaññatti không thương không ghét này chỉ có khả năng chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới-tâm mà thôi, nên đề-mục-thiền-định này hành-giả không thể sử dụng bắt đầu thực-hành, mà chỉ sử dụng sau khi đã chứng đắc đệ tứ thiền sắc-giới-tâm của 1 trong 3 đề-mục-thiền-định là niệm rải tâm-từ (mettā), hoặc niệm rải tâm-bi (karuṇā), hoặc niệm rải tâm-hỷ (muditā) đến chúng-sinh vô lượng mà thôi, bởi vì 4 đề-mục-thiền-định tứ vô-lượng-tâm này cùng có đối-tượng chúng-sinh (sattapaññatti) giống nhau, chỉ có khác loại chúng-sinh mà thôi.

 
5 Bậc Thiền Sắc-giới
 

* 11 đề-mục-thiền-định là 10 đề-mục-thiền-định (kasiṇa)đề-mục-thiền-định hơi thở vào - hơi thở ra (ānāpānassati) có khả năng dẫn đến chứng đắc đầy đủ 5 bậc thiền sắc-giới-tâm.

 

Nếu hành-giả chọn 1 trong 11 đề-mục-thiền-định này làm đối-tượng để thực-hành pháp-hành-thiền-định thì đề-mục-thiền-định ấy đều có khả năng dẫn đến chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc-giới-tâm cho đến đệ ngũ thiền sắc-giới-tâm mà không cần phải thay đổi đề-mục-thiền-định khác.

 
4 Bậc Thiền Vô-sắc-giới  
 

Sau khi đã chứng đắc đầy đủ 5 bậc thiền sắc-giới-tâm, hành-giả muốn tiếp tục thực-hành pháp-hành-thiền-định, để chứng đắc 4 bậc thiền vô-sắc-giới-tâm.

 

Mỗi đề-mục-thiền-định vô-sắc-giới chỉ có khả năng chứng đắc mỗi bậc thiền vô-sắc-giới-tâm riêng biệt mà thôi như sau:

 

1- Đề-mục-thiền-định vô-sắc-giới thứ nhất là đề-mục ākāsapaññatti chỉ dấn đến chứng đắc đệ nhất thiền vô-sắc-giới-tâm gọi là ākāsānañcāyatanakusalacitta: không-vô-biên-xứ thiện-tâm mà thôi.

 

2- Đề-mục-thiền-định vô-sắc-giới thứ nhì là đề-mục ākāsānañcāyatanakusalacitta chỉ dẫn đến chứng đắc đệ nhị thiền vô-sắc-giới-tâm gọi là viññāṇañcāyatanakusala-citta: thức-vô-biên-xứ thiện-tâm mà thôi.

 

3- Đề-mục-thiền-định vô-sắc-giới thứ ba là đề-mục natthibhāvapaññatti chỉ dẫn đến chứng đắc đệ tam thiền vô-sắc-giới-tâm gọi là ākiñcaññāyatanakusalacitta: vô-sở-hữu-xứ thiện-tâm mà thôi.

 

4- Đề-mục-thiền-định vô-sắc-giới thứ tư là đề-mục ākiñcaññāyatanakusalacitta chỉ dẫn đến chứng đắc đệ tứ thiền vô-sắc-giới gọi là nevasaññānāsaññāyatanakusala-citta: phi-tưởng-phi-phi-tưởng xứ thiện-tâm mà thôi.

 

Đó là 4 đề-mục-thiền-định vô-sắc-giới mà mỗi đề-mục riêng biệt làm đối-tượng có khả năng dẫn đến chứng đắc mỗi bậc thiền vô-sắc-giới-tâm riêng biệt. 

 

Như vậy, pháp-hành-thiền-định có 40 đề-mục-thiền-định chia ra làm 3 loại:

 

1- Đề-mục-thiền-định dẫn đến cận-định (upacāra-samādhi) có 10 đề-mục, vẫn còn dục-giới đại-thiện-tâm.

 

2- Đề-mục-thiền-định dẫn đến an-định (appanā-samādhi) có 26 đề-mục, chứng đắc các bậc thiền sắc-giới-tâm.

 

3- Đề-mục-thiền-định vô-sắc-giới dẫn đến an-định (appanāsamādhi) có 4 đề-mục vô-sắc chứng đắc 4 bậc thiền vô-sắc-giới-tâm. 

 
Abhiñña: Phép-Thần-Thông
 
Abhiññā nghĩa là gì?
 

Định nghĩa: “Visesato jānātīti abhiññā”

Trí-tuệ nào biết 6 đối-tượng đặc biệt, trí-tuệ ấy gọi là abhiññā. Trí-tuệ abhiññā này đồng sinh với đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm hoặc duy-tác-tâm (tâm của bậc Thánh-A-ra-hán), có khả năng biết đặc biệt rất phi thường do năng lực của thiền-định, còn gọi là abhiññā-citta: tâm thần-thông, bởi vì, đệ ngũ thiền sắc-giới-tâm này phát sinh cùng với abhiññā.

 

Bình thường đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm hoặc duy-tác-tâm của 12 đề-mục-thiền-định: 10 đề-mục-thiền-định kasiṇa, đề-mục-thiền-định ānāpānassati, đề-mục-thiền-định niệm rải tâm-xả chỉ có đối-tượng chắc chắn là paññatti-dhamma: đối-tượng pháp-chế-định mà thôi, nhưng đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm hoặc duy-tác-tâm này phát sinh cùng với abhiññācitta có khả năng đặc biệt biết được 6 đối-tượng gồm cả chế-định-pháp và chân-nghĩa-pháp.

 

Đề-Mục-Thiền-Định Luyện Tập Abhiññā

 

Trong các đề-mục-thiền-định, chỉ có 10 đề-mục-thiền-định kasiṇa sử dụng luyện tập các phép abhiññā được mà thôi, do 2 nguyên nhân:

 

1- Năng lực của 10 đề-mục-thiền-định kasiṇa:  Định-tâm trong đệ ngũ thiền sắc-giới-tâm của 10 đề-mục-thiền-định kasiṇa có nhiều năng lực hơn các đề-mục-thiền-định khác.

 

2- Cửu bậc thiền: Theo bình thường muốn chứng đắc các phép-thần-thông abhiññā, hành-giả cần phải chứng đắc đầy đủ 9 bậc thiền là 5 bậc thiền sắc-giới và 4 bậc thiền vô-sắc-giới.

 

* Năng Lực Của 10 Đề-Mục-Thiền-Định Kasiṇa

 

1-  Năng Lực Của Đề-Mục-Thiền-Định Pathavīkasiṇa

 

- Một người hóa ra trở thành hằng trăm, hằng ngàn người hành động khác nhau,

- Chính mình hóa ra trở thành long vương, điểu vương,

- Làm cho hư không, sông, biển trở thành mặt đất, để  đi, đứng, ngồi, nằm được,

- Hóa ra cây cối, lâu đài, nhà cửa, chùa tháp, các đồ vật khác nhau theo ý của mình,

- Làm vật nhẹ trở thành vật nặng,

- Làm cho đồ vật ấy đứng vững chắc, không thể di  chuyển được, v.v…

- Có khả năng chế ngự được nghịch pháp, và các đối tượng tốt, xấu hiện ra trong tâm, v.v…

 

2-  Năng Lực Của Đề-Mục-Thiền-Định Āpokasiṇa

 

- Độn thổ, chui xuống đất như lặn xuống nước, rồi trồi lên mặt đất,

- Làm mưa rơi xuống đất,

- Làm mặt đất trở thành sông, hồ, biển,

- Làm nước trở thành sữa, mật ong, dầu ăn,

- Làm cho dòng nước phun ra từ thân của mình,

- Làm cho núi non, lâu đài chuyển động, v.v…

 
3- Năng Lực Của Đề-Mục-Thiền-Định Tejokasiṇa:
 

- Làm ngọn lửa phát ra từ thân của mình hoặc từ vật,

- Làm khói phủ bao bọc thân thể không ai thấy,

- Làm cho mưa lửa rơi từ hư không,

- Dòng lửa phát sinh từ phép-thần-thông của mình, diệt lửa phát sinh từ phép-thần-thông của người khác,

- Có thể thiêu đốt xóm làng, các đồ vật được,

- Làm cho tejodhātu phát sinh thiêu thi thể của bậc Thánh-A-ra-hán lúc tịch diệt Niết-bàn,

- Làm ánh sáng phát sinh, để nhìn thấy rõ mọi vật bằng thiên-nhãn-thông, v.v…

 
4- Năng Lực Của Đề-Mục-Thiền-Định Vāyokasiṇa
 

- Bay trên hư không được,

- Có khả năng đi đến nơi chốn mà mình cần đến một cách nhanh chóng nhất,

- Làm vật nặng trở thành vật nhẹ,

- Làm cho bão lớn phát sinh, v.v…

 
5- Năng Lực Của Đề-Mục-Thiền-Định Nīlakasiṇa
 

- Làm đồ vật, đồ dùng hóa thành màu xanh,

- Làm sắt, đồng, … hóa thành ngọc bích,

- Làm cho tối mù phát sinh bất cứ lúc nào,

- Có khả năng chế ngự được nghịch pháp, và các đối tượng tốt, xấu hiện ra trong tâm,

- Làm cho chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn được thuận lợi, v.v…
 
6- Năng Lực Của Đề-Mục-Thiền-Định Pītakasiṇa
 

- Làm đồ vật, đồ dùng hóa thành màu vàng,

- Làm sắt, đồng, … hóa thành vàng,

- Có khả năng chế ngự được nghịch pháp, và các đối tượng tốt xấu hiện ra trong tâm,

- Làm cho chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn  được thuận lợi, v.v…

 
7- Năng Lực Của Đề-Mục-Thiền-Định Lohitakasiṇa
 

-Làm đồ vật, đồ dùng hóa thành màu đỏ,

- Làm sắt, đồng, … hóa thành hồng ngọc ,

- Có khả năng chế ngự được nghịch pháp, và các đối tượng tốt, xấu hiện ra trong tâm,

- Làm cho chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn được thuận lợi, v.v…
8- Năng Lực Của Đề-Mục-Thiền-Định Odātakasiṇa
 

-Làm đồ vật, đồ dùng hóa thành màu trắng,

- Làm sắt, đồng, … hóa thành bạc,

- Chế ngự được tâm buồn chán, buồn ngủ,

- Diệt sự tối tăm, làm cho ánh sáng phát sinh, để nhìn thấy rõ mọi vật bằng thiên-nhãn-thông, v.v…. 

 
9- Năng Lực Của Đề-Mục-Thiền-Định Ālokakasiṇa
 

- Làm đồ vật, đồ dùng phát ra ánh sáng,

- Làm cho thân thể phát ra ánh sáng hào quang,

- Hóa ra hình dáng khác nhau có ánh sáng chói lọi,

- Chế ngự được tâm buồn chán, buồn ngủ,

- Diệt sự tối tăm, làm cho ánh sáng phát sinh, để nhìn thấy rõ mọi vật bằng thiên-nhãn-thông, v.v… 

 

Trong bộ Visudhimagga aṭṭhakathā giảng giải rằng: 3 đề-mục-thiền-định kasiṇa là tejokasiṇa, odātakasiṇa, ālokakasiṇa có khả năng làm cho ánh sáng phát sinh, để thấy rõ mọi vật bằng thiên-nhãn-thông, thì đề-mục-thiền-định ālokakasiṇa là đề-mục đặc biệt hơn cả 2 đề-mục-thiền-định kia.”

 
10- Năng Lực Của Đề-Mục-Thiền-Định Ākāsakasiṇa
 

- Làm hiện rõ vật bị che giấu kín đáo được thấy rõ,

- Làm đường hầm ngầm dưới mặt đất, xuyên qua núi, băng qua trong đại dương, để có thể đi lại tự nhiên, 

- Có khả năng ra vào, đi lại ngang qua tường thành, vách, núi như đi nơi khoảng trống không, v.v…

 

Những năng lực đặc biệt của riêng mỗi đề-mục-thiền-định kasiṇa như vậy, còn năng lực phát sinh từ 10 đề-mục thiền-định kasiṇa là:

- Làm che giấu các vật khác, không cho ai thấy được,

- Làm hiện rõ cảnh từ xa, để mọi người nhìn thấy đượ

- Làm vật nhỏ trở thành vật lớn,

- Làm vật lớn trở thành vật nhỏ,

- Làm một đoạn đường gần trở thành con đường xa,

- Làm con đường xa trở thành một đoạn đường gần.

- Biến hoá theo ý của mình, v.v…

 

2- Cửu Bậc Thiền:

 

Theo bình thường muốn chứng đắc các phép-thần-thông abhiññā, hành-giả cần phải chứng đắc đầy đủ 9 bậc thiền là 5 bậc thiền sắc-giới và 4 bậc thiền vô-sắc-giới.

 

Nếu tiền kiếp của hành-giả gần kiếp hiện-tại đã từng chứng đắc các phép-thần-thông abhiññā thì kiếp hiện-tại chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới cũng có thể chứng đắc phép-thần-thông abhiññā được.

 

Không Đủ 9 Bậc Thiền, Chứng Đắc Phép Abhiññā

 

Hành-giả dù không chứng đắc đủ 9 bậc thiền, cũng có khả năng chứng đắc phép-thần-thông abhiññā do nhờ năng lực của các pháp hạnh Ba-la-mật đã tích lũy từ những tiền kiếp, có 2 nhóm:

 

1- Puthujjanajjhānalābhī: Hạng phàm-nhân chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới.

2- Ariyapuggala: Bậc Thánh-nhân chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới.

 

* Hành-giả là hạng phàm-nhân mà tiền kiếp đã từng chứng đắc các phép-thần-thông (abhiññā) gần kiếp hiện-tại này, khi thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định kasiṇa nào dẫn đến chứng đắc được 5 bậc thiền sắc-giới-tâm, dù chưa chứng đắc 4 bậc thiền vô-sắc-giới, hành-giả cũng có khả năng chứng đắc các phép-thần-thông (abhiññā) được.

 

Ví dụ: 24.000 vị đạo sĩ là đệ tử của vị Đạo sư Suruci (tiền kiếp của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta), thực-hành đề-mục-thiền-định kasiṇa dẫn đến chứng đắc đủ 5 bậc thiền sắc-giới, rồi chứng đắc các các phép thần-thông (abhiññā), bởi vì, tiền kiếp gần kiếp hiện-tại của các vị đạo sĩ đã từng chứng đắc các phép-thần-thông (abhiññā).

 

* Một số bậc Thánh-nhân khi chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, trí-tuệ siêu-tam-giới đồng sinh với Thánh-đạo-tâm có năng lực liên quan đến các phép-thần-thông (abhiññā), gọi là Maggasiddhi abhiññāphát sinh do năng lực của pháp hạnh Ba-la-mật đã từng chứng đắc các phép-thần-thông trong tiền kiếp gần kiếp hiện-tại, hoặc do năng lực của pháp-hành phát nguyện Ba-la-mật.

 

Maggasiddhi abhiññā có 2 loại

 

1- Heṭṭhimamaggasiddhi abhiññā: Phép-thần-thông (abhiññā) thành tựu cùng với 3 Thánh-đạo bậc thấp.

 

Ví như trường hợp 500 vị tỳ-khưu lắng nghe Đức-Phật thuyết pháp tích Kuṇālajātaka xong, 500 vị tỳ-khưu đều chứng đắc Nhập-Lưu-Thánh-đạo cùng thành tựu phép-thần-thông (abhiññā), được trình bày trong chú giải Mahāsamayasuttavaṇṇanā ...

 

2- Arahattamaggasiddhi abhiññā: Phép-thần-thông (abhiññā) thành tựu cùng với A-ra-hán Thánh-đạo.

 

Ví như trường hợp Ngài Đại-đức Ānanda khi chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo cùng thành tựu phép thần- thông (abhiññā), Ngài Đại-đức Cūḷapanthka, v.v…

 

Luyện Tập Phép-Thần-Thông (Abhiññā)

 

Hành-giả đã chứng đắc đầy đủ 9 bậc thiền5 bậc thiền sắc-giới-tâm và 4 bậc thiền vô-sắc-giới-tâm xong, nếu muốn chứng đắc các phép-thần-thông (abhiññā), hành-giả cần phải luyện tập định-tâm thuần thục trong sự hướng tâm đến 8 đề-mục-thiền-định kasiṇa (trừ đề-mục-thiền-định ākāsakasiṇa và đề-mục-thiền-định āloka-kasiṇa), nhập 9 bậc thiền thuần thục để luyện tập cho định-tâm có nhiều năng lực bằng cách thực tập 14 phương-pháp như sau:

 

1- Kasiṇānulomato: Nhập thiền với đề-mục-thiền-định kasiṇa theo chiều thuận tuần tự từ đầu cho đến cuối nhiều lần,

 

2- Kasiṇapaṭilomato: Nhập thiền với đề-mục-thiền-định kasiṇa theo chiều nghịch tuần tự từ cuối cho đến đầu nhiều lần,

 

3- Kasiṇānulomapaṭilomato: Nhập thiền với đề-mục-thiền-định kasiṇa theo chiều thuận tuần tự từ đầu cho đến cuối, rồi trở lại theo chiều nghịch từ cuối cho đến đầu nhiều lần,

 

4- Jhānānulomato: Nhập 9 bậc thiền theo chiều thuận tuần tự từ đầu cho đến cuối nhiều lần,

 

5- Jhānapaṭilomato: Nhập 9 bậc thiền theo chiều nghịch tuần tự từ cuối cho đến đầu nhiều lần,

 

6- Jhānānulomapaṭilomato: Nhập 9 bậc thiền theo chiều thuận tuần tự từ đầu cho đến cuối, rồi trở lại theo chiều nghịch tuần tự từ cuối cho đến đầu nhiều lần,

 

7- Jhānukkantikato: Nhập 9 bậc thiền theo vượt bậc thiền qua tuần tự của bậc thiền nhiều lần.

 

8- Kasiṇukkantikato: Nhập 9 bậc thiền theo vượt đề-mục-thiền-định kasiṇa qua tuần tự của đề-mục-thiền-định kasiṇa nhiều lần.

 

9- Jhānakasiṇukkantikato: Niệm tưởng đề-mục-thiền-định vượt qua theo tuần tự, nhập bậc thiền vượt qua theo tuần tự nhiều lần.  

 

10- Aṅgasaṅkantito: Niệm tưởng đề-mục-thiền-định kasiṇa nào, rồi nhập 5 bậc thiền sắc-giới vượt qua chi thiền theo tuần tự nhiều lần,

 

11- Ārammaṇasaṅkantito: Trong 8 đề-mục-thiền-định kasiṇa, niệm tưởng mỗi đề-mục-thiền-định kasiṇa, chỉ nhập mỗi bậc thiền sắc-giới-tâm mà thôi, nghĩa là nhập đệ nhất thiền sắc-giới-tâm cho đến đệ ngũ thiền sắc-giới-tâm theo tuần tự nhiều lần.

 

12- Aṅgārammaṇasaṅkantito: Niệm tưởng đề-mục-thiền-định không trùng nhau, nhập bậc thiền-tâm không theo tuần tự nhiều lần,

 

13- Aṅgavavaṭṭhāpanato: Quán triệt chi thiền theo tuần tự của 9 bậc thiền nhiều lần,

 

14- Ārammaṇavavaṭṭhāpanato: Suy xét biết rõ đề-mục-thiền-định của mỗi bậc thiền trong 9 bậc thiền nhiều lần.

 

Giảng Giải:

 

* Điều 1, Hành-giả niệm tưởng đề-mục-thiền-định pathavīkasiṇa, rồi nhập đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm hoặc các bậc thiền khác; xả bậc thiền ấy ra, niệm tưởng đề-mục-thiền-định āpokasiṇa, rồi nhập đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm hoặc các bậc thiền khác; xả bậc thiền ấy ra, niệm tưởng đề-mục-thiền-định tejokasiṇa, rồi nhập đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm hoặc các bậc thiền khác; theo chiều thuận tuần tự cho đến đề-mục-thiền-định odātakasiṇa, …

 

Như vậy, gọi là luyện tập định-tâm theo chiều thuận    tuần tự của các đề-mục-thiền-định kasiṇa.

 

* Điều 2, Hành-giả niệm tưởng đề-mục-thiền-định odātakasiṇa, rồi nhập đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm hoặc các bậc thiền khác; xả bậc thiền ấy ra, niệm tưởng đề-mục-thiền-định lohitakasiṇa, rồi nhập đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm hoặc các bậc thiền khác; xả bậc thiền ấy ra, niệm tưởng đề-mục-thiền-định pītakasiṇa, rồi nhập đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm hoặc các bậc thiền khác; theo chiều nghịch tuần tự cho đến đề-mục đề-mục-thiền-định pathavīkasiṇa, …

 

 Như vậy, gọi là luyện tập định-tâm theo chiều nghịch tuần tự của các đề-mục-thiền-định kasiṇa.

 

* Điều 3, Hành-giả niệm tưởng đề-mục-thiền-định pathavīkasiṇa theo chiều thuận tuần tự cho đến đề-mục-thiền-định odātakasiṇa, như điều 1, và niệm tưởng đề-mục-thiền-định odātakasiṇa theo chiều nghịch tuần tự cho đến đề-mục-thiền-định pathavīkasiṇa, như điều 2.

 

Như vậy, gọi là luyện tập định-tâm theo chiều thuận và chiều nghịch tuần tự của các đề-mục-thiền-định kasiṇa nhập các bậc thiền ấy.

 

* Điều 4, Hành-giả nhập đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm theo chiều thuận tuần tự cho đến đệ tứ thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, gọi là phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ thiện-tâm.

 Như vậy, gọi là luyện tập định-tâm theo chiều thuận tuần tự nhập 9 bậc thiền.

 

* Điều 5, Hành-giả nhập đệ tứ thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, gọi là phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ thiện-tâm theo chiều nghịch tuần tự cho đến đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm.

 Như vậy, gọi là luyện tập định-tâm theo chiều nghịch tuần tự nhập 9 bậc thiền.

 

* Điều 6, Hành-giả nhập đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm theo chiều thuận tuần tự cho đến đệ tứ thiền vô-sắc-giới gọi là phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ thiện-tâm, và nhập đệ tứ thiền vô-sắc-giới gọi là phi-tưởng-phi-phi- tưởng-xứ thiện-tâm theo chiều nghịch tuần tự cho đến đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm.

 

Như vậy, gọi là luyện tập định-tâm theo chiều thuận và theo chiều nghịch tuần tự nhập 9 bậc thiền.

 

 * Điều 7, Hành-giả niệm tưởng đề-mục-thiền-định kasiṇa, nhập đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, rồi xả thiền ấy; niệm tưởng đề-mục-thiền-định kasiṇa, nhập đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm, rồi xả thiền ấy; niệm tưởng đề-mục-thiền-định kasiṇa, nhập đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, rồi xả thiền ấy; niệm tưởng ākāsapaññatti nhập đệ nhất thiền vô-sắc-giới gọi là không-vô-biên-xứ thiện-tâm, rồi xả không-vô-biên-xứ thiện-tâm; niệm tưởng natthibhāva- paññatti nhập đệ tam thiền vô-sắc-giới gọi là vô-sở-hữu-xứ thiện-tâm, rồi xả vô-sở-hữu-xứ thiện-tâm; … 

 

Cách nhập thiền và xả thiền với đề-mục-thiền-định còn lại cũng tương tự như trên.

 

 Như vậy, gọi là luyện tập định-tâm bằng cách nhập thiền theo tuần tự.

 

* Điều 8, Hành-giả niệm tưởng đề-mục-thiền-định pathavīkasiṇa, nhập đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm; niệm tưởng đề-mục-thiền-định tejokasiṇa, nhập đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm; niệm tưởng đề-mục-thiền-định nīlakasiṇa, nhập đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm; niệm tưởng đề mục-thiền-định lohitakasiṇa, nhập đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm.

Niệm tưởng đề-mục-thiền-định còn lại, nhập 4 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm còn lại cũng tương tự như trên.

 

Như vậy, gọi là luyện tập định-tâm bằng cách niệm tưởng đề-mục-thiền-định kasiṇa vượt qua theo tuần tự. 

 

* Điều 9, Hành-giả niệm tưởng đề-mục-thiền-định pathavīkasiṇa, nhập đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm; niệm tưởng đề-mục-thiền-định tejokasiṇa, nhập đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm; niệm tưởng đề-mục-thiền-định nīlakasiṇa, nhập đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, xả đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm; niệm tưởng ākāsapaññatti nhập đệ nhất thiền vô-sắc-giới gọi là không-vô-biên-xứ thiện-tâm, xả không-vô-biên-xứ thiện-tâm; niệm tưởng natthibhāvapaññatti nhập đệ tam thiền vô sắc gọi là vô-sở-hữu-xứ thiện-tâm ...

 

Như vậy, gọi là luyện tập định-tâm bằng cách niệm tưởng đề-mục-thiền-định vượt qua theo tuần tự, nhập bậc thiền vượt qua theo tuần tự.

 

 * Điều 10, Hành-giả niệm tưởng đề-mục-thiền-định pathavīkasiṇa, nhập đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, v.v… cho đến đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, vượt qua chi thiền theo tuần tự.

Niệm tưởng 7 đề-mục kasiṇa còn lại, nhập 5 bậc thiền sắc-giới, vượt qua chi thiền theo tuần tự, tương tự như trên. 

 

Như vậy, gọi là luyện tập định-tâm bằng cách niệm tưởng đề-mục-thiền-định kasiṇa, nhập 5 bậc thiền sắc-giới tâm vượt qua chi thiền theo tuần tự. 

 

 * Điều 11, Hành-giả niệm tưởng đề-mục-thiền-định pathavīkasiṇa, nhập đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm; niệm tưởng đề-mục-thiền-định āpokasiṇa, nhập đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm; niệm tưởng đề-mục-thiền-định   tejokasiṇa, nhập đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm; niệm tưởng đề-mục-thiền-định vāyokasiṇa, nhập đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm; niệm tưởng đề-mục-thiền-định   nīlakasiṇa, nhập đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm; niệm tưởng đề-mục-thiền-định pītakasiṇa, nhập đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm; niệm tưởng đề-mục-thiền-định   lohitakasiṇa, nhập đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm; niệm tưởng đề-mục-thiền-định odātakasiṇa, nhập đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm.

 

Trong 8 đề-mục-thiền-định kasiṇa, khi thay đổi mỗi đề-mục-thiền-định kasiṇa, chỉ nhập mỗi bậc thiền mà thôi. Từ đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm, cho đến đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm tương tự như trên.

 

 Như vậy, gọi là luyện tập định-tâm bằng cách niệm tưởng 8 đề-mục-thiền-định kasiṇa, mỗi đề-mục-thiền-định kasiṇa, nhập đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm cho đến đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm tương tự như trên.

 

 * Điều 12, Hành-giả niệm tưởng đề-mục-thiền-định   pathavīkasiṇa, nhập đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm; niệm tưởng đề-mục-thiền-định āpokasiṇa, nhập đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm; niệm tưởng đề-mục-thiền-định   tejokasiṇa, nhập đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm; niệm tưởng đề-mục-thiền-định vāyokasiṇa, nhập đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm; niệm tưởng đề-mục-thiền-định nīla-kasiṇa, nhập đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm; niệm tưởng đề-mục-thiền-định pītakasiṇa, bỏ pītapaṭibhāga-nimitta ra, chỉ có ākāsapaññatti, niệm tưởng ākāsapaññatti, nhập đệ nhất thiền vô-sắc-giới gọi là không-vô-biên-xứ thiện-tâm.

 

Khi xả bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm này, niệm tưởng đề-mục-thiền-định lohitakasiṇa, bỏ lohitapaṭibhāganimitta ra, chỉ có ākāsapaññatti, nhưng không thích đề-mục-thiền-định ākāsapaññatti, mà trở lại hài lòng nơi không-vô-biên-xứ thiện-tâm đã từng phát sinh trong tâm, với tâm hành niệm tưởng rằng: “Viññāṇaṃ anantaṃ”, nhập thức-vô-biên-xứ thiện-tâm; khi xả bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm này, niệm tưởng đề-mục-thiền-định odāta-kasiṇa, bỏ odātapaṭibhāganimitta ra, chỉ có ākāsa-paññatti, nhưng không thích đề-mục-thiền-định ākāsapaññatti, mà trở lại hài lòng nơi đề-mục natthibhāvapaññatti với tâm-hành niệm tưởng rằng: “Natthi kinci,…”, nhập vô-sở-hữu-xứ thiện-tâm; khi xả bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm này, niệm tưởng đề-mục-thiền-định ālokakasiṇa, bỏ ālokakapaṭibhāganimitta ra, chỉ có đề-mục-thiền-định ākāsapaññatti, nhưng không thích đề-mục-thiền-định ākāsapaññatti, mà trở lại hài lòng nơi vô-sở-hữu-xứ thiện-tâm đã từng phát sinh trong tâm, với tâm-hành niệm tưởng rằng: “Santaṃ paṇītaṃ” nhập phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ thiện-tâm.

 

Như vậy, gọi là luyện tập định-tâm bằng cách niệm tưởng đề-mục-thiền-định không trùng nhau, nhập bậc thiền-tâm không theo tuần tự. 

 
* Điều 13, Hành-giả nhập đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm có 5 chi thiền: vitakka, vicāra, pīti, sukha, ekaggatā

- Nhập đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm có 4 chi thiền: vicāra, pīti, sukha, ekaggatā;

- Nhập đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm có 3 chi thiền: pīti, sukha, ekaggatā;

- Nhập đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi thiền: sukha, ekaggatā;

- Nhập đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi thiền: upekkhā và ekaggatā;

- Nhập đệ nhất thiền vô-sắc-giới gọi là không-vô-biên-xứ thiện-tâm; nhập đệ nhị thiền vô-sắc-giới gọi là thức-vô-biên-xứ thiện-tâm; nhập đệ tam thiền vô-sắc-giới gọi là vô-sở-hữu-xứ thiện-tâm; nhập đệ tứ thiền vô-sắc-giới gọi là phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ thiện-tâm, mỗi bậc thiền vô-sắc-giới chỉ có 2 chi thiền: upekkhā và ekaggatā.

Như vậy, gọi là luyện tập định-tâm bằng cách quán triệt các chi thiền trong 9 bậc thiền theo tuần tự.

 

* Điều 14, Đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm phát sinh, nếu có đề-mục-thiền-định pathavīkasiṇa làm đối-tượng thì hành-giả suy xét rằng: “Đề-mục pathavīkasiṇa này là đối-tượng của đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm.”

Nếu có đề-mục-thiền-định āpokasiṇa, hoặc đề-mục-thiền-định tejokasiṇa, v.v… cho đến đề-mục-thiền-định   odātakasiṇa thì hành-giả suy xét rằng: “Đề-mục-thiền-định āpokasiṇa, đề-mục-thiền-định tejokasiṇa, v.v…hoặc đề-mục-thiền-định odātakasiṇa này là đối-tượng của đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm, cho đến đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm”. Cáchsuy xét tương tự như đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm.

 

Khi không-vô-biên-xứ thiện-tâm phát sinh, hành-giả suy xét rằng: “Đề-mục-thiền-định ākāsapaññatti là đối-tượng của không-vô-biên-xứ thiện-tâm”,

 

Khi thức-vô-biên-xứ thiện-tâm phát sinh, hành-giả suy xét rằng: “Đề-mục-thiền-định ākāsānañcāyatanakusala-citta là đối-tượng của thức-vô-biên-xứ thiện-tâm”,

 

Khi vô-sở-hữu-xứ thiện-tâm phát sinh, hành-giả suy xét rằng: “Đề-mục-thiền-định natthibhāvapaññatti là đối-tượng của vô-sở-hữu-xứ thiện-tâm”,

 

Khi phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ thiện-tâm phát sinh, hành-giả suy xét rằng: “Đề-mục-thiền-định ākiñcañ-ñāyatanakusalacitta là đối-tượng của phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ thiện-tâm.

 

Như vậy, gọi là luyện tập định-tâm bằng cách suy xét đề-mục-thiền-định là đối-tượng của mỗi bậc thiền trong 9 bậc thiền.

 

Tóm lại, 14 phương-pháp luyện tập này có một mục đích làm cho hành-giả luyện tập thuần thục niệm tưởng các đề-mục-thiền-định nhất là đề-mục-thiền-định kasiṇa, thuần thục nhập trong 9 bậc thiền, đó là điều quan trọng giúp cho định-tâm vững chắc là nhân làm cho đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm với phép-thần-thông phát sinh.

 

Phép-thần-thông (abhiññā) là trí-tuệ thần-thông biết 6 đối-tượng đặc biệt. Trí-tuệ abhiññā này đồng sinh với đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm hoặc duy-tác-tâm (tâm của bậc Thánh-A-ra-hán), có khả năng biết đặc biệt rất phi thường do năng lực của thiền-định, còn gọi là abhiññācitta: tâm thần-thông, bởi vì, đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm này phát sinh cùng với abhiññā.

 

Phép-Thần-Thông  (Abhiññā) có 2 loại:

 

1- Lokiya abhiññā: Tam-giới thần-thông,

2- Lokuttara abhiññā: Siêu-tam-giới thần-thông.

 

1- Lokiya Abhiññā: Tam-Giới Thần-Thông

 
Tam-giới thần-thông có 5 loại:
 

1- Iddhividha abhiññā: Đa-dạng-thông,

2- Dibbasota abhiññā: Thiên-nhĩ-thông,

3- Paracittavijānana abhiññā: Tha-tâm-thông,

4- Pubbenivasānussati  abhiññā: Tiền-kiếp-thông,

5- Dibbacakkhu abhiññā: Thiên-nhãn-thông.

Tam-giới thần-thông 5 loại này có chi pháp là trí-tuệ tâm-sở đồng sinh với đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm hoặc duy-tác-tâm đặc biệt.

 

2- Lokuttara Abhiññā: Siêu-Tam-Giới Thần-Thông.

 
Siêu-tam-giới thần-thông chỉ có 1 loại:

*Āsavakkhaya abhiññā: Trầm-luân-tận-thông, phép-thần-thông này có khả năng đặc biệt diệt-đoạn-tuyệt tất cả 4 loại phiền-não-trầm-luân không còn dư sót trong tâm nữa, có chi pháp là trí-tuệ tâm-sở đồng sinh với A-ra-hán Thánh-Đạo-tâm.

 

Như vậy, phép-thần-thông (abhiññā) gồm có 6 loại.

 

Giảng Giải:

 

1- Iddhividha abhiññā: Đa-dạng-thông,

 

Định nghĩa: “Iddhiyā viya yassā’ti Iddhividhaṃ.”

 

Phép-thần-thông (abhiññā) thành tựu nhiều phép, cho nên gọi là Đa-dạng-thông (iddhividha abhiññā).

 
Đa-dạng-thông có 3 loại:
 

1- Adhiṭṭhānā iddhi: Đa-dạng-thông thành tựu do năng lực phát nguyện trở thành nhiều phép như sau: 

 

- Một người phát nguyện trở thành hằng trăm người, hằng ngàn người, …

- Hằng trăm người, hằng ngàn người phát nguyện trở thành một người,

- Hiện hình đến một nơi do ý muốn,

- Tàng hình không cho ai thấy,

- Hiện hình cho mọi người đều thấy,

- Đi xuyên ngang qua tường thành, như đi chỗ trống,

- Đi xuyên ngang qua núi đá, như đi chỗ trống,

- Làm cho mặt đất trở thành mặt biển, rồi lặn xuống, 

- Làm cho mặt biển trở thành mặt đất, đi lại được,

- Bay nhanh trên hư không, như các loài chim,

- Chui xuống mặt đất, như lặn xuống nước,

- Tay sờ đụng mặt trăng, mặt trời,

- Xuất hiện lên cõi trời dục-giới, cõi trời sắc-giới,

- Phép-thần-thông này có khả năng phát nguyện trở thành ra nhiều phép khác nhau, v.v…   

 

2- Vikubbanā iddhi: Đa-dạng-thông thành tựu do năng lực biến hóa ra nhiều loài chúng-sinh, biến hóa ra loại nào, hành-giả trở thành loại ấy, như sau:

- Biến hóa ra trở thành đứa trẻ con, ông già, …

- Biến hóa ra trở thành chư-thiên, phạm-thiên, v.v…

- Biến hóa ra trở thành long nam, voi, ngựa, v.v…

- Biến hóa thành rừng, núi, sông, hồ, đại dương, chùa, tháp, xóm nhà, v.v…

- Phép-thần-thông này có khả năng biến hóa ra trở  thành nhiều phép khác nhau, v.v…

 

3- Manomayā iddhi: Đa-dạng-thông thành tựu do năng lực của tâm như sau:

 

- Hóa ra người khác hoạt động tự nhiên phát xuất từ tâm của mình, còn hành-giả vẫn là tự nhiên, không có gì thay đổi.  

 

2- Dibbasota Abhiññā: Thiên-nhĩ-thông

 
Định nghĩa: “Dibbasotaṃ viyā’ti dibbasotaṃ”
 

Phép-thần-thông (abhiññā) có khả năng nghe được mọi âm thanh, mọi thứ tiếng từ xa không giới hạn và vi tế nhất như tai của chư-thiên, phạm-thiên, cho nên gọi là thiên-nhĩ-thông (dibbasota abhiññā).

 

Nhĩ-tịnh-sắc (sotapasādarūpa) của chư-thiên bậc cao trong 6 cõi trời dục-giới là sắc-pháp phát sinh do đại-thiện-nghiệp cao quý hoặc chư phạm-thiên trong các cõi trời sắc-giới là sắc-pháp phát sinh do sắc-giới thiện-nghiệp cao quý, nên nhĩ-tịnh-sắc là hoàn toàn trong sáng thanh tịnh, không có một thứ gì làm dơ bẩn. Vì vậy, nhĩ-tịnh-sắc là hoàn toàn thanh khiết đặc biệt làm nhân phát sinh nhĩ-thức-tâm có khả năng nghe được âm thanh, tiếng nói nhỏ nhất từ xa bao nhiêu không giới hạn, thật là phi thường.

Thật vậy, trong các bộ Chú-giải giải rằng: Cõi người vô cùng cách xa với cõi trời dục-giới hoặc cõi trời sắc-giới, chư-thiên ở trên cõi trời dục-giới, hoặc chư phạm-thiên ở trên cõi trời sắc-giới, có khả năng nghe rõ được âm thanh, tiếng nói nhỏ nhất của con người, mà không có gì ngăn cản được cả, thậm chí tiếng nhỏ nhất như tiếng những con kiến, con mối, con rận, v.v… 

 

Như tích Tissattheravatthu([2]được tóm lược như sau:

 

Ngài Đại-đức Tissa có được một tấm y, phát sinh tâm hài lòng hoan hỷ tấm y ấy, Ngài nghĩ rằng: “Sve dāni naṃ pārupissāmi” Ngày mai ta sẽ mặc tấm y ấy.

 

Trong đêm hôm ấy, Ngài Tissa có tâm hài lòng tấm y ấy, nên sau khi Ngài chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau làm con rận nằm trong tấm y ấy (tasmiṃ yeva cīvare ūkā hutvā nibbatti).

 

Chư tỳ-khưu làm lễ hoả táng thi thể của Ngài xong, đem những thứ vật dụng của Ngài phân chia đến các tỳ-khưu, nhưng khi đụng đến tấm y ấy, con rận ở trong tấm y bò qua bò lại khóc than rằng: “Ime mama santakaṃ vilumpanti” “Những vị tỳ-khưu này chiếm đoạt của tôi”.

 

Khi ấy, Đức-Thế-Tôn đang ngự ngôi chùa Jetavana nghe tiếng khóc than của con rận bằng thiên-nhĩ-thông, nên gọi Ngài Đại-đức Ānanda truyền dạy rằng:

 

- Này Ānanda! Con nên đến bảo các tỳ-khưu ấy, hãy để tấm y ấy tại chỗ cũ. 7 ngày sau, mới được đem chia đến tỳ-khưu khác.

 

Qua 7 ngày, con rận ấy chết, thiện-nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau làm thiên nam trên cõi trời Tusita: Đâu-suất-đà-thiên.

Thiên-nhĩ-thông là phép thần- thông có khả năng nghe âm thanh, tiếng nói dù xa, dù nhỏ bao nhiêu cũng nghe rõ được như tai của chư-thiên, phạm-thiên.

 

Cho nên gọi là Thiên-nhĩ-thông (Dibbasota abhiññā).

 

3- Tha-Tâm-Thông (Paracittavijānana abhiññā)  

 
Định nghĩa:
 
Paresaṃ cittaṃ vijānātī’ti paracittavijānanā.”
 

Phép-thần-thông (abhiññā) có khả năng biết được tâm của người khác, cho nên gọi là tha-tâm-thông, (para-cittavijānanā abhiññā).

Paracittavijānana abhiññānày còn có tên gọi là Cetopariya abhiññā: phép-thần-thông (abhiññā) biết rõ chính xác tâm của người khác.

 

Cách luyện tập phép tha-tâm-thông (paracittavijānana abhiññā), nếu hành-giả chưa có sự thuần thục trong phép tha-tâm-thông này thì nên thực tập phép thiên-nhãn- thông (dibbacakkhu abhiññā) trước, để suy xét màu của máu có trong tim, nếu tính chất của tâm như thế nào thì màu của máu cũng bị thay đổi như thế ấy.

 

Ví dụ: Nếu người có tính-tham thì máu có màu đỏ đậm; nếu người có tính-sân thì máu có màu đen; nếu người có tính-si thì máu có màu như nước rửa thịt; nếu người có tính-suy-diễn thì máu có màu đậu đen; nếu người có tính-tín thì máu có màu vàng; nếu người có tính-giác thì máu có màu hồng trong sáng,…

 

Khi hành-giả có phép-thiên-nhãn-thông thấy màu máu của người ấy mà suy đoán tâm của họ.

 

Về sau, đã thuần thục cách luyện tập phép tha-tâm- thông, hành-giả chỉ cần phát nguyện rằng: “Xin cho tôi biết rõ tâm của người ấy”. Hành-giả nhập đệ ngũ thiền sắc-giới tâm, rồi xả bậc thiền ấy ra, đồng thời lộ trình tâm phép-tha-tâm-thông, paracittavijānana abhiññā-vīthicitta phát sinh, biết rõ chính xác tâm của người khác.

 

Khi đã thuần thục cách luyện tập phép tha-tâm-thông rồi, hành-giả không cần thực tập phép thiên-nhãn-thông (dibbacakkhu abhiññā) trước nữa, màchỉ luyện tập phép-tha-tâm-thông mà thôi.

 

4- Pubbenivasānussati Abhiññā: Tiền-kiếp-thông,

 
Định nghĩa:
 
“Pubbenivāsānaṃ anussati pubbenivāsānussati.”
 

Phép-thần-thông (abhiññā) nhớ lại nơi sinh và ngũ uẩn v.v… đã từng sinh, đã từng gặp trong tiền kiếp, cho nên phép-thần-thông (abhiññā) này gọi là tiền-kiếp-thông, (pubbenivāsānussati abhiññā).

 
 Tiền-kiếp-thông có 2 loại:
 

1- Ajjhāvutthapubbenivāsa: Tiền kiếp của mình đã từng sinh trong các cõi: Nghĩa là tiền kiếp của mình có ngũ uẩn, kiếp chúng-sinh, tên, dòng dõi, gia đình, giai cấp, v.v…, đã từng sinh trong các cõi.

 

2- Ārammaṇapubbenivāsa: Tiền kiếp của chúng-sinh khác là đối-tượng để biết tiền kiếp của họ: Nghĩa là tiền kiếp của chúng-sinh khác có ngũ uẩn, kiếp chúng-sinh, tên, dòng dõi, giai cấp, v.v…, trong các cõi mà hành-giả đã từng gặp, từng thấy trong tiền kiếp của mình.

 

Hành-giả luyện tập phép tiền-kiếp-thông (pubbe-nivāsānussati abhiññā) này có khả năng nhớ rõ, biết rõ được 2 loại tiền-kiếp-thông này.

 

Hành-giả có khả năng nhớ rõ, biết rõ những tiền kiếp được nhiều hoặc ít hoàn toàn tùy thuộc vào các pháp hạnh Ba-la-mật của hành-giả.

 

5- Dibbacakkhu Abhiññā: Thiên-nhãn-thông.

 
Định nghĩa:
 

“Dibbacakkhu viyā’ti dibbacakkhu.”

 

Phép-thần-thông (abhiññā) có khả năng thấy rõ đối-tượng từ xa không giới hạn và thấy rõ đối-tượng vô cùng vi tế nhất như mắt của chư-thiên, phạm-thiên, cho nên gọi là thiên-nhãn-thông (dibbacakkhu abhiññā).

 

Nhãn-tịnh-sắc (sotapasādarūpa) của chư-thiên bậc cao trong 6 cõi trời dục-giới là sắc-pháp phát sinh do đại-thiện-nghiệp cao quý hoặc chư phạm-thiên trong các cõi trời sắc-giới là sắc-pháp phát sinh do sắc-giới thiện-nghiệp cao quý, nên nhãn-tịnh-sắc là hoàn toàn trong sáng thanh tịnh, không có một thứ gì làm dơ bẩn. Vì vậy, nhãn-tịnh-sắc là hoàn toàn thanh khiết đặc biệt làm nhân phát sinh nhãn-thức-tâm có khả năng nhìn thấy được đối-tượng từ xa không giới hạn và vô cùng bé nhỏ, thật là phi thường.  

 

Thật vậy, trong các bộ Chú-giải giải rằng: Cõi người vô cùng cách xa với cõi trời dục-giới hoặc cõi trời sắc-giới, chư-thiên ở trên cõi trời dục-giới, hoặc chư phạm- thiên ở trên cõi trời sắc-giới, có khả năng nhìn thấy rõ từ xa không giới hạn và thấy vật vô cùng bé nhỏ nhất không có gì che khuất được cả, thậm chí những vật nhỏ nhất được bao bọc kỹ kín đáo, thế mà chư-thiên, phạm-thiên đều có khả năng nhìn thấy rõ được.

 

Thiên-nhãn-thông ((Dibbacakkhu abhiññā) là phép-thần-thông có khả năng nhìn thấy rõ những vật dù xa, dù nhỏ bao nhiêu, dù bao bọc kín đáo cũng nhìn thấy rõ được như mắt của chư-thiên, phạm-thiên, cho nên gọi là Thiên-nhãn-thông ((Dibbacakkhu abhiññā).

 

Thiên-nhãn-thông (Dibbacakkhu abhiññā) này còn có 2 loại:

 

1- Yathākammūpaga abhiññā: Phép-thần-thông này có khả năng thấy rõ biết rõ chúng-sinh sinh trong cõi ấy theo nghiệp của họ.  

 

Hành-giả có phép-thần-thông (abhiññā) này thấy rõ biết rõ thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp của tất cả chúng-sinh đã cho quả tái sinh trong các cõi khác nhau, và thấy rõ biết rõ chúng-sinh ấy đang hưởng quả an-lạc của thiện-nghiệp của họ hoặc đang chịu quả khổ của ác-nghiệp của họ đã tạo trong kiếp trước.

 

2- Anāgataṃsa abhiññā: Phép-thần-thông này có khả năng thấy rõ biết rõ kiếp vị-lai:

 

Hành-giả có phép-thần-thông (abhiññā) này có khả năng thấy rõ biết rõ chính mình và chúng-sinh khác trong kiếp vị-lai, nghiệp nào sẽ cho quả tái sinh kiếp sau trong cõi nào, và còn thấy rõ biết rõ kiếp ấy thuộc loài chúng-sinh nào, hưởng quả an-lạc của thiện-nghiệp của họ, hoặc chịu quả khổ của ác-nghiệp của họ.

 

 * Đối với Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác, thì Thiên-nhãn-thông này có 2 loại trí-tuệ đặc biệt là: 

 

1- Cutūpapātañāṇa: Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ sự tử và sự tái sinh của tất cả chúng-sinh.

 

Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ này nên thấy rõ biết rõ tất cả chúng-sinh sau khi chết, nghiệp nào cho quả tái sinh kiếp sau trong cõi nào, hưởng quả an-lạc của thiện-nghiệp của họ như thế nào, hoặc chịu quả khổ của ác-nghiệp của họ như thế nào, v.v…

 

2- Anāgataṃsañāṇa: Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ kiếp vị-lai của tất cả chúng-sinh.

 

Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ này nên thấy rõ biết rõ kiếp vị-lai của tất cả chúng-sinh, cho nên Đức-Phật thọ ký chúng-sinh ấy còn lại thời gian bao nhiêu a-tăng-kỳ nữa sẽ trở thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác, hoặc Đức-Phật-Độc-Giác, hoặc bậc Thánh-Thanh-văn-giác của Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu nào trong thời kỳ vị-lai ấy.

 

Lokuttara Abhiññā: Siêu-tam-giới thần-thông.

 

6- Āsavakkhaya Abhiññā: Trầm-luân-tận-thông

 

Āsavakkhaya abhiññā: Trầm-luân-tận-thông là phép-thần-thông có khả năng đặc biệt diệt-đoạn-tuyệt được 4 loại phiền-não-trầm-luân (āsava) theo tuần tự năng lực của 4 bậc Thánh-đạo-tuệ:

- Nhập-lưu-Thánh-đạo-tuệ,

- Nhất-lai-Thánh-đạo-tuệ,

- Bất-lai-Thánh-đạo-tuệ,

- A-ra-hán-Thánh-đạo-tuệ chắc chắn diệt-đoạn-tuyệt được mọi phiền-não-trầm-luân không còn dư sót.
 

(Xem giảng giải trong phần II, Pháp-Hành-Thiền-Tuệ)

 
 

Phương-Pháp Thực-Hành Mỗi Phép-Thần-Thông

 

Muốn phép-thần-thông (abhiññā) nào được phát sinh, hành-giả cần phải biết thực-hành để cho phép-thần-thông ấy phát sinh theo như ý của hành-giả.

 

Trước tiên, hành-giả nên biết phương-pháp thực-hành theo tuần tự để cho thần-thông-lộ-trình-tâm phát sinh: 

 

1- Nhập đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm,

2- Xả đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, rồi phát nguyện theo sự mong muốn của mình,

3- Sau khi phát nguyện xong, nhập trở lại đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm một lần nữa,

4- Khi xả đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm lần thứ nhì, thần-thông lộ-trình-tâm (abhiññāvīthicitta) phát sinh, thành tựu phép-thần-thông đúng theo ý nguyện của hành-giả. 

 

1- Đồ biểu nhập đệ ngũ thiền sắc-giới lộ-trình-tâm

 

     Đối-tượng cũ                                                             đối-tượng cũ 

       kiếp trước                                                                                     kiếp trước



 

      bha bha   na   da   ma pari upa anu got jha jha jha...   bhabha

 

Giải thích:

 
Hành-giả trước tiên nhập đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm theo lộ-trình-tâm jhānasamāpattivīthicitta như sau:
 

“Bhavaṅgacitta, bhavaṅgacalana, bhavaṅgupaccheda, manodvārāvajjanacitta, parikamma, upacāra, anuloma, gotrabhū, pañcamajjhānakusalacitta (phát sinh nhiều sát-na-tâm), bhavaṅgacitta,… chấm dứt nhập đệ ngũ thiền sắc-giới lộ-trình-tâm.

 

Nhập Đệ Ngũ Thiền Sắc-Giới Lộ-Trình-Tâm 

 

1- Bhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm trước,   viết tắt     ( bha)

2- Bhavaṅgacalana: Hộ-kiếp-tâm rung động,      vt (na)

3- Bhavaṅgupaccheda: Hộ-kiếp-tâm bị cắt đứt,   vt (na)

4- Manodvāravajjanacitta: Ý-môn-hướng-tâm,   vt (ma)

5- Parikamma: Tâm chuẩn bị đệ nhất thiền,       vt (pari)

6- Upacāra: Tâm cận đệ nhất thiền,                    vt (upa)

7- Anuloma: Tâm thuận theo đệ nhất thiền          vt (upa)

8- Gotrabhu: Tâm chuyển cõi giới ,                      vt (got)

9- Pañcamajjhānakusalacitta: Đệ ngũ thiền sắc-giới

    thiện-tâm,                                                                vt (jha)

10- Bhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm sau,                  vt (bha)

 

Chấm dứt nhập đệ ngũ thiền sắc-giới lộ-trình-tâm  

Hành-giả nhập đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm theo lộ-trình-tâm jhānasamāpattivīthicitta có các loại tâm sinh rồi diệt theo tuần tự như sau:

 

* Bhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm trước sinh rồi diệt,  

* Bhavaṅgacalana: Hộ-kiếp-tâm rung động sinh,diệt,

* Bhavaṅgupaccheda:Hộ-kiếp-tâm bị cắt đứt sinh, diệt,

* Manodvāravajjanacitta: Ý-môn-hướng-tâm 1sát-na tiếp nhận đối-tượng paṭibhāganimitta sinh rồi diệt, 

 

* Parikamma:Tâm chuẩn bị cho đệ ngũ thiền sắc-giới-tâm phát sinh1 sát-na-tâm có đối-tượng paṭibhāganimitta,    

 

* Upacāra: Tâm cận đệ nhất thiền sắc-giới-tâm phát sinh1 sát-na-tâm có đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta   sinh rồi diệt, làm duyên cho sát-na-tâm 

 

* Anuloma: Tâm thuận theo đệ ngũ thiền sắc-giới-tâm phát sinh1 sát-na-tâm có đối-tượng paṭibhāganimitta   sinh rồi diệt,

 

*Gotrabhu: Tâm chuyển từ dục-giới đại-thiện-tâm lên sắc-giới thiện-tâm phát sinh 1 sát-na-tâm đối-tượng paṭibhāganimitta sinh rồi diệt, 

 

* Jhānacitta đó là đệ ngũ thiền sắc-giới-thiện-tâm (pañcamajjhānakusalacitta) đối-tượng paṭibhāga-nimitta phát sinh liên tục nhiều sát-na-tâm sinh rồi diệt, 

 

* Bhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm sau chấm dứt đệ ngũ thiền sắc-giới lộ-trình-tâm.       

 

* Sau khi xả đệ ngũ thiền sắc-giới lộ-trình-tâm,  thần thông lộ-trình-tâm phát sinh như sau:

 

2- Đồ Biểu Thần Thông Lộ-Trình-Tâm

 

           Đối-tượng cũ                                                        đối-tượng cũ 

              kiếp trước                                                                               kiếp trước



 

              bha bha   na   da   ma pari upa anu got bhi bhabha

                                          

 “Bhavaṅgacitta, bhavaṅgacalana, bhavaṅgupaccheda, manodvārāvajjanacitta, parikamma, upacāra, anuloma, gotrabhū, abhiññācitta (1 sát-na-tâm), bhavaṅgacitta, …chấm dứt thần-thông-lộ-trình-tâm. 

 
 Giải Thích:
 

Thần-thông lộ-trình-tâm có các tâm phát sinh theo tuần tự từ Bhavaṅgacitta chođến sát-na-tâm gotrabhu diệt liền abhiññācitta: thần-thông-tâmphát sinh 1 sát-na-tâm, tiếp theo bhavaṅgacitta chấm dứt thần-thông-lộ-trình-tâm, đồng thời thành tựu phép thần-thông theo ý nguyện của hành-giả,

 

Tam-Giới Thần-Thông (Lokiya Abhiññā)

 
Tam-giới thần-thông có 5 loại:
 

1- Iddhividha Abhiññā: Đa-Dạng-Thông 

 

Đa-dạng-thông là phép thần-thông thành tựu nhiều dạng do ý nguyện của hành-giả, có 3 loại:

 

1- Adhiṭṭhānā iddhi: Đa-dạng-thông thành tựu do năng lực của lời phát nguyện:

 

Hành-giả chỉ hướng tâm đến đối-tượng paṭibhāga-nimitta của đề-mục-thiền-định kasiṇa nào, rồi nhập đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, để cho định-tâm vững chắc, rồi xả đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm ra.

 

Hành-giả phát nguyện theo điều mong muốn của mình, tiếp theo nhập trở lại đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm lần thứ nhì.

Khi xả đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm ra, thì đa-dạng-thông lộ-trình-tâm (abhiññāvīthicitta) có đối-tượng chân-nghĩa-pháp hoặc chế-định-pháp đúng như điều đã phát nguyện phát sinh theo tuần tự như sau:

 

“Bhavaṅgacitta, bhavaṅgacalana, bhavaṅgupaccheda, manodvārāvajjanacitta, parikamma, upacāra, anuloma, gotrabhū, abhiññācitta (1sát-na-tâm), (vt.bhi), bhavaṅga-citta, … chấm dứt thần-thông-lộ-trình-tâm. 

 

Adhiṭṭhānā iddhi: Đa-dạng-thông thành tựu do năng lực phát nguyện trở thành nhiều phép khác nhau như sau: 

 

Nếu muốn phép-đa-dạng-thông loại nào thì hành-giả cần phải hướng tâm đến đối-tượng paṭibhāganimitta của đề-mục-thiền-định kasiṇa có khả năng phát sinh phép-đa-dạng-thông loại ấy. Ví dụ:

 

* Nếu muốn độn thổ, chui xuống dưới đất, rồi trồi lên mặt đất, như lặn xuống dưới nước, rồi trồi lên mặt nước thì hành-giả cần phải hướng tâm đến đối-tượng paṭibhāganimitta của đề-mục-thiền-định āpokasiṇa, nhập đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, rồi xả đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm ra, hành-giả phát nguyện rằng:

 

“Mặt đất này hãy trở thành nước”

 

* Nếu muốn đi kinh hành ngang qua giữa núi, ngang qua thành, … như đi qua chỗ trống thì hành-giả cần phải hướng tâm đến đối-tượng paṭibhāganimitta của đề-mục-thiền-định ākāsakasiṇa, nhập đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, rồi xả đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm ra, hành-giả phát nguyện rằng

 

“Núi, thành này hãy trở thành hư không, chỗ trống.”

 

* Nếu muốn đi kinh hành trên hư không, như đi trên mặt đất thì hành-giả cần phải hướng tâm đến đối-tượng paṭibhāganimitta của đề-mục-thiền-định pathavīkasiṇa, nhập đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, rồi xả đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm ra, hành-giả phát nguyện rằng:

 

“Hư không này hãy trở thành mặt đất.”

 

* Nếu muốn bay lên hư không như máy bay nhanh thì hành-giả cần phải hướng tâm đến đối-tượng paṭibhāga-nimitta của đề-mục-thiền-định vāyokasiṇa, nhập đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, rồi xả đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm ra, hành-giả phát nguyện rằng:

 

“Xin cho tôi bay lên hư không, bay nhanh như gió.” 

 

 * Nếu muốn cho người khác nhìn thấy cõi địa ngục hoặc cõi trời dục-giới, thì hành-giả cần phải hướng tâm đến đối-tượng paṭibhāganimitta của đề-mục-thiền-định ākāsakasiṇa, nhập đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, rồi xả đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm ra.

 

- Nếu cho người khác nhìn thấy cõi địa ngục thì hành-giả phát nguyện rằng:

 

“Mặt đất này hãy trở thành hư không, chỗ trống.”

 

- Nếu cho người khác nhìn thấy cõi trời dục-giới thì hành-giả phát nguyện rằng:

 

“Xin cõi trời dục-giới hiện rõ cho nhìn thấy được, ...”

 

Adhiṭṭhānā iddhi: Đa-dạng-thông thành tựu do năng lực phát nguyện trở thành nhiều phép khác nhau.

 
Muốn phép-đa-dạng-thông phép nào, hành-giả cần phải

hướng tâm đến đối-tượng paṭibhāganimitta của đề-mục-thiền-định kasiṇa có khả năng phát sinh phép-đa-dạng-thông phép ấy, hợp với điều phát nguyện của hành-giả. 

 

Cho nên, hành-giả nên xem năng lực đặc biệt của mỗi đề-mục-thiền-định kasiṇa trong phần trước.

 

2- Vikubbanā iddhi: Đa-dạng-thông thành tựu do năng lực biến hóa ra nhiều loài chúng-sinh.

 

Đa-dạng-thông thành tựu do năng lực biến hóa ra nhiều loại chúng-sinh, nếu biến hóa ra loại chúng-sinh nào thì thân của hành-giả trở thành loại chúng-sinh ấy. 

 
Ví dụ:
 

* Nếu biến hóa ra đứa bé thì thân của hành-giả trở thành đứa bé,

* Nếu biến hóa ra long vương thì thân của hành-giả trở thành long vương,

* Nếu biến hóa ra chư-thiên thì thân của hành-giả trở thành chư-thiên,

* Nếu biến hóa ra con voi thì thân của hành-giả trở thành con voi, v.v…

 

Vikubbanā iddhi: Đa-dạng-thông thành tựu do năng lực biến hóa này, phương-pháp thực-hànhđể phát sinh đa-dạng-thông lộ-trình-tâm (abhiññāvīthicitta), theo tuần tự giống như Adhiṭṭhānā iddhi.

  
3- Manomayā iddhi: Đa-dạng-thông thành tựu do năng lực của tâm. Ví dụ:  
 

* Hành-giả hóa một người ra thành hằng trăm người, hằng ngàn người mà mỗi người có hành động khác nhau. Còn chính hành-giả vẫn bình thường tự nhiên không có gì thay đổi.

 
* Như trường hợp Ngài Đại-đức Cūḷapaṇḍaka,   
 

Để thành tựu manomayā iddhi này, hành-giả cần phải thực-hành 2 lần phát nguyện, 2 lần thực-hành phép-đa-dạng-thông (abhiññā) như sau:

 

1- Lần thứ nhất, hành-giả hướng tâm đến đối-tượng paṭibhāganimitta của đề-mục-thiền-định pathavīkasiṇa, nhập đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, rồi xả đệ ngũ thiền sắc-giới thiền-tâm ra, hành-giả phát nguyện rằng:

 

“Xin cho thân thể của tôi có chỗ trống.”

 

Tiếp theo nhập trở lại đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm lần thứ nhì. Khi xả đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm ra, thì đa-dạng-thông lộ-trình-tâm (abhiññāvīthicitta) thành tựu trong thân thể của mình có chỗ trống.

 

2- Lần thứ nhì, hành-giả hướng tâm đến đối-tượng paṭibhāganimitta của đề-mục-thiền-định pathavīkasiṇa, nhập đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, rồi xả đệ ngũ thiền sắc-giới thiền-tâm ra, hành-giả phát nguyện rằng:

 

“Xin cho tôi có hằng trăm, hằng ngàn người.”

 

Tiếp theo nhập trở lại đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm lần này. Khi xả đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm ra, thì đa-dạng-thông lộ-trình-tâm (abhiññāvīthicitta) thành tựu như ý nguyện, có hằng trăm, hằng ngàn người giống như mình, mỗi người đều hành động khác nhau. Còn hành-giả là người chính vẫn tự nhiên.

 

Phép-đa-dạng-thông (abhiññā) ấy được tồn tại suốt thời gian hạn định, khi đến hết thời gian ấy, phép-đa-dạng-thông ấy tự biến mất.

 

* Nếu hành-giả không hạn định thời gian thì phép-đa-dạng-thông vẫn tồn tại như vậy, không biến mất.

 

* Nếu muốn phép-đa-dạng-thông ấy biến mất thì hành-giả cần phải nhập đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, rồi xả đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm ra, hành-giả phát nguyện rằng:

 

“Phép-đa-dạng-thông này hãy biến mất.”

 

Tiếp theo nhập trở lại đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm  lần thứ nhì. Khi xả đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm ra, đa-dạng-thông lộ-trình-tâm có đối-tượng chế-định-pháp (paññattidhamma) phát sinh theo tuần tự như sau:

 

“Bhavaṅgacitta, bhavaṅgacalana, bhavaṅgupaccheda, manodvārāvajjanacitta, parikamma, upacāra, anuloma, gotrabhū, abhiññācitta (1sát-na-tâm), bhavaṅgacitta,… chấm dứt thần-thông lộ-trình-tâm.

 

Ngay khi ấy, phép-đa-dạng-thông ấy bị biến mất đồng thời cùng một lúc với sát-na-tâm abhiññācitta sinh rồi diệt.

 

2- Dibbasota Abhiññā: Thiên-Nhĩ-Thông

 

Trước khi luyện tập thiên-nhĩ-thông (dibbasota abhiññā), hành-giả cần phải thực tập lắng tai nghe những âm thanh, tiếng nói từ thô, dần dần đến vi tế, từ gần cho đến xa dần khắp cả mọi nơi, mọi hướng.

 

Muốn chứng đắc thiên-nhĩ-thông (dibbasota abhiññā), trong rừng, hành-giả hướng tâm với parikammasamādhi: sơ-định giai đoạn đầu trong đối-tượng paṭibhāganimitta của đề-mục-thiền-định vāyokasiṇa hoặc đề-mục-thiền-định ākāsakasiṇa, nhập đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, rồi xả đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm ra, hướng tâm lắng tai nghe các âm thanh, tiếng kêu của các con thú rừng, đó là những thứ âm thanh loại thô, dần dần tập lắng tai nghe những âm thanh càng thêm vi tế, như tiếng con mối, con kiến, v.v… từ gần đến xa dần trong mọi phương hướng, với parikammasamādhi: sơ-định giai đoạn đầu đồng sinh với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ.

 

Khi lắng tai nghe các âm thanh, tiếng nói ấy với parikammasamādhi ấy, rồi mới luyện tập thiên-nhĩ-thông (dibbasota abhiññā) tiếp theo.

 

Luyện tập để chứng đắc thiên-nhĩ-thông (dibbasota abhiññā), hành-giả hướng tâm đến đối-tượng paṭibhāga-nimitta của đề-mục-thiền-định vāyokasiṇa hoặc đề-mục-thiền-định ākāskasiṇa, rồi khai triển đối-tượng paṭibhāga-nimitta ấy rộng dần ra mà tai có khả năng lắng nghe được âm thanh trong phạm vi rộng lớn ấy, dần dần dù khai triển cho đến khắp mặt đất, phía trên có các cõi trời dục-giới, cõi trời sắc-giới, phía dưới có các cõi địa-ngục, tai vẫn còn lắng nghe được các loại âm thanh, tiếng nói khắp mọi nơi trở nên ồn ào không phân biệt được từng mỗi thứ tiếng.

 

Nếu khi muốn nghe một thứ tiếng nào thì hành-giả nên phát nguyện rằng:

 

“Tôi chỉ muốn nghe thứ tiếng ấy mà thôi.”

 

Hành-giả thực-hành theo phương-pháp chứng đắc thiên-nhĩ-thông (dibbasota abhiññā), chỉ có nghe thứ tiếng ấy mà thôi ...

 

Khi lắng nghe các thứ tiếng ấy, có thứ tiếng hiểu rõ ý nghĩa, có thứ tiếng không hiểu rõ ý nghĩa. Nếu muốn hiểu rõ ý nghĩa thứ tiếng nào thì hành-giả cần phải thực-hành theo phương-pháp chứng đắc phép tha-tâm-thông (paracittavijānana abhiññā), để hiểu rõ tâm của người nói ra thứ tiếng ấy.

 

3- Paracittavijānana Abhiññā: Tha-Tâm-Thông

 

Muốn chứng đắc tha-tâm-thông (paracittavijānana abhiññā), hành-giả hướng tâm đến đối-tượng paṭibhāga-nimitta của đề-mục-thiền-định ālokakasiṇa, nhập đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, rồi xả đệ ngũ thiền sắc-giới-

thiện-tâm ra, hành-giả phát nguyện rằng:
 

“Xin biết rõ tâm của người ấy.”

 

Tiếp theo nhập trở lại đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm  lần thứ nhì. Khi xả đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm ra, thì tha-tâm-thông lộ-trình-tâm (abhiññāvīthicitta) phát sinh, có khả năng biết rõ được tâm của người ấy.

 

Tha-tâm-thông (paracittavijānana abhiññā) có khả năng biết rõ tâm của tất cả chúng-sinh, Chư-thiên cõi trời dục-giới, kể cả chư Phạm-thiên cõi trời sắc-giới. 

 

(Phương-pháp thực-hành đã trình bày phần trước)

 

4- Pubbenivasānussati Abhiññā: Tiền-Kiếp-Thông

 

Pubbenivasānussati abhiññā: Tiền-kiếp-thông có 2 loại:

 

1- Ajjhāvutthapubbenivāsa: Tiền-kiếp của mình đã từng sinh trong các cõi:

 

Trước khi luyện tập phép tiền-kiếp-thông (pubbe-nivasānussati abhiññā) này, để nhớ tiền kiếp của mình đã từng sinh trong các cõi nào, hành-giả cần phải thực tập hồi tưởng ghi nhớ lại những thân-hành-động, khẩu- nói-năng, ý-suy-nghĩ từ ngay ở hiện-tại, theo tuần tự trở lui về thời quá-khứ, bằng cách hướng tâm đến đối-tượng paṭibhāganimitta của 1 trong 3 đề-mục: đề-mục-thiền-định  tejokasiṇa, hoặc đề-mục-thiền-định odātakasiṇa hoặc đề-mục-thiền-định ālokakasiṇa.

 

Nhập đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, để cho định-tâm vững chắc, sau đó xả đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm ra, rồi hồi tưởng ghi nhớ lại những thân-nghiệp, khẩu-nghiệp, ý-nghiệp của mình đã tạo kể từ ngay khi ấy, trở lui dần dần về thời quá-khứ theo tuần tự thời gian cho đến khi còn nằm trong bụng mẹ, rồi từ đó, trở lại hồi tưởng ghi nhớ theo tuần tự thời gian cho đến ngay lúc hiện-tại này, theo chiều nghịch và chiều thuận như vậy với parikammasamādhi: sơ-định giai đoạn đầu đồng sinh

với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ.
 

Nếu hồi tưởng ghi nhớ lại tiền kiếp như vậy không được thì hành-giả cần phải nhập trở lại đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, rồi xả đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm ra, thực-hànhnhư trước theo chiều nghịch và chiều thuận như vậy, cho đến khi hồi tưởng ghi nhớ lại được, mới luyện tập phép tiền-kiếp-thông (pubbenivasānussati

abhiññā) tiếp theo.
 

Muốn luyện tập phép tiền-kiếp-thông (pubbenivasā-nussati abhiññā), hành-giả hướng tâm đến đối-tượng paṭibhāganimitta của 1 trong 3 đề-mục: đề-mục-thiền-định tejokasiṇa hoặc đề-mục-thiền-định odātakasiṇa hoặc đề-mục-thiền-định ālokakasiṇa, khai triển paṭibhāga-nimitta ấy rộng ra bao trùm khắp toàn thế giới, rồi nhập đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, sau đó xả đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm ra, hành-giả phát nguyện rằng:

 

“Xin cho nhớ những tiền kiếp của tôi sống trong thời quá-khứ,”

 

Rồi nhập trở lại đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm lần thứ nhì. Khi xả đệ ngũ thiền sắc-giới tâm ra, thì tiền- kiếp-thông lộ-trình-tâm (abhiññāvīthicitta) phát sinh,thành tựu nhớ đến những tiền kiếp của mình như ý nguyện.

 

Nếu tiền-kiếp-thông lộ-trình-tâm (abhiññāvīthicitta) chưa phát sinh thì hành-giả cần phải nhập đệ ngũ thiền sắc-giới tâm, rồi xả đệ ngũ thiền sắc-giới tâm ra, hành-giả thực-hành như trước, cho đến khi tiền-kiếp-thông lộ-trình-tâm (abhiññāvīthicitta) phát sinh, thành tựu sự biết

đến những tiền kiếp của mình như ý nguyện.

 

2- Ārammaṇapubbenivāsa: Tiền kiếp của chúng-sinh khác là đối-tượng để biết tiền kiếp của họ:  

 

Trường hợp biết tiền kiếp của người khác, phương-pháp thực-hành cũng tương tự như biết tiền kiếp của mình, nhưng chỉ khác đối-tượng là tiền kiếp của người khác, hoặc chúng-sinh khác mà thôi.

 

Người khác hoặc chúng-sinh khác đó là đối-tượng mà hành-giả đã từng gặp, từng thấy trong tiền kiếp của mình. Hành-giả hồi tưởng ghi nhớ từ kiếp hiện-tại của người ấy, hoặc chúng-sinh ấy, trở lui tuần tự thời gian trải qua các kiếp quá-khứ, rồi hồi tưởng ghi nhớ trở lại từ kiếp quá-khứ đến kiếp hiện-tại này, theo chiều nghịch và chiều thuận như vậy. Hành-giả phát nguyện rằng:

 
Xin cho tôi nhớ được tiền kiếp của người ấy.”
 

Phương-pháp thực-hành tương tự như biết tiền kiếp của mình, nhưng chỉ khác đối-tượng người khác mà thôi, cho đến khi tiền-kiếp-thông lộ-trình-tâm (abhiññāvīthi-citta) phát sinh, thành tựu sự nhớ đến những tiền kiếp của người khác, chúng-sinh khác như ý nguyện.

 

Nếu hành-giả là bậc Thánh-A-ra-hán chứng đắc phép tiền-kiếp-thông (pubbenivasānussati abhiññā) thì cũng có khả năng biết được người ấy là bậc Thánh-A-ra-hán đã tịch diệt Niết-bàn.

 

Hành-giả chứng đắc phép tiền-kiếp-thông (pubbe-nivasānussati abhiññā) này nhớ lại tiền kiếp của mình được nhiều hoặc ít tuỳ năng lực của pháp hạnh Ba-la-mật của mỗi hành-giả như sau:

 

* Đối với Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác nhớ lại tiền kiếp của Ngài về thời gian không có giới hạn, vô hạn, không cần nhớ tuần tự mỗi kiếp, không cần sưu tầm bắt đầu (tái sinh) và cuối cùng (chết) của mỗi kiếp.

 

* Đối với Đức-Phật-Độc-Giác nhớ lại tiền kiếp của Ngài trong khoảng thời gian 2 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất.

 

* Đối với 2 vị Thánh-Tối-thượng-Thanh-văn-giác nhớ lại tiền kiếp của Ngài trong khoảng thời gian 1 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất. Ngài không cần nhớ tuần tự mỗi kiếp, chỉ cần phải sưu tầm bắt đầu (tái sinh) và cuối cùng (chết) của mỗi kiếp mà thôi.

 

* Đối với chư Thánh-đại-Thanh-văn-giác nhớ lại tiền kiếp của Ngài trong khoảng thời gian 100 ngàn đại kiếp trái đất.

* Đối với chư Thánh-Thanh-văn-giác hạng thường nhớ lại tiền kiếp của Ngài trong khoảng thời gian từ 100 cho đến ngàn đại kiếp trái đất.

 

Hai hạng Thánh-Thanh-văn-giác trên nhớ lại tiền kiếp của Ngài, cần phải nhớ tuần tự từng mỗi kiếp, bắt đầu (tái sinh) và cuối cùng (chết) của mỗi kiếp của Ngài.

 

 * Đối với các đạo-sĩ ngoài Phật-giáo có khả năng   nhớ lại tiền kiếp của mình trong khoảng thời gian chỉ có 40 đại kiếp trái đất mà thôi. Họ cần phải nhớ tuần tự từng mỗi kiếp, bắt đầu (tái sinh) và cuối cùng (chết) của mỗi kiếp của mình.

 

Tuy nhiên, trường hợp đặc biệt đối với số hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định chưa chứng đắc đầy đủ các bậc thiền sắc-giới và hạng người thường không thực- hành pháp-hành-thiền-định, không chứng đắc phép tiền- kiếp-thông (pubbenivāsānussati abhiññā), nhưng họ vốn

jātissarañāṇa: trí-tuệ nhớ rõ lại, biết rõ tiền kiếp của

họ, có khả năng nhớ rõ lại tiền kiếp của họ từ 1 đến 7 kiếp, nhờ năng lực của tưởng tâm-sở (saññācetasika) đặc biệt phát sinh do năng lực phát nguyện trong tiền kiếp

của họ.

Tiền kiếp của họ, sau khi đã làm phước-thiện nào xong, rồi họ phát nguyện rằng:

 

 “Do nhờ năng lực của phước-thiện này, xin cho kiếp sau của tôi có trí-tuệ jātissarañāṇa nhớ rõ lại tiền kiếp của tôi.”

 

Như trường hợp tỳ-khưu ni trẻ trong tích Chaddanta-jātaka,([3]) Thái tử Temiya trong tích Temiyajātaka, v.v…

 

* Cũng có những trường hợp đứa bé sinh ra lớn lên, vừa biết nói, nó nhớ lại kiếp trước vừa qua của nó, nên nó nói cho mẹ biết kiếp trước vừa qua của nó, gia đình, bà con, nhà cửa, chỗ ở, v.v… Đòi mẹ bồng đến thăm gia đình kiếp trước vừa qua của nó.

 

Theo yêu cầu của con, cha mẹ bồng đến chỗ ấy, thì đúng theo sự thật như đứa bé đã nhớ, bởi vì, kiếp trước gần kiếp hiện-tại không lâu, nên đứa bé nhớ lại được.

 

Khi đứa bé lớn lên trưởng thành, thì không còn nhớ như trước được nữa, bởi vì, tâm của nó không trong sáng như khi còn nhỏ.

 

5- Dibbacakkhu Abhiññā: Thiên-Nhãn-Thông

 

 Trước khi luyện tập phép thiên-nhãn-thông (dibba-cakkhu abhiññā) này, hành-giả hướng tâm đến đối-tượng paṭibhāganimitta của 1 trong 3 đề-mục: đề-mục-thiền-định tejokasiṇa hoặc đề-mục-thiền-định odātakasiṇa hoặc đề-mục-thiền-định ālokakasiṇa, nhập đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, để cho định-tâm vững chắc, sau đó xả đệ ngũ thiền sắc-giới tâm ra, rồi hướng tâm đến nhìn thấy các thứ vật bị che giấu kín đáo xung quanh chỗ ở của mình với parikammasamādhi, sơ-định giai đoạn đầu

đồng sinh với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ.

 

Nếu không nhìn thấy thì nhập đệ ngũ thiền sắc-giới thiền-tâm, rồi xả đệ ngũ thiền sắc-giới tâm ra, hướng tâm đến nhìn thấy như vậy nữa, cho đến khi thấy rõ các thứ vật bị che giấu kín đáo ấy với parikammasamādhi: được rồi, hành-giả luyện tập thiên-nhãn-thông tiếp theo.

 

Muốn luyện tập phép thiên-nhãn-thông (dibbacakkhu abhiññā), hành-giả hướng tâm đến đối-tượng paṭibhāga-nimitta của 1 trong 3 đề-mục: đề-mục-thiền-định tejokasiṇa hoặc đề-mục-thiền-định odātakasiṇa hoặc đề-mục-thiền-định ālokakasiṇa, khai triển paṭibhāganimitta ấy rộng ra quanh chỗ ở của mình, rồi lan rộng khắp quận, huyện, tỉnh, trong nước, ngoài nước, khắp thế giới, cho đến toàn khắp thế giới chúng-sinh, phía trên đến 6 cõi trời dục-giới, 16 cõi trời sắc-giới, phía dưới các cõi địa ngục, v.v… nhìn thấy theo ý của mình, rồi hành-giả nhập đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, sau đó xả đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm ra, hành-giả phát nguyện rằng:

 

“Xin cho tôi thấy rõ vật ấy,”

 

Rồi nhập trở lại đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm lần thứ nhì. Khi xả đệ ngũ thiền sắc-giới tâm ra, thì thiên-nhãn-thông lộ-trình-tâm (abhiññāvīthicitta) phát sinh, thành tựu sự thấy rõ vật ấy như ý nguyện.

 

Nếu thiên-nhãn-thông lộ-trình-tâm chưa phát sinh thì hành-giả cần phải nhập đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, rồi xả đệ ngũ thiền sắc-giới tâm ra, hành-giả thực-hành như trước, cho đến khi thiên-nhãn-thông lộ-trình-tâm  phát sinh, thành tựu sự thấy rõ vật ấy như ý nguyện.

 

Luyện tập 2 phép-thần-thông: Yathākammupaga abhiññā Anāgataṃsa abhiññā, phương-pháp thực-hành giống như phép thiên-nhãn-thông (dibbacakkhu abhiññā), hành-giả hướng tâm đến đối-tượng paṭibhāga-nimitta của 1 trong 3 đề-mục: đề-mục-thiền-định tejokasiṇa hoặc đề-mục-thiền-định odātakasiṇa hoặc đề-mục-thiền-định ālokakasiṇa, nhập đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, rồi xả đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, hành-giảphát nguyện điều muốn thấy, muốn biết, rồi nhập đệ ngũ thiền sắc-giới tâm lần thứ nhì. Khi xả đệ ngũ thiền sắc-giới tâm, thì thần-thông lộ-trình-tâm ấy phát sinh, thành tựu điều ấy như ý nguyện.

 

Đó là phương-pháp thực-hành để chứng đắc các phép-thần-thông tam-giới (lokiya abhiññā). 

 

Đối-Tượng Của Các Phép-Thần-Thông 

 

1-        Iddhividha abhiññā có 3 loại abhiññā phát sinh trong 7 đối-tượng: cõi dục-giới, cõi sắc-giới, hiện-tại, quá-khứ, vị-lai, bên trong mình, bên ngoài mình.

 

2- Dibbasota abhiññā phát sinh trong 4 đối-tượng: cõi dục-giới, hiện-tại, bên trong mình, bên ngoài mình.

 

3- Paracittavijānana abhiññā phát sinh trong 8 đối-tượng: cõi dục-giới, cõi sắc-giới, Thánh-đạo, Thánh- quả, hiện-tại, quá-khứ, vị-lai, bên ngoài mình.

 

4- Pubbenivāsanussati abhiññā phát sinh trong 7 đối-tượng: cõi dục-giới, cõi sắc-giới, siêu-tam-giới, quá-khứ, bên trong mình, bên ngoài mình, chế-định-pháp.

 

5- Dibbacakkhu abhiññā phát sinh trong 4 đối-tượng: cõi dục-giới, hiện-tại, bên trong mình, bên ngoài mình.

 

6- Yathākammūpaga abhiññā phát sinh trong 5 đối-tượng: cõi dục-giới, cõi sắc-giới, quá-khứ, bên trong mình, bên ngoài mình.

 

7- Anāgataṃsa abhiññā phát sinh trong 7 đối-tượng: cõi dục-giới, cõi sắc-giới, siêu-tam-giới, vị-lai, bên trong mình, bên ngoài mình, chế-định-pháp.

 

Iddhi: Pháp Thành-Tựu

 

Iddhi trong danh từ Iddhividha abhiññā có nghĩa là pháp thành-tựu. Iddhi có 10 loại:

1- Adhiṭṭhānā iddhi: Pháp thành-tựu phát sinh do năng lực phát nguyện,

2- Vikuppanā iddhi: Pháp thành-tựu phát sinh do phép-thần-thông biến hoá,

3- Manomayā iddhi: Pháp thành-tựu phát sinh do năng lực của tâm thiền-định,

 

4- Ñāṇavipphārā iddhi: Pháp thành-tựu phát sinh do năng lực A-ra-hán-Thánh-đạo chắc chắn sẽ chứng đắc trong kiếp chót,

 

5- Samādhivipphārā iddhi: Pháp thành-tựu phát sinh do năng lực của thiền-định, 

 

6- Ariyā iddhi: Pháp thành-tựu phát sinh do năng lực của bậc Thánh-A-ra-hán,

 

7- Kammavipākajā iddhi: Pháp thành-tựu phát sinh do năng lực của quả của nghiệp,

 

8- Puññavato iddhi: Pháp thành-tựu phát sinh do năng lực của phước-thiện,

 

9- Vijjāmayā iddhi: Pháp thành-tựu phát sinh do năng lực của phép-thuật,

 

10- Tattha tattha sammāpayogapaccayā iddhi: Pháp thành-tựu phát sinh do năng lực của sự tinh tấn không ngừng trong môn học chân chính nào đó.

 

Giảng Giải

 

1- Adhiṭṭhānā iddhi: Pháp thành-tựu phát sinh do năng lực phát nguyện:

 

Adhiṭṭhānā iddhi này thành tựu do phát nguyện.

 

Ví dụ: Một người phát nguyện trở thành hằng trăm người, hằng ngàn người, hoặc hằng trăm người, hằng ngàn người phát nguyện trở thành một người; hiện hình đến một nơi chốn do ý muốn của mình; tàng hình để không có ai thấy được, v.v…  

 

Adhiṭṭhānā iddhi này thành tựu do phát nguyện có nhiều loại theo ý nguyện của mình.

 

2- Vikuppanā iddhi: Pháp thành-tựu phát sinh do phép-thần-thông biến hoá:

 

Vikuppanā iddhi này biến hoá thân hình trở thành thế nào, hành-giả là thế ấy.

 

Ví dụ: Ngài Trưởng-lão Mahāmoggallāna biến hoá trở thành long vương đấu phép với long vương Nandopananda; Đức-vua trời Sakka hiện xuống cõi người, biến hoá trở thành ông cụ già nghèo khổ đón để bát cúng dường vật thực đến Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa đi khất thực, v.v…

 

3- Manomayā iddhi: Pháp thành tựu phát sinh do năng lực của tâm thiền-định:

 

Manomayā iddhi này, hành-giả hoá ra nhiều người như mình, còn hành-giả vẫn tự nhiên không có gì thay đổi.

 

Ví dụ: Ngài Đại-đức Cūḷapaṇḍaka sau khi trở thành bậc Thánh-A-ra-hán, Ngài hoá ra nhiều vị giống như Ngài, mà mỗi vị làm phận sự khác nhau trong ngôi chùa Ambavana tại kinh thành Rājagaha. v.v…

 

4- Ñāṇavipphārā iddhi: Sự thành-tựu phát sinh do năng lực A-ra-hán Thánh-đạo chắc chắn sẽ chứng đắc trong kiếp chót:

 

Ñāṇavipphārā iddhi phát sinh hộ trì kiếp chót do năng lực A-ra-hán Thánh-đạo chắc chắn sẽ chứng đắc trong kiếp ấy, cho nên không có một tai hoạ nào có thể gây ra tai hại đối với Ngài được.

 

Ví dụ: * Tóm lược tích Ngài Đại-đức Bākula([4]), kiếp chót Ngài sinh trong gia đình ông bà phú hộ Kosambī, khi Ngài mới sinh ra, các bà nhũ mẫu ẵm Ngài xuống sông Gaṅgā làm lễ tắm.

Một con cá lớn tưởng miếng mồi, nên nuốt Ngài vào trong bụng, nó nóng nảy bơi nhanh đến kinh thành Bāraṇasī, con cá lớn ấy bị đám dân chài bắt được, đem bán cho bà phú hộ Bāraṇasī không con. Bà tự tay mổ con cá ấy, nhìn thấy Ngài nằm an toàn trong bụng con cá như nằm trong phòng sang trọng, bà vô cùng hoan hỷ kêu lên rằng: “Tôi được một quý tử!” liền báo cho ông phú hộ hay tin mừng này.

 

Gia đình ông bà phú hộ Kosambī nghe tin như vậy, nên bà phú hộ liền đi xe cùng với đoàn tuỳ tùng lên đường đến kinh thành Bāraṇasī, tìm đến ngôi nhà ông bà phú hộ Bāraṇasī không con, xin đón nhận lại đứa con của mình, nhưng gia đình phú hộ Bāraṇasī khẳng định rằng: “Đó là đứa con của họ được từ trong bụng con cá, không phải là đứa con của bà.Bà không chịu trao cho.

 

Hai bên tranh chấp nhau, không rõ thuộc về bên nào, cuối cùng tất cả họ bồng đứa trẻ đến chầu Đức-vua, xin Đức-vua phán xét.

Đức-vua truyền bảo rằng:

- Này các ngươi! Đứa bé này là con của hai gia đình.

 

Tuân lệnh của Đức-vua, hai gia đình đều vui mừng hoan hỷ đều chấp thuận đứa bé là con chung của hai gia đình, nên đặt tên là “Bākula” có nghĩa là con của hai gia đình phú hộ.  

 

Công tử Bākula đượchai gia đình phú hộ nuôi dưỡng, trưởng thành hưởng mọi sự an-lạc trong đời suốt 80 năm. Công tử Bākula phát sinh tâm nhàm chán ngũ dục (sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, xúc dục) trong đời.

 

Từ đó, công tử Bākula từ bỏ gia đình, đi xuất gia trở thành tỳ-khưu trong Phật-giáo, không lâu, Ngài thực- hành pháp-hành-thiền-tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán.

 

Ngài Đại-đức Bākula duy trì sinh-mạng suốt 80 hạ, Ngài tịch diệt Niết-bàn năm 160 tuổi, chấm dứt tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

 

* Tóm lược tích Ngài Đại-đức Saṃkicca([5]), kiếp chót Ngài đầu thai trong bụng người mẹ thuộc gia đình giàu có trong kinh thành Sāvatthī.

 

Khi Ngài còn nằm trong bụng mẹ, thì mẹ của Ngài bị lâm bệnh, rồi chết. Gia đình đem thi thể của bà đưa ra nghĩa địa, đặt trên giàn hoả thiêu, tất cả các phần khác đều bị cháy, duy chỉ còn phần bụng hoàn toàn không bị cháy mà thôi. Nhóm người thợ thiêu đến mổ bụng ra, thấy đứa trẻ vẫn nằm mở mắt, nên họ ẵm Ngài trở về giao cho người thân trong gia đình. Họ vô cùng hoan hỷ đón nhận Ngài, đặt tên là Saṃkiccakumāra: Công tử Saṃkicca.

 

Công tử Saṃkicca được nuôi dưỡng đầy đủ sung túc, được hưởng mọi sự an-lạc. Đến khi lên 7 tuổi, công tử Saṃkicca suy xét thân phận cuộc đời của mình như vậy, nên Ngài không muốn sống tại gia mà Ngài muốn xin đi xuất gia.

 

Nghe Ngài xin đi xuất gia, toàn thể gia đình bà con đều hoan hỷ cho phép Ngài được như ý. Gia đình vốn là người thường hộ độ cúng dường Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, nên dẫn công tử Saṃkicca đến đảnh lễ Ngài Đại-Trưởng-lão, kính xin Ngài tế độ công tử Saṃkicca, cho phép xuất gia. Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta hoan hỷ chấp thuận tế độ công tử Saṃkicca. 

 

Trong buổi lễ xuất gia cho công tử Saṃkicca, trước tiên lễ cạo tóc, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta truyền dạy giới tử Saṃkicca pháp-hành thiền-định căn bản gốc  (mūlakammaṭṭhāna) đó là “Tacapañcakakammaṭṭhāna” pháp-hành niệm tưởng 5 thể trọc (trược) trước khi xuất gia Sa-di rằng:  

* Kesā, lomā, nakhā, dantā, taco (anuloma).

* Taco, dantā, nakhā, lomā, kesā (paṭiloma).

 
Nghĩa:
 

* Tóc, lông, móng, răng, da (theo chiều thuận).

* Da, răng, móng, lông, tóc (theo chiều nghịch).
 

Trong khi Ngài Đại-Trưởng-lão đang làm lễ cạo tóc cho giới tử, và giới tử Saṃkicca đang niệm tưởng 5 thể trọc theo chiều thuận và chiều nghịch, giới tử Saṃkicca chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán cùng với tứ tuệ paṭisambhidā đặc biệt, đồng thời cùng một lúc lễ cạo tóc xong, không trước không sau. v.v …

 

5- Samādhivipphārā iddhi: Sự thành tựu phát sinh do năng lực của thiền định:

 

Samādhivipphārā iddhi phát sinh hộ trì do năng lực thiền-định, cho nên không có một tai hoạ nào có thể gây ra tai hại đến hành-giả được.

 

Ví dụ: * Chuyện cận sự nữ Uttarā([6]) là bậc Thánh-Nhập-lưu đang niệm rải tâm từ đến cô kỹ nữ Sirimā, dù cô bị tạt gáo dầu bơ nóng vẫn không gây tai hại nào cả.

 

Chuyện như vầy: cận sự nữ Uttarā là con của ông phú hộ Puṇṇa; chồng của cô không có đức tin nơi Tam-Bảo, là con của ông phú hộ Rājagaha. Hằng ngày đêm, cô phải lo phục vụ chồng, nên không có thì giờ rảnh rỗi.

 

Muốn có thì giờ để làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến Đức-Phật cùng chư Đại-đức-Tăng và nghe chánh-pháp, cận-sự-nữ Uttarā thuê mướn kỹ nữ Sirimā đến phục vụ chồng của cô, giá một ngày đêm với số tiền 1.000 kahāpana trong suốt 15 ngày đêm, tổng số tiền là 15.000 kahāpana; kỹ nữ Sirimā liền chấp thuận ngay.

 

Khi ăn ở phục vụ chồng của cận-sự-nữ Uttarā, suốt 14 ngày đêm qua trong gia đình phú hộ đầy đủ tiện nghi, kỹ nữ Sirimā lại phát sinh tâm ganh tị với cận-sự-nữ Uttarā.

 

Hôm ấy, tại nhà bếp, cận-sự-nữ Uttarā đang sắp đặt mọi người lo mọi công việc nấu nướng các món ăn thức uống, để làm phước-thiện cúng dường đến Đức-Phật cùng chư Đại-Đức-Tăng.

 

Cận-sự-nữ Uttarā nhìn từ xa thấy kỹ nữ Sirimā tỏ vẻ mặt hầm hầm giận dữ đến chảo dầu bơ đang sôi, múc một gáo dầu bơ, rồi đi thẳng về phía cận-sự-nữ Uttarā. Ngay khi ấy, cận-sự-nữ Uttarā niệm rải tâm từ đến kỹ nữ Sirimā rằng:

 

“Xin cho cô Sirimā thân tâm thường được an-lạc. Nhờ cô đến phục vụ chồng ta, nên ta mới có cơ hội làm phước-thiện cúng dường đến Đức-Phật cùng chư Đại-đức Tăng và nghe chánh-pháp như thế này.

Vậy, công ơn của cô đối với ta thật là vô lượng. Nếu ta có tâm-sân đối với cô thì gáo dầu bơ kia có hại đến ta; còn nếu ta có tâm-từ đối với cô thật sự thì gáo dầu bơ nóng kia không có hại gì đến ta cả.”

 

Khi cận-sự-nữ Uttarā đang rải tâm từ và nghĩ như vậy, thì kỹ nữ Sirimā xăm xăm bước đến tạt gáo dầu bơ nóng trên đầu và mặt của cận-sự-nữ.

 

Do năng lực của tâm từ của cận-sự-nữ Uttarā thật sự, nên gáo dầu bơ nóng kia như là nước lạnh, nên không có tai hại gì đối với cận-sự-nữ Uttarā cả.

 

Biết tội lỗi của mình, cô kỹ nữ Sirimā đến cúi lạy cận- sự-nữ Uttarā, kính xin bà tha thứ lỗi, nhưng cận-sự-nữ Uttarā không chịu tha lỗi mà chỉ dẫn rằng:

 

- Này bạn thân mến! Khi nào Đức Từ-Phụ của tôi tha thứ lỗi, thì tôi mới tha thứ lỗi cho bạn được.

 

Nghe chỉ dẫn như vậy, kỹ nữ Sirimā không biết Đức Từ-Phụ ấy, nên thưa rằng:

 

- Kính thưa chị, Đức Từ-Phụ là Vị nào vậy?

 

- Này bạn thân mến! Đức Từ-Phụ chính là Đức-Thế-Tôn. Ngày mai, Đức Từ-Phụ sẽ ngự đến đây cùng chư Đại-Đức-Tăng thọ nhận vật thức. Bạn nên đến đây cúng dường vật thực đến Ngài và kính xin Ngài tha thứ lỗi cho bạn, thì tôi cũng sẽ tha thứ lỗi cho bạn.

 

Nghe cận sự nữ Uttarā chỉ dẫn như vậy, cô kỹ nữ Sirimā trở về nhà, khuyên bảo 500 nữ tuỳ tùng lo sắm sửa món ăn thức uống ngon lành ngày hôm sau đem đến cúng dường đến Đức-Thế-Tôn cùng chư Đại-đức-Tăng.

 

Ngày hôm sau, cô kỹ nữ Sirimā cùng nhóm 500 nữ tuỳ tùng đêm vật thực cùng chung với cận sự nữ Uttarā cúng dường đến Đức-Thế-Tôn cùng chư Đại-đức-Tăng.

 

Sau khi Đức-Thế-Tôn thọ thực xong, cận sự nữ Uttarā dẫn cô kỹ nữ Sirimā đến trình diện Đức-Thế-Tôn.

 

Cô kỹ nữ Sirimā thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, xin sám hối tội lỗi của mình, kính xin Ngài tha thứ.

 
Đức-Thế-Tôn truyền hỏi rằng:

- Này Sirimā con! Con có lỗi gì vậy?

 

Cô kỹ nữ Sirimā bạch với Đức-Thế-Tôn rõ về tội lỗi của mình đã xúc phạm đến chị Uttarā, người chủ thuê mướn cô.

 
Đức-Thế-Tôn truyền hỏi cận sự nữ Uttarā rằng:

- Này Uttarā con! Điều ấy có đúng sự thật như vậy hay không?

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Điều ấy có đúng sự thật như vậy. Bạch Ngài.

 

Khi ấy, Đức-Thế-Tôn nhận lời sám hối, tha thứ lỗi cho cô kỹ nữ Sirimā, rồi Ngài thuyết bài kệ dạy cận sự nữ Uttarā, đồng thời tế độ cô kỹ nữ Sirimā cùng nhóm 500 nữ tuỳ tùng của cô rằng:

 

Akkodhena jine kodhaṃ, asādhuṃ sādhunā jine.

Jine kadariyaṃ dānena, saccena nāli kavādinaṃ.”([7])

 

- Này Ut-ta-rà con!

Thắng được người sân hận,

Bằng tâm không sân hận.

Thắng được người bất-thiện,

Bằng thiện-pháp cao thượng.

Thắng được người keo kiệt,

Bằng phước-thiện bố-thí.

Thắng được người nói dối,

Bằng lời nói chân thật.

 

Sau khi nghe Đức-Thế-Tôn thuyêt bài kệ này, cô kỹ nữ Sirimā cùng nhóm 500 nữ tuỳ tùng của cô đều chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu-Thánh-đạo, Nhập-lưu-Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu.

 

* Chuyện Chánh-cung Hoàng-hậu Sāmāvatī([8]) cùng 500 bạn gái tuỳ tùng đều là bậc Thánh-Nhập-lưu bị Đức-vua Udena truyền lệnh sắp hàng dài, rồi Đức-vua  giương cung bắn bằng mũi tên độc, nhưng mũi tên không bay thẳng đến họ mà bay quay lại cắm xuống trước mặt Đức-vua. 

 

Chuyện như vầy: Đức-vua Udena đất nước Kosambī có 3 Chánh-cung Hoàng-hậu là bà Sāmāvatī, bà Suladattā, bà Māgaṇḍiyā.

 

Chánh-cung Hoàng-hậu Sāmāvatī cùng 500 bạn gái tuỳ tùng đều là bậc Thánh-Nhập-lưu, có đức tin trong sạch vững chắc nơi Tam-Bảo. Còn Chánh-cung Hoàng-hậu Māgaṇḍiyā đãtừng có oan trái nơi Đức-Phật, nên bà bày ra nhiều mưu thâm kế độc để hại Chánh-cung Hoàng-hậu Sāmāvatī, bởi vì bà có đức tin trong sạch nơi Đức-Phật.  

 

Đức-vua Udena ngự đến mỗi lâu đài nghỉ ngơi với mỗi Chánh-cung Hoàng-hậu theo kỳ hạn 7 ngày.

 

Thuở ấy, Đức-vua ngự đến lâu đài nghỉ ngơi với Chánh-cung Hoàng-hậu Māgaṇḍiyā đến ngày thứ 7 mãn kỳ hạn, rồi sẽ ngự tiếp đến lâu đài của Chánh-cung Hoàng-hậu Sāmāvatī.

 

Ngày thứ 7, bà Chánh-cung Hoàng-hậu Māgaṇḍiyā cho người báo tin với người chú của mình, hãy tìm cho bà một con rắn hổ mang, đem nhổ răng, diệt nọc độc, rồi gửi gấp cho bà. Người chú thi hành theo lời căn dặn của bà.

 

Đức-vua ngự đến lâu đài của mỗi Chánh-cung Hoàng-hậu, thường đem theo một cây đàn, trong cây đàn có lỗ nhỏ, nên bà bí mật bỏ con rắn hổ mang vào lỗ nhỏ ấy, rồi lấy hoa bịt lại, để lại chỗ cũ.

 Dù biết Đức-vua sẽ ngự đến lâu đài nào rồi, bà Chánh-cung Hoàng-hậu Māgaṇḍiyā vẫn tâu rằng:

 -Muôn tâu Hoàng-Thượng, ngày mai Hoàng-Thượng sẽ ngự đến lâu đài của Chánh-cung Hoàng-hậu nào vậy?

- Này Ái-khanh! Ngày mai trẫm sẽ ngự đến lâu đài của Chánh-cung Hoàng-hậu Sāmāvatī.

- Muôn tâu Hoàng Thượng, đêm qua thần thiếp nằm mộng điều không lành. Vậy, kính xin Hoàng-Thượng không nên ngự đến lâu đài của Chánh-cung Hoàng-hậu Sāmāvatī.

 

Mặc dù Chánh-cung Hoàng-hậu Māgaṇḍiyā tâu như vậy, Đức-vua vẫn ngự đến lâu đài của Chánh-cung Hoàng-hậu Sāmāvatī theo kỳ hạn thường lệ.

- Muôn tâu Hoàng-Thượng, kính xin Hoàng-Thượng cho phép thần thiếp tháp tùng cùng Hoàng-Thượng.

 Mặc dù ngăn cản không cho bà đi theo nhưng bà cũng vẫn đi theo. Khi Đức-vua mang theo cây đàn ngự đến lâu đài Chánh-cung Hoàng-hậu Sāmāvatī.

 

Đức-vua được Chánh-cung Hoàng-hậu Sāmāvatī cùng nhóm 500 bạn gái đón rước long trọng, dâng hoa và các vật thơm, Đức-vua thọ nhận, rồi ngự vào phòng, đặt cây đàn trên chỗ nằm. Đức-vua dùng các món ăn thức uống thượng vị, rồi nằm nghỉ.

 

Khi ấy, bà Māgaṇḍiyā làm bộ như đang săn sóc, nhằm lúc Đức-vua không để ý, bà nhổ bỏ cái hoa bịt lỗ cây đàn, thì con rắn hổ mang từ lỗ cây đàn bò ra. Bà Māgaṇḍiyā la thét lên:

“Rắn! Rắn! Muôn tâu Hoàng Thượng!”

 

 Con rắn hổ mang phùng mang tự vệ. Nhìn thấy con rắn hổ mang như vậy, Đức-vua hoảng sợ, nên nổi cơn thịnh nộ quát lên rằng:

- Các ngươi đã làm tội ác tày trời! Trước đây Trẫm không tin lời của Chánh-cung Hoàng-hậu Māgaṇḍiyā tâu rằng các ngươi đã có hành vi bất tuân theo lệnh của Trẫm. Hôm nay, các ngươi thả rắn hổ mang tại chỗ nằm của Trẫm, rõ ràng có ý ám hại Trẫm.

 

Khi ấy, bà Māgaṇḍiyā có cơ hội mắng nhiếc Chánh-cung Hoàng-hậu Sāmāvatī cùng nhóm 500 bạn gái tuỳ tùng của bà một cách thậm tệ.

 

Chánh-cung Hoàng-hậu Sāmāvatī khuyên dạy nhóm 500 bạn gái tuỳ tùng của mình rằng:

 

- Này các em yêu quý! Ta và các em hãy nên niệm rải tâm từ đến Hoàng Thượng cùng Chánh-cung Hoàng-hậu Māgaṇḍiyā. Ta và các em không được nổi tâm sân đến bất cứ một ai cả.

Đức-vua truyền lệnh bắt bà Chánh-cung Hoàng-hậu Sāmāvatī đứng đầu tiếp theo sau 500 bạn gái tuỳ tùng sắp thẳng hàng, Đức-vua lắp cây tên độc, rồi giương cung nhắm bắn ngay vào ngực của Chánh-cung Hoàng-hậu Sāmāvatī, với mũi tên này có khả năng xuyên qua ngực của và ngực của 500 bạn gái tuỳ tùng của bà cùng một lúc.

 

Đức-vua kéo căn dây cung bắn mũi tên bay ra khỏi cây cung, quay trở lại hướng về Đức-vua cắm phập xuống trước mặt, do năng lực tâm từ của Chánh-cung Hoàng-hậu Sāmāvatī và 500 bạn gái tuỳ tùng của bà.

 

Thấy điều phi thường chưa từng có như vậy, Đức-vua hoảng sợ suy xét rằng: “Mũi tên ấy được bắn ra rất mạnh có thể xuyên thủng tảng đá, trong khoảng không gian không có vật cản, tại sao mũi tên lại có thể quay trở lại dường như nhắm thẳng vào tim của ta. Sự thật, mũi tên không có tâm, không phải chúng-sinh, thế mà nó biết được ân-đức của Chánh-cung Hoàng-hậu Sāmāvatī; còn ta là người, sao ta lại không biết đến ân-đức của nàng.”

 

Đức-vua vội ném cây cung, ngự đến ngồi sát đôi chân của Chánh-cung Hoàng-hậu Sāmāvatī, chắp đôi tay đọc lên bài kệ rằng:  

 
“Trẫm hôn mê lầm lạc,
Trẫm mê muội hoàn toàn,
Đối với Trẫm các hướng,
Đều mờ mịt tối tăm,
Ái khanh Sāmāvatī!
Xin hãy che chở Trẫm,
Là nơi Trẫm nương nhờ.”
 

Nghe Đức-vua truyền bảo như vậy, Chánh-cung Hoàng-hậu Sāmāvatī vốn là cận sự nữ, cũng là bậc Thánh-Nhập-lưu Thanh-văn đệ tử của Đức-Phật, nên bà khuyên Đức-vua rằng:

 

Tâu Hoàng Thượng cao cả!

 Xin Người chớ nương nhờ,

Nơi thần thiếp thấp hèn,

Thần thiếp đã nương nhờ,

Nơi Đức-Phật cao thượng,

Xin Hoàng Thượng nương nhờ,

Đức-Phật cao thượng ấy,

Cuộc đời của thần thiếp,

Nương nhờ nơi Đức-Phật,

Xin Hoàng Thượng cũng vậy.”

 

Nghe lời khuyên chính đáng của Chánh-cung Hoàng-hậu như vậy, nhưng Đức-vua vẫn còn hổ thẹn tội lỗi, nên truyền bảo rằng:

 

- Này Ái khanh! Trẫm xin nương nhờ nơi ái khanh và cũng nương nhờ nơi Đức-Phật nữa. Trẫm ban ân huệ cho ái khanh. Ái khanh hãy nhận ân huệ của Trẫm.

- Muôn tâu Hoàng-Thượng, thần thiếp cúi xin nhận ân huệ của Hoàng Thượng. Kính xin Hoàng Thượng ban cho ân huệ mà thần thiếp mong muốn là:

 

* Kính thỉnh Hoàng-Thượng đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, xin quy y nương nhờ nơi Đức-Phật-Bảo, Đức- Pháp-Bảo, Đức-Tăng-Bảo.

 

* Kính thỉnh Đức-Phật cùng 500 chư Đại-đức-Tăng ngự vào cung điện, để cho thần thiếp có cơ hội làm phước-thiện bố-thí cúng dường suôt 7 ngày.

 

* Và kính xin Hoàng-Thượng bạch với Đức-Thế-Tôn, xin Ngài cho phép 500 chư Đại-đức-Tăng hằng ngày vào cung điện, để chúng thần thiếp có được cơ hội làm phước-thiện bố-thí cúng dường và nghe chánh-pháp.

 

Đức-vua chuẩn tấu, ban 3 ân huệ ấy cho Chánh-cung Hoàng-hậu Sāmāvatī, rồi Đức-vua ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, xin quy y nương nhờ nơi Tam-Bảo: Đức-Phật-Bảo, Đức-Pháp-Bảo, Đức-Tăng-Bảo, kính xin Đức-Thế-Tôn công nhận Đức-vua là cận-sự-nam đã quy y Tam Bảo trọn kiếp. 

 

Đức-vua kính thỉnh Đức-Thế-Tôn ngự vào cung điện cùng 500 chư Đại-đức-Tăng, để cho Chánh-cung Hoàng-hậu Sāmāvatī có cơ hội làm phước-thiện bố-thí cúng dường suôt 7 ngày.

 

Và hằng ngày, kính xin Đức-Thế-Tôn cho phép Ngài Đại-đức Ānanda dẫn 500 chư Đại-đức-Tăng vào cung điện, để cho những người trong hoàng cung làm phước-thiện bố-thí cúng dường.

 

Đức-Phật cho phép Ngài Đại-đức Ānanda dẫn 500 chư Đại-Đức-Tăng hằng ngày đi vào cung điện như lời thỉnh cầu của Đức-vua Udena, v.v…

 

6- Ariyā iddhi: Sự thành tựu phát sinh do năng lực của bậc Thánh-A-ra-hán.

 

Ariyā iddhi này phát sinh do năng lực của bậc Thánh-A-ra-hán.

 

Đối với bậc Thánh-A-ra-hán không có cảm giác ghê tởm trong vật đáng ghê tởm, bởi vì Ngài thực-hành suy xét về đề-mục tứ-đại: địa-đại, thuỷ-đại, hoả-đại, phong- đại, nên không có cảm giác đáng ghê tởm. Và cảm thấy nhàm chán trong những vật xinh đẹp đáng say mê, ưa thích, bởi vì Ngài suy xét về đề-mục bất tịnh, hoặc thấy rõ, biết rõ trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã.

 

7- Kammavipākajā iddhi: Sự thành-tựu phát sinh do năng lực của quả của nghiệp.

 

Kammavipākajā iddhi này phát sinh do năng lực của quả của nghiệp.

 

Ví dụ: * Quả của ác-nghiệp như con chim bay trên hư không, con cá ở dưới nước, v.v…

 

* Quả của thiện-nghiệp như chư-thiên trong 6 cõi trời dục-giới, chư phạm-thiên cõi trời sắc-giới, có thiên-nhãn, thiên-nhĩ, biến hoá ra nhiều thứ khác nhau.

 

Tuy long vương cùng các long nam, long nữ sinh trong cõi long cung do quả của ác-nghiệp trong thời kỳ tái sinh (paṭisandhikāla), nhưng sau thời kỳ đã tái sinh (pavatti-kāla) thiện-nghiệp cho quả, nên long vương, long nam, long nữ có khả năng hoá ra người, biến hoá ra nhiều phép, hiện lên cõi trời dục-giới, v.v…

 

Đó là sự thành-tựu phát sinh do năng lực quả của ác-nghiệp hoặc quả của thiện-nghiệp.

 

8- Puññavato iddhi: Sự thành-tựu phát sinh do năng lực của phước-thiện.

 

Puññavato iddhi này phát sinh do năng lực của quả của phước-thiện.

 

Ví dụ: Đức-vua Chuyển-luân-Thánh-vương có khả năng ngự trên xe báu bay khắp 4 châu cùng với các đoàn binh hộ giá; Ông phú hộ Jotika có lâu đài toàn bằng ngọc maṇi xuất hiện lên từ dưới đất; v.v…

 

9- Vijjāmayā iddhi: Sự thành tựu phát sinh do năng lực của phép thuật.

 

Vijjāmayā iddhi này phát sinh do năng lực luyện tập phép thuật.

 

Ví dụ: Người luyện tập mỗi phép thuật có khả năng đặc biệt biến hoá theo phép thuật ấy, v.v…

 

10- Tattha tattha sammāpayogapaccayā iddhi: Sự thành tựu phát sinh do năng lực của sự tinh tấn trong môn học chân chính nào đó.

 

Tattha tattha sammāpayogapaccayā iddhi này do năng lực của sự tinh tấn không ngừng trong môn học chân chính trong Phật-giáo như: pháp-học Phật-giáo, pháp-hành Phật-giáo, pháp-hành-thiền-định, pháp-hành-thiền-tuệ, v.v…

Trong đời như: ngành y khoa, dược khoa, khoa học, các bộ môn, v.v…

 
 

Quả Của Pháp-Hành-Thiền-Định

 

Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định:

 

* Nếu hành-giả mới đạt đến sơ-định (parikamma-samādhi) định-tâm ở giai đoạn đầu và cận-định (upacāra-samādhi) định-tâm ở giai đoạn giữa, cận bậc thiền sắc-giới, 2 loại định-tâm này còn thuộc dục-giới đại-thiện-tâm, thì có khả năng cho quả an-lạc bình thường trong kiếp hiện-tại.

 

Sau khi hành-giả chết, nếu thiện-nghiệp này có cơ hội cho quả tái sinh thì sinh làm người hoặc sinh làm chư-thiên 1 trong 6 cõi trời dục-giới, hưởng an-lạc trong cõi ấy cho đến tuổi thọ.

 

* Nếu hành-giả chứng đắc an-định (appanāsamādhi) là chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới và 4 bậc thiền vô-sắc-giới, thì được hưởng sự an-lạc vi tế ngay trong kiếp hiện-tại như sau:

 

1- Nhập bậc thiền đã chứng đắc để hưởng sự an-lạc trong kiếp hiện-tại,

 

2- Chứng đắc đủ 9 bậc thiền, có khả năng luyện tập phép-thần-thông (abhiññā),

 

3- Sử dụng bậc thiền làm nền tảng để thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ,

 

4- Bậc thiền hỗ trợ bậc Thánh nhập Thánh-quả-tâm,

 

5- Chứng đắc đủ 9 bậc thiền hỗ trợ bậc Thánh Bất- lai, bậc Thánh-A-ra-hán nhập diệt-thọ-tưởng,

 

6- Bậc thiền cho quả tái sinh kiếp sau kế tiếp.

 
Giảng Giải
 

1- Nhập thiền đã chứng đắc để hưởng sự an-lạc trong kiếp hiện-tại.

 

 Khi hành-giả đã chứng đắc bậc thiền nào rồi, muốn nhập thiền (jhānasamāpatti) ấy, để hưởng sự an-lạc trong bậc thiền ấy, hành-giả cần phải luyện tập 5 pháp-thuần- thục (vasībhāva) như sau:

 

Vasībhāva Có 5 Pháp-Thuần-Thục

 

1- Āvajjana vasībhhāva: Hành-giả có khả năng thuần thục quán triệt chi thiền với ý-môn-hướng-tâm,

 

2- Samāpajjana vasībhāva: Hành-giả có khả năng   thuần thục nhập bậc thiền ấy,

 

3-Adhiṭṭhāna vasībhāva: Hành-giả có khả năng thuần thục phát nguyện ấn định thời gian nhập bậc thiền ấy,

 

4- Vuṭṭhāna vasībhāva: Hành-giả có khả năng thuần thục ấn định thời gian xả bậc thiền ấy,

 

5- Paccavekkhaṇa vasībhāva: Hành-giả có khả năng thuần thục quán triệt chi thiền với tác-hành-tâm.

 

Hành-giả có 5 pháp thuần thục có khả năng nhập bậc thiền ấy, để hưởng sự an-lạc kiếp hiện-tại, trong khoảng thời gian suốt 1 giờ hoặc 2-3 giờ tuỳ theo ý nguyện của hành-giả.

 

Nếu hành-giả đã chứng đắc tất cả 5 bậc thiền sắc-giới và 4 bậc thiền vô-sắc-giới thì hành-giả muốn nhập bậc thiền nào do ý nguyện.

 

Ví dụ: Có ý nguyện muốn nhập đệ nhị thiền sắc-giới, hành-giả hướng tâm đến đối-tượng paṭibhāganimitta của đề-mục-thiền-định ấy, rồi nhập đệ nhị thiền sắc-giới, theo đệ nhị thiền sắc-giới lộ-trình-tâm (Jhānasamāpatti-

vīthicitta) các tâm sinh diệt tuần tự như sau:
 

Đồ Biểu Nhập Thiền Lộ-Trình-Tâm

 

     Đối-tượng cũ                                                             đối-tượng cũ 

       kiếp trước                                                                                     kiếp trước



 

      bha bha   na   da   ma pari upa anu got jha jha jha...   bhabha

 

Giải thích:

 
Hành-giả trước tiên nhập đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm theo lộ-trình-tâm jhānasamāpattivīthicitta như sau:
 

“Bhavaṅgacitta, bhavaṅgacalana, bhavaṅgupaccheda, manodvārāvajjanacitta, parikamma, upacāra, anuloma, gotrabhū, jhānakusalacitta (phát sinh liên tục nhiều sát-na-tâm), bhavaṅgacitta,… chấm dứt nhập thiền sắc-giới lộ-trình-tâm.  

 

Nhập Thiền Sắc-Giới Lộ-Trình-Tâm 

 

1- Bhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm trước, viết tắt     ( bha)

2- Bhavaṅgacalana: Hộ-kiếp-tâm rung động,      vt (na)

3- Bhavaṅgupaccheda: Hộ-kiếp-tâm bị cắt đứt,   vt (na)

4- Manodvāravajjanacitta: Ý-môn-hướng-tâm,   vt (ma)

5- Parikamma: Tâm chuẩn bị đệ nhất thiền,       vt (pari)

6- Upacāra: Tâm cận đệ nhất thiền,                    vt (upa)

7- Anuloma: Tâm thuận theo đệ nhất thiền          vt (upa)

8- Gotrabhu: Tâm chuyển cõi giới ,                      vt (got)

9- Jhānacitta: Thiền sắc-giới-tâm phát sinh liên tục sát-na-tâm suốt thời gian nhập bậc thiền sắc-giới ấy,         vt (jha)

10- Bhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm sau,                  vt (bha)

 

Chấm dứt nhập thiền sắc-giới lộ-trình-tâm, 

 

Hành-giả đã nhập đệ nhị thiền sắc-giới thì đệ nhị thiền sắc-giới tâm phát sinh liên tục trong suốt thời gian mà hành-giả đã phát nguyện 1 giờ hoặc 2-3 giờ theo ý nguyện của hành-giả.

 

Trong khi nhập thiền, chỉ có các đệ nhị thiền sắc-giới lộ-trình-tâm phát sinh trong ý-môn-lộ-trình-tâm mà thôi, hưởng sự an-lạc trong thiền.

 

Ngoài ra, ngũ-môn-lộ-trình-tâm không phát sinh, nên hành-giả không thấy, không nghe, không ngửi, không nếm, không cảm giác được các đối-tượng khác, cho đến khi mãn thời gian phát nguyện, đệ nhị thiền sắc-giới tự động chấm dứt.

 

Khi ấy, hành-giả trở lại cuộc sống bình thường, nhãn- thức-tâm nhìn thấy đối-tượng sắc; nhĩ-thức-tâm nghe đối-tượng âm thanh; tỷ-thức-tâm ngửi đối-tượng hương; thiệt-thức-tâm nếm đối-tượng vị; thân-thức-tâm cảm giác đối-tượng cứng mềm, nóng lạnh, … ý-thức-tâm biết các đối-tượng pháp, v.v…

 

2- Chứng đắc đủ 9 bậc thiền, có khả năng luyện tập phép-thần-thông (abhiññā).

 

Nếu chứng đắc đủ 9 bậc thiền: 5 bậc thiền sắc-giới và 4 bậc thiền vô-sắc-giới thì hành-giả có thể luyện tập phép tam-giới thần-thông (lokiya abhiññā).

 
Tam-giới thần-thông có 5 loại:
 

* Iddhividha abhiññā: Đa-dạng-thông,

* Dibbasota abhiññā: Thiên-nhĩ-thông,

* Paracittavijānana abhiññā: Tha-tâm-thông,

* Pubbenivasānussati abhiññā: Tiền-kiếp-thông,

*Dibbacakkhu abhiññā: Thiên-nhãn-thông.
 

3- Sử dụng bậc thiền làm nền tảng để thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ.

 

Sau khi đã chứng đắc bậc thiền nào rồi, hành-giả có thể sử dụng bậc thiền ấy làm nền tảng, làm đối-tượng, để thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ như sau:

 

* Nếu hành-giả sử dụng chi thiền (jhānaṅga) làm đối-tượng niệm-thọ (thọ lạc, thọ xả) trong thọ-niệm-xứ,thuộc về danh-pháp (nāmadhamma).

* Nếu hành-giả sử dụng tâm-thiền (jhānacitta) làm đối-tượng niệm-tâm (sắc-giới-tâm) trong tâm-niệm-xứ,thuộc về danh-pháp (nāmadhamma)…

* Sắc-ý-căn (Hadayavatthu) là nơi nương nhờ phát sinh thiền-tâm với chi thiền ấy thuộc về sắc-pháp (rūpadhamma).  

 

Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ có đối-tượng danh-pháp, sắc-pháp của bậc thiền ấy làm đối-tượng thiền-tuệ.

 

Khi hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ có đối-tượng-thiền-tuệ là danh-pháp hoặc sắc-pháp, trí-tuệphát sinh thấy rõ, biết rõ thật-tánh của danh-pháp, sắc-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp là pháp-vô-ngã.

 

Tiếp tục trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh-pháp, sắc-pháp, hiện rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn theo bậc thiền ấy, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán.

 
Bậc thiền ấy gọi là siêu-tam-giới-thiền-tâm có đối-tượng Niết-bàn.
 

Cho nên, siêu-tam-giới-thiền-tâm có 5 bậc thiền, từ đệ nhất thiền siêu-tam-giới-tâm cho đến đệ ngũ thiền siêu-tam-giới-tâm đều có đối-tượng Niết-bàn. ( khác với tam-giới-thiền-tâm có đối-tượng là 30 đề-mục-thiền-định).

 

4- Bậc thiền hỗ trợ Thánh-nhân nhập Thánh-quả-tâm.

 

Hành-giả là bậc Thánh-nhân đã chứng đắc Thánh-quả-tâm bậc cao cuối cùng, có ý nguyện muốn nhập Thánh-quả-tâm (Phalasamāpatti) ấy suốt thời gian 1 giờ hoặc 2-3 giờ theo ý nguyện của bậc Thánh-nhân ấy, để hưởng sự an-lạc tịch tịnh Niết-bàn. Hành-giả cần phải có bậc thiền hỗ trợ cho việc nhập Thánh-quả-tâm ấy.

 

Ví dụ: Nếu bậc Thánh-A-ra-hán đã chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thì chỉ nhập A-ra-hán-Thánh-quả mà thôi, còn 5 bậc thiền sắc-giới, bậc Thánh-A-ra-hán muốn sử dụng bậc thiền nào nhập A-ra-hán-Thánh-quả cũng được.

 

(Bậc Thánh-nhân đã chứng đắc Thánh-quả bậc cao không nhập Thánh-quả bậc thấp, còn chứng đắc đủ 5 bậc thiền sắc-giới, muốn nhập bậc thiền nào tuỳ theo ý nguyện của bậc Thánh-nhân.)

 

5- Chứng đắc đủ 9 bậc thiền hỗ trợ bậc Thánh-Bất- lai, bậc Thánh-A-ra-hán nhập diệt thọ tưởng.

 

Hành-giả là bậc Thánh-Bất-lai (Anāgāmī) hoặc bậc Thánh-A-ra-hán (Arahanta) có ý nguyện muốn nhập- diệt-thọ-tưởng (nirodhasamāpatti) cần phải có đủ 2 năng-lực (bala):

 

* Năng-lực của thiền-định (samathabala) chứng đắc 9 bậc thiền: 5 bậc thiền sắc-giới và 4 bậc thiền vô-sắc-giới.

 

* Năng-lực của thiền-tuệ (vipassanābala) phải là bậc Thánh-Bất-lai-Thánh-quả hoặc bậc Thánh-A-ra-hán-Thánh-quả.

 

Do nhờ 2 năng lực ấy, bậc Thánh-Bất-lai (Anāgāmī) hoặc bậc Thánh-A-ra-hán (Arahanta) có thể nhập-diệt- thọ-tưởng (nirodhasamāpatti) nghĩa là diệt tâm, tâm sở và sắc-pháp phát sinh từ tâm, (chỉ còn lại sắc-pháp phát sinh từ nghiệp, từ thời tiết và từ vật thực mà thôi) suốt thời gian 7 ngày đêm, hoàn toàn không có khổ thân, khổ tâm nào cả.

 

Qua 7 ngày đêm, tự động xả diệt-thọ-tưởng (nirodha-samāpatti), bậc Thánh-Bất-lai (Anāgāmī) hoặc bậc Thánh-A-ra-hán (Arahanta) trở lại cuộc sống bình thường thở vào, thở ra, 6 thức-tâm: nhãn-thức-tâm, nhĩ-thức-tâm, tỷ-thức-tâm, thiệt-thức-tâm, thân-thức-tâm, ý-thức-tâm tiếp xúc với 6 đối-tượng: đối-tượng sắc, đối-tượng thanh, đối-tượng hương, đối-tượng vị, đối-tượng xúc, đối-tượng pháp như bình thường.

 

(Nhập-Thánh-quả-tâm và nhập-diệt-thọ-tưởng sẽ giảng giải rộng trong phần II, Pháp-hành-thiền-tuệ, “Quả của thiền-tuệ”).

 

6- Bậc thiền cho quả tái sinh kiếp sau kế tiếp

 

* Sắc-giới-thiện-tâm5 bậc thiền, có 5 sắc-giới-thiện-nghiệp chắc chắn sẽ cho quả tái sinh kiếp sau kế tiếp trong 16 cõi trời sắc-giới Phạm-thiên.

 

* Vô-sắc-giới-thiện tâm4 bậc thiền, có 4 vô-sắc-giới-thiện-nghiệp chắc chắn sẽcho quả tái sinh kiếp sau kế tiếp trong 4 cõi trời vô-sắc-giới Phạm-thiên.

 

Nếu hành-giả đã chứng đắc các bậc thiền nào rồi, giữ gìn, duy trì các bậc thiền ấy cho đến chết, sau khi hành-giả chết chắc chắn chỉ có bậc thiền cao cuối cùng ấy cho quả tái sinh kiếp sau kế tiếp trong cõi trời sắc-giới hoặc cõi trời vô-sắc-giới phạm-thiên tương xứng với quả của bậc thiền ấy mà thôi. Còn lại bậc thiền thấp không có cơ hội cho quả tái sinh kiếp sau, trở thành vô-hiệu-quả.

 

Năm bậc thiền sắc-giới-thiện-tâm có quả là 5 bậc thiền sắc-giới-quả-tâm chắc chắn làm phận sự tái sinh kiếp sau kế tiếp trong 16 cõi trời sắc-giới Phạm-thiên. 

 

16 cõi trời sắc-giới Phạm-thiên phân chia ra 4 tầng trời theo 4 bậc thiền sắc-giới đối với hành-giả là hạng tikkhapuggala có trí-tuệ nhạy bén chỉ có 4 bậc thiền sắc-giới mà thôi, cho nên đệ nhị thiền sắc-giới-thiện-tâm và đệ tam thiền sắc-giới-thiện-tâm ghép chung lại kể là đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm.

 

Như vậy, thiền sắc-giới có 4 bậc đó là 4 bậc thiền sắc-giới-thiện-tâm có quả là 4 bậc thiền sắc-giới-quả-tâm làm phận sự tái sinh kiếp sau kế tiếp trong 4 tầng trời theo 4 bậc thiền sắc-giới-quả-tâm:

 

1- Tầng trời đệ nhất thiền sắc-giới quả-tâm có 3 cõi:

 

- Brahmapārisajjā: Cõi Phạm-chúng-thiên,

- Brahmapurohitā: Cõi Phạm-sư-thiên,

- Mahābrahnā: Cõi Đại-phạm-thiên.

 

2- Tầng trời đệ nhị thiền sắc-giới quả-tâm có 3 cõi :

 

- Parittābhā: Cõi Thiểu-quang-thiên,

- Appamāṇābhā: Cõi Vô-lượng-thiên,

- Ābhassarā: Cõi Quang-âm-thiên.

 

3- Tầng trời đệ tam thiền sắc-giới quả-tâm có 3 cõi:

 

- Parittasubhā: Cõi Thiểu-tịnh-thiên,

- Appamāṇābhā: Cõi Vô lượng-tịnh-thiên,

- Subhakiṇhā: Cõi Biến-tịnh-thiên.

 

4- Tầng trời đệ tứ thiền sắc-giới quả-tâm có 7 cõi:

 

- Vehapphalā: Cõi Quảng-quả-thiên,

- Asaññasattā: Cõi Vô-tưởng-thiên.

 
* Suddhāvāsa: Cõi Tịnh-cư-thiên có 5 cõi này chỉ dành cho bậc Thánh-Bất-lai chứng đắc đệ tứ thiền sắc-giới mà thôi.

- Avihā: Cõi Vô-phiền-thiên,

- Atappā: Cõi Vô-nhiệt-thiên,

- Sudassā: Thiện-hiện-thiên,

- Sudassī: Cõi Thiện-kiến-thiên,

- Akaniṭṭhā: Cõi Sắc-cứu-cánh-thiên.

 

Quả Của 4 Bậc Thiền Sắc-giới Thiện-Tâm

 

1- Quả Của Đệ Nhất Thiền Sắc-giới-Thiện-Tâm

 

* Nếu hành-giả đã chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới- thiện-tâm,sau khi chết thì chắc chắn đệ nhất thiền sắc-giới-thiện-tâm có quả là đệ nhất thiền sắc-giới-quả-tâm làm phận sự tái sinh kiếp sau kế tiếp trong tầng trời đệ nhất thiền sắc-giới quả-tâm có 3 bậc trong 3 cõi trời theo 3 địa vị:

 

* Đệ nhất thiền sắc-giới-quả-tâm bậc hạ làm phận sự tái sinh kiếp sau kế tiếp trong cõi Brahmapārisajjā: Phạm-chúng-thiên. Chư phạm-thiêntrong cõi này là thuộc hạ của Đại-phạm-thiên, có tuổi thọ 1/3 a-tăng-kỳ trụ ([9]) của kiếp trái đất.

 

* Đệ nhất thiền sắc-giới-quả-tâm bậc trung làm phận sự tái sinh kiếp sau kế tiếp trong cõi Brahmapurohitā: Phạm-sư-thiên. Chư phạm-thiên trong cõi này là cố vấn của Đại-phạm-thiên, có tuổi thọ 1/2 a-tăng-kỳ trụ của kiếp trái đất.

 

* Đệ nhất thiền sắc-giới-quả-tâm bậc thượng làm phận sự tái sinh kiếp sau kế tiếp trong cõi Mahābrahnā: Đại-phạm-thiên. Chư phạm-thiên là những bậc cao cả trong tầng trời này, có tuổi thọ 1 a-tăng-kỳ trụ của kiếp trái đất.

 

2- Quả Của Đệ Nhị Thiền Sắc-Giới-Thiện-Tâm

 

* Nếu hành-giả đã chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm,sau khi chết thì chắc chắn đệ nhị thiền sắc-giới-thiện-tâm có quả là đệ nhị thiền sắc-giới-quả-tâm làm phận sự tái sinh kiếp sau kế tiếp trong tầng trời đệ nhị thiền sắc-giới quả-tâm có 3 bậc trong 3 cõi trời theo 3 địa vị:

 

* Đệ nhị thiền sắc-giới-quả-tâm bậc hạ làm phận sự tái sinh kiếp sau kế tiếp trong cõi Parittābhā: Thiểu-quang-thiên. Chư phạm-thiên trong cõi này có hào quang kém thua chư Phạm-thiên bậc cao, có tuổi 2 đại kiếp trái đất.

 

* Đệ nhị thiền sắc-giới-quả-tâm bậc trung làm phận sự tái sinh kiếp sau kế tiếp trong cõi Appamāṇābhā: Cõi Vô-lượng-thiên. Chư phạm-thiên trong cõi này có hào quang vô lượng, có tuổi 4 đại kiếp trái đất.

 

* Đệ nhị thiền sắc-giới-quả-tâm bậc thượng làm phận sự tái sinh kiếp sau kế tiếp trong cõi Ābhassarā: Quang- âm-thiên. Chư phạm-thiên có hào quang sáng ngời phóng ra từ thân của Phạm-thiên, có tuổi 8 đại kiếp trái đất. 

 

3- Quả Của Đệ Tam Thiền Sắc-giới-Thiện-Tâm

 

* Nếu hành-giả đã chứng đắc đệ tam thiền sắc-giới- thiện-tâm,sau khi chết thì chắc chắn đệ tam thiền sắc-giới-thiện-tâm có quả là đệ tam thiền sắc-giới-quả-tâm làm phận sự tái sinh kiếp sau kế tiếp trong tầng trời đệ tam thiền sắc-giới quả tâm có 3 bậc trong 3 cõi trời theo 3 địa vị:

 

* Đệ tam thiền sắc-giới-quả-tâm bậc hạ làm phận sự tái sinh kiếp sau kế tiếp trong cõi Parittasubhā: Cõi Thiểu-tịnh-thiên. Chư Phạm-thiên trong cõi này có hào quang xinh đẹp tuyệt vời vẫn còn kém thua Phạm-thiên bậc cao, có tuổi 16 đại kiếp trái đất.

 

* Đệ tam thiền sắc-giới-quả-tâm bậc trung làm phận sự tái sinh kiếp sau kế tiếp trong cõi Appamāṇābhā: Cõi Vô-lượng-tịnh-thiên. Chư Phạm-thiên trong cõi này có hào quang xinh đẹp tuyệt vời vô lượng, có tuổi 32 đại kiếp trái đất.

 

* Đệ tam thiền sắc-giới-quả-tâm bậc thượng làm phận sự tái sinh kiếp sau kế tiếp trong cõi Subhakiṇhā: Cõi Biến-tịnh-thiên. Chư Phạm-thiên trong cõi này có hào quang xinh đẹp tuyệt vời tỏa ra toàn thân của Phạm-thiên, có tuổi 64 đại kiếp trái đất. 

 

 4- Quả Của Đệ Tứ Thiền Sắc-giới-Thiện-Tâm

 

Tầng trời đệ tứ thiền sắc-giới quả-tâm có 7 cõi: 

 

* Cõi Vehapphalā: Cõi Quảng-quả-thiên.

 

* Hành-giả là hạng phàm-nhân hoặc bậc Thánh-Nhập-lưu, hoặc bậc Thánh Nhất-lai đã chứng đắc đệ tứ thiền sắc-giới-thiện-tâm,sau khi chết thì chắc chắn đệ tứ thiền sắc-giới-thiện-tâm có quả là đệ tứ thiền sắc-giới-quả-tâmlàm phận sự tái sinh kiếp sau kế tiếp trong tầng trời đệ tứ thiền sắc-giới-quả-tâm gọi là cõi Vehapphalā: Cõi Quảng-quả-thiên. Chư Phạm-thiên trong cõi này có quả bền vững lâu dài cho đến hết tuổi thọ đủ 500 đại kiếp trái đất.

 

Còn 9 cõi trời sắc-giới bậc thấp là không bền vững:

 

* Nếu mỗi khi kiếp trái đất bị hủy hoại bằng lửa thì 6 cõi trời dục-giới và 3 cõi của tầng trời đệ nhất thiền sắc-giới cũng đều bị hủy hoại.

 

* Nếu mỗi khi kiếp trái đất bị hủy hoại bằng nước thì 6 cõi trời dục-giới, 3 cõi của tầng trời đệ nhất thiền sắc-giới và 3 cõi của tầng trời đệ nhị thiền sắc-giới cũng đều bị hủy hoại.

 

* Nếu mỗi khi kiếp trái đất bị hủy hoại bằng gió thì 6 cõi trời dục-giới, 3 cõi của tầng trời đệ nhất thiền sắc-giới, 3 cõi của tầng trời đệ nhị thiền sắc-giới và 3 cõi của tầng trời đệ tam thiền sắc-giới cũng đều bị hủy hoại, cho nên 9 cõi trời sắc-giới bậc thấp này có quả không bền vững lâu dài cho đến hết tuổi thọ. 

 

* Cõi Asaññasattā: Cõi Trời-Vô-Tưởng-Thiên

 

* Hành-giả là hạng phàm-nhân đã chứng đắc đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâmnày, vốn có tâm nhàm chán 4 danh-uẩn (thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn), bởi vì nhàm chán các tâm biết các đối-tượng, nên có ý nguyện chỉ muốn có sắc-uẩn mà thôi.

 

Cho nên, sau khi hành-giả chết, do nguyện lực của hành-giả, đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm không có quả là đệ tứ thiền sắc-giới-quả-tâm làm phận sự tái sinh kiếp sau kế tiếp, mà chỉ có sắc-phápJīvitanavakakalāpa: Nhóm sắc-pháp có sắc-mạng-chủ là thứ chín làm phận sự tái sinh kiếp sau kế tiếp trong cõi trời Vô-Tưởng-Thiên. Chư Phạm-thiên trong cõi trời Vô-Tưởng-Thiên này chỉ có nhất uẩnsắc-uẩn mà thôi.

 

Như vậy, chư Phạm-thiên này chỉ có thân mà không có tâm, có tuổi thọ sống lâu suốt 500 đại kiếp trái đất.

 

*Cõi Suddhāvāsa: Cõi Trời-Tịnh-Cư-Thiêncó 5 cõi:

 

Hành-giả là bậc Thánh-Bất-Lai (Anāgāmī) đã chứng đắc đệ tứ thiền sắc-giới-thiện-tâm. Sau khi chết chắc chắn đệ tứ thiền sắc-giới-thiện-tâm có quả là đệ tứ thiền sắc-giới-quả-tâm làm phận sự tái sinh kiếp sau kế tiếp trong cõi trời-Tịnh-Cư-Thiên (Suddhāvāsa).

 

Cõi trời-Tịnh-Cư-Thiên (Suddhāvāsa) có 5 cõi, bậc Thánh-Bất-Lai sau khi chết, đệ tứ thiền sắc-giới-quả-tâm làm phận sự tái sinh kiếp sau kế tiếp cõi nào trong 5 cõi tùy theo năng lực của 5 pháp-chủ (indriya) của Ngài.

 

* Nếu bậc Thánh-Bất-Lai có tín-pháp-chủ nhiều năng lực thì đệ tứ thiền sắc-giới-quả-tâm làm phận sự tái sinh kiếp sau kế tiếp trong cõi Avihā: Cõi trời Vô-phiền-thiên, có tuổi thọ 1.000 đại kiếp trái đất.

 

* Nếu bậc Thánh-Bất-Lai có tấn-pháp-chủ nhiều năng lực thì đệ tứ thiền sắc-giới-quả-tâm làm phận sự tái sinh kiếp sau kế tiếp trong cõi Atappā: Cõi Vô-nhiệt-thiên, có tuổi thọ 2.000 đại kiếp.

 

* Nếu bậc Thánh-Bất-Lai có niệm-pháp-chủ nhiều năng lực thì đệ tứ thiền sắc-giới-quả-tâm làm phận sự tái sinh kiếp sau kế tiếp trong cõi Sudassā: Thiện-hiện-thiên, có tuổi thọ 4.000 đại kiếp.

 

* Nếu bậc Thánh-Bất-Lai có định-pháp-chủ nhiều năng lực thì đệ tứ thiền sắc-giới-quả-tâm làm phận sự tái sinh kiếp sau kế tiếp trong cõi Sudassī: Cõi Thiện-kiến- thiên, có tuổi thọ 8.000 đại kiếp.

 

* Nếu bậc Thánh-Bất-Lai có tuệ-pháp-chủ nhiều năng lực thì đệ tứ thiền sắc-giới-quả-tâm làm phận sự tái sinh kiếp sau kế tiếp trong cõi Akaniṭṭhā: Cõi Sắc-cứu-cánh-thiên, có tuổi thọ 16.000 đại kiếp.

 

Bậc Thánh-Bất-Lai chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh- A-ra-hán tại 1 trong 5 cõi Tịnh-cư-thiên này, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, chấm dứt khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

 

Quả Của 4 Bậc Thiền Vô-Sắc-Giới-Thiện-Tâm  

 

Bốn bậc thiền vô-sắc-giới-thiện-tâm có quả là 4 bậc thiền vô-sắc-giới-quả-tâm làm phận sự tái sinh kiếp sau kế tiếp trong 4 cõi trời vô-sắc-giới. Chư phạm-thiên trong cõi trời vô-sắc-giới chỉ có 4 danh-uẩn (thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn) mà thôi, không có sắc-uẩn, nghĩa là chư Phạm-thiên trong cõi trời vô-sắc-giới này chỉ có tâm, mà không có thân.

 

4 Bậc Thiền Vô-Sắc-Giới Thiện-Tâm Và Quả

 

1- Nếu hành-giả đã chứng đắc đệ nhất thiền vô-sắc-giới-thiện-tâm gọi là Không-vô-biên-xứ-thiền-thiện-tâm (Ākāsānañcāyatanakusalacitta), sau khi hành-giả chết thì không-vô-biên-xứ-thiện-tâm có quả là không-vô-biên-xứ-quả-tâm làm phận sự tái sinh kiếp sau kế tiếp trong cõi Không-vô-biên-xứ-thiên, có tuổi thọ lâu dài suốt 20.000 đại kiếp trái đất.

 

2- Nếu hành-giả đã chứng đắc đệ nhị thiền vô-sắc-giới-thiện-tâm gọi là Thức-vô-biên-xứ-thiện-tâm (Viññāṇañ-cāyatanakusalacitta), sau khi hành-giả chết thì thức-vô-biên-xứ-thiện-tâm có quả là thức-vô-biên-xứ-quả-tâm làm phận sự tái sinh kiếp sau kế tiếp trong cõi Thức-vô-biên-xứ-thiên, có tuổi thọ lâu dài suốt 40.000 đại kiếp trái đất.

 

3- Nếu hành-giả đã chứng đắc đệ tam thiền vô-sắc-giới-thiện-tâm gọi là Vô-sở-hữu-xứ-thiện-tâm (Ākiñcañ-ñāyatanakusalacitta), sau khi hành-giả chết thì vô-sở-hữu-xứ-thiện-tâm có quả là vô-sở-hữu-xứ-quả-tâm làm phận sự tái sinh kiếp sau trong cõi Vô-sở-hữu-xứ-thiên, có tuổi thọ lâu dài suốt 60.000 đại kiếp trái đất.

 

4- Nếu hành-giả đã chứng đắc đệ tứ thiền vô-sắc-giới-thiện-tâm gọi là Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiện-tâm (Nevasaññānāsaññāyatanakusalacitta), sau khi hành-giả chết thì phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiện-tâm có quảphi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-quả-tâm làm phận sự tái sinh kiếp sau kế tiếp trong cõi Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiên, có tuổi thọ lâu dài suốt 84.000 đại kiếp trái đất.

 

Chư Phạm-Thiên Tử Sinh Luân Hồi

 

Chư Phạm-thiên còn là hạng phàm-nhân (chưa phải là bậc Thánh-nhân) sinh trong cõi trời sắc-giới hoặc cõi trời vô-sắc-giới nào, có tuổi thọ sống lâu bao nhiêu đi nữa, đến khi hết tuổi thọ tại cõi trời ấy, đều phải chết, rồi tái sinh kiếp sau trong cõi khác tùy theo thiện-nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau.

 

* Trong cõi trời sắc-giới, nếu vị Phạm-thiên nào không chỉ hưởng sự an-lạc trong cõi trời ấy, mà còn tiếp tục thực hành pháp-hành-thiền-định, dẫn đến chứng đắc bậc thiền nào thấp hơn, hoặc ngang bằng, hoặc cao hơn, thì sau khi vị phạm-thiên ấy chết, bậc thiền ấy sẽ cho quả tái sinh kiếp sau kế tiếp trong cõi trời sắc-giới hoặc cõi trời vô-sắc-giới tương xứng với quả của bậc thiền ấy như sau:

 

* Nếu chứng đắc bậc thiền sắc-giới-thiện-tâm nào thấp hơn, thì sau khi vị phạm-thiên ấy chết, bậc thiền sắc-giới-thiện-tâm thấp ấy cho quả là bậc thiền sắc-giới-quả-tâm thấp ấy làm phận sự tái sinh kiếp sau trong cõi trời sắc-giới thấp hơn, tương xứng với quả của bậc thiền sắc-giới thấp ấy.

 

* Nếu chứng đắc bậc thiền sắc-giới-thiện-tâm ngang bằng với bậc thiền cũ thì sau khi vị phạm-thiên ấy chết, bậc thiền sắc-giới thiện-tâm ngang bằng ấy cho quả là bậc thiền sắc-giới quả-tâm ngang bằng ấy làm phận sự tái sinh kiếp sau trở lại trong cõi trời sắc-giới ấy.

 

* Nếu chứng đắc bậc thiền sắc-giới-thiện-tâm nào cao hơn, thì sau khi vị phạm-thiên ấy chết, bậc thiền sắc-giới-thiện-tâm cao ấy cho quả là bậc thiền sắc-giới-quả-tâm cao ấy làm phận sự tái sinh kiếp sau trong cõi trời sắc-giới cao hơn, tương xứng với quả của bậc thiền sắc-giới cao ấy.

 

* Nếu vị phạm-thiên ấy không chứng đắc bậc thiền sắc-giới thiện tâm nào thì sau khi chết, dục-giới đại- thiện-nghiệp của kiếp trước cho quả tái sinh kiếp sau xuống cõi thiện-dục-giới là cõi người hoặc 1 trong 6 cõi trời dục-giới.

 

*Trong cõi trời sắc-giới Vô-tưởng-thiên, khi vị phạm-thiên hết tuổi thọ 500 đại kiếp trái đất, chết tại cõi trời ấy, dục-giới đại-thiện-nghiệp từ kiếp thứ 3 trở lui về trước sẽ cho quả tái sinh kiếp sau trong cõi thiện-dục-giới, sinh làm người hoặc sinh làm chư-thiên trong cõi trời-dục-giới.

 

* Trong cõi trời vô-sắc-giới, vị phạm-thiên nào  không chỉ hưởng sự an-lạc trong cõi trời ấy, mà còn tiếp tục thực-hành pháp-hành-thiền-định, dẫn đến chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới ngang bằng, hoặc cao hơn bậc thiền cũ, mà không thể chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới thấp hơn bậc thiền cũ, bởi vì không có đối-tượng-thiền-định, thì sau khi vị phạm-thiên ấy chết, bậc thiền vô-sắc-giới-thiện-tâm ngang bằng ấy sẽ cho quả là bậc thiền vô-sắc-giới-quả-tâm ngang bằng ấy làm phận sự tái sinh kiếp sau trở lại trong cõi trời vô-sắc-giới ấy.

 

* Nếu chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới-thiện-tâm cao hơn bậc thiền cũ thì sau khi vị phạm-thiên ấy chết, bậc thiền vô-sắc-giới-thiện-tâm cao hơn ấy sẽ cho quả là bậc thiền vô-sắc-giới-quả-tâm cao hơn ấy làm phận sự tái sinh kiếp sau trong cõi trời vô-sắc-giới cao hơn, tương xứng với quả của bậc thiền vô-sắc-giới cao ấy.

 

* Trong cõi trời vô-sắc-giới Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiên tột đỉnh, vị phạm-thiên ấy chỉ có thể chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới-thiện-tâm ngang bằng với bậc thiền cũ là bậc thiền phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiện-tâm mà thôi. Khi vị phạm-thiên hết tuổi thọ lâu dài suốt 84.000 đại kiếp trái đất, sau khi chết, bậc thiền phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiện-tâm cho quả là bậc thiền phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-quả-tâm làm phận sự tái sinh kiếp sau trở lại cõi trời vô-sắc-giới cũ ấy.

 

* Nếu vị phạm-thiên ấy không chứng đắc lại bậc thiền phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiện-tâm cũ thì sau khi chết, dục-giới đại-thiện-nghiệp của kiếp trước cho quả tái sinh kiếp sau xuống cõi thiện-dục-giới, sinh làm người trong cõi người hoặc sinh làm chư-thiên trong cõi trời dục-giới.

 

Như vậy, mỗi chúng-sinh là phàm-nhân vẫn còn luẩn quẩn quanh vòng-tử-sinh-luân-hồi trong 3 giới 4 loài.

 

* Dù cõi thấp tột cùng trong cõi đại địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp, bị thiêu đốt không ngừng trong suốt thời gian lâu dài không sao kể được, cũng đến lúc mãn quả của ác-nghiệp, thoát ra khỏi cõi đại địa-ngục Avīci, rồi tái sinh kiếp sau nơi cõi khác tuỳ theo quả nghiệp của họ.

 

* Dù cõi cao tột đỉnh trong cõi trời vô-sắc-giới phi-tưởng-phi-phi-tưởng-thiên hưởng quả an-lạc trong suốt thời gian 84.000 đại kiếp trái đất, cũng đến lúc hết tuổi thọ, rồi cũng phải tái sinh kiếp sau xuống cõi dục-giới.

 
Cho nên,

* đối với tất cả chúng-sinh còn là hạng phàm-nhân không phải là bậc Thánh-nhân luẩn quẩn quanh vòng tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài từ vô thuỷ đến vô chung.

 

Cho nên, trong tam-giới gồm có 31 cõi chỉ là nơi tạm-trú của tất cả chúng-sinh mà thôi, chắc chắn không có cõi nào gọi là nơi thường-trú của chúng-sinh nào cả.

 

* Đối với các bậc Thánh-nhân tuy cũng trải qua vòng tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài từ vô thuỷ, nhưng hữu chung, chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh-A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

 

Như vậy, thực-hành pháp-hành-thiền-định, nếu hành-giả có khả năng chứng đắc các bậc thiền sắc-giới-thiện-tâm và các bậc thiền vô-sắc-giới-thiện-tâm, sau khi hành-giả chết chắc chắn bậc thiền thiện-tâm nào cao nhất được ưu tiên cho quả-tâm làm phận sự tái sinh kiếp sau trong cõi trời tương xứng với quả của bậc thiền quả tâm ấy. Còn các bậc thiền thiện-tâm thấp đều trở thành vô-hiệu-quả. 

 

Vị phạm-thiên hưởng quả an-lạc trong suốt thời gian lâu dài cho đến lúc hết tuổi thọ tại cõi trời ấy, rồi cũng phải tái sinh kiếp sau trong cõi khác, quanh quẩn không giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.    

 

Vậy, muốn giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài, hành-giả cần phải thực-hành pháp-hành-thiền-tuệdẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết-bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài, mới hoàn toàn giải thoát khổ.  

 
          (Xong phần I, Pháp-Hành-Thiền-Định)
 
 

Thực-Hành Pháp-Hành 

 
Trong Phật-giáo có 3 pháp-hành chính:
 
1- Pháp-hành-giới,

2- Pháp-hành-thiền-định,

3- Pháp-hành-thiền-tuệ.

 

1- Pháp-Hành-Giới

 

 Pháp-hành-giới là pháp-hành mà hành-giả cần phải thực-hành ở giai đoạn đầu, để làm nền tảng cho pháp-hành-thiền-định và pháp-hành-thiền-tuệ.

 

Hành-giả thực-hành pháp-hành-giới, tác-ý thiện-tâm (cetanākusala) giữ gìn thân và khẩu tránh xa mọi hành-ác, hoặc tránh xa sự phạm giới, để giữ gìn giới của mình cho được trong sạch và trọn vẹn, để làm nền tảng cho pháp-hành-thiền-định và pháp-hành-thiền-tuệ được phát triển.

 

Nếu giới không trong sạch và trọn vẹn thì pháp-hành-thiền-định, pháp-hành-thiền-tuệ không thể phát triển được. Cho nên, pháp-hành-giới là pháp-hành mà hành-giả cần phải thực-hành ở giai đoạn đầu.

 

Hành-giả có nhiều hạng, nên giới cũng có nhiều loại.

 

* Đối với hành-giả là vị tỳ-khưu có 4 giới cơ bản gọi là catupārisuddhisīla: tứ thanh-tịnh-giới:

 

1- Pātimokkhasaṃvarasīla: Giới cơ-bản của tỳ-khưu giữ gìn cho được trong sạch và trọn vẹn.

 

2- Indryasaṃvarasīla: Giới của tỳ-khưu giữ gìn 6 môn: nhãn-môn, nhĩ-môn, tỷ-môn, thiệt-môn, thân-môn, ý-môn không cho phiền-não phát sinh.

 

3- Ājīvapārisuddhisīla: Giới của tỳ-khưu nuôi mạng trong sạch thanh-tịnh,

 

4- Paccayasannisitasīla: Giới của tỳ-khưu nương nhờ chân chính trong 4 thứ vật dụng: y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị, bệnh.

 

 * Pātimokkhasaṃvarasīla: Giới cơ-bản của tỳ-khưutrong Bhikkhupātimokkhasīla có 227 điều giới, trong Tạng-luật gồm có 91.805.036.000 điều giới ([10]) theo bộ Visuddhi-magga (Thanh-tịnh-đạo). Tỳ-khưu có đức tin vững vàng giữ gìn giới cho được trong sạch và trọn vẹn, để làm nền tảng cho pháp-hành-thiền-định và pháp-hành-thiền-tuệ.

 

* Indriyasaṃvarasīla: Giới của tỳ-khưu giữ gìn 6  môn: nhãn-môn, nhĩ-môn, tỷ-môn, thiệt-môn, thân-môn, ý-môn không cho phiền-não phát sinh như sau:

- Khi tỳ-khưu thấy đối-tượng sắc bằng nhãn-thức-tâm, giữ gìn nhãn-môn-lộ-trình-tâm không để cho mọi phiền-não phát sinh.

- Khi tỳ-khưu nghe đối-tượng thanh bằng nhĩ-thức-tâm, giữ gìn nhĩ-môn-lộ-trình-tâm không để cho mọi phiền-não phát sinh.

- Khi tỳ-khưu ngửi đối-tượng hương bằng tỷ-thức-tâm, giữ gìn tỷ-môn-lộ-trình-tâm không để cho mọi phiền-não phát sinh.

 - Khi tỳ-khưu nếm đối-tượng vị bằng thiệt-thức-tâm, giữ gìn thiệt-môn-lộ-trình-tâm không để mọi phiền-não phát sinh.

- Khi tỳ-khưu xúc-giác đối-tượng xúc bằng thân-thức-tâm, giữ gìn thân-môn-lộ-trình-tâm không để cho mọi phiền-não phát sinh.

 - Khi tỳ-khưu biết đối-tượng pháp bằng ý-thức-tâm, giữ gìn ý-môn-lộ-trình-tâm không để cho không cho mọi phiền-não phát sinh.

Tỳ-khưu có chánh-niệm giữ gìn 6 môn: nhãn-môn, nhĩ-môn, tỷ-môn, thiệt-môn, thân-môn, ý-môn không cho phiền-não phát sinh.

 

* Ājīvapārisuddhisīla: Giới của tỳ-khưu nuôi mạng trong sạch thanh-tịnh. Mỗi ngày, tỳ-khưu nuôi mạng chân chánh, trong sạch thanh tịnh bằng cách tinh tấn đi khất thực kiếm đủ vật thực nuôi mạng trong mỗi ngày.

 

* Paccayasannisitasīla: Giới của tỳ-khưu nương nhờ chân chính trong 4 thứ vật dụng cần thiết là y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh.

 

Khi thọ dụng thứ vật dụng nào, y phục, hoặc vật thực, hoặc chỗ ở, hoặc thuốc trị bệnh, tỳ-khưu có trí-tuệ sáng suốt thấy rõ, biết rõ thứ vật dụng ấy rằng: “dhātumattako nissatto nijjīvo suñño”chỉ là thực-tánh-pháp mà thôi, phi chúng-sinh, phi bản mệnh vĩnh cửu, pháp-vô-ngã, không phải ta…”

 

Vị tỳ-khưu thực-hành đầy đủ 14 pháp-hành([11]) của tỳ-khưu v.v… Vị tỳ-khưu cần phải thực-hành pháp-hành giới của mình cho trong sạch và trọn vẹn, để làm nền tảng cho pháp-hành-thiền-định và pháp-hành-thiền-tuệ.

 
* Đối với hành-giả là vị sa-di có các giới cơ bản:  
 

- 10 điều giới cơ bản của sa-di,  

- 10 pháp hoại phạm hạnh sa-di,

- 10 pháp-hành phạt sa-di,

- 75 điều giới hành của sa-di

- 14 pháp-hành của sa-di và tỳ-khưu.

 

Vị sa-di cần phải thực-hành pháp-hành giới của mình cho trong sạch và trọn vẹn.

 

*Đối với hành-giả là cận-sự-nam, cận-sự-nữ có các giới như sau:

 

- Ngũ giới là thường-giới của người tại gia,

- Bát giới Ājīvaṭṭhamakasīla xem như thường-giới.

 

Ngoài ra, còn có bát-giới uposathasīla, cửu-giới upo-sathasīla, thập-giới của người tại gia tùy theo khả năng của mỗi người cận-sự-nam, cận-sự-nữ.

 

 Tất cả mọi hành-giả là bậc xuất gia tỳ-khưu, sa-di hoặc cận-sự-nam, cận-sự-nữ đều phải thực-hành pháp-hành giới của mình cho trong sạch và trọn vẹn, để làm nền tảng cho pháp-hành-thiền-định và pháp-hành-thiền-tuệ.

 

Pháp-hành giới thuộc về dục-giới thiện-nghiệp, sau khi hành-giả chết, dục-giới thiện-nghiệp này cho quả tái sinh kiếp sau trong cõi thiện-giới: cõi người, 6 cõi trời dục-giới, hưởng mọi sự an-lạc trong cõi ấy cho đến hết tuổi thọ.

 

2- Pháp-Hành-Thiền-Định

 

Sau khi hành-giả thực-hành pháp-hành-giới ở giai đoạn đầu của mình được trong sạch và trọn vẹn, làm nền tảng cho pháp-hành-thiền-định. Tiếp theo hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-địnhở giai đoạn giữa.

 

Pháp-hành-thiền-địnhcó 40 đề-mục-thiền-định, dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới-tâm và 4 bậc thiền vô-sắc-giới-tâm.

 

Nếu hành-giả có khả năng chứng đắc được bậc thiền sắc-giới-thiện-tâm, hoặc bậc thiền vô-sắc-giới-thiện-tâm, sau khi hành-giả chết, thì chắc chắn bậc thiền thiện-tâm nào cao nhất được ưu tiên cho quả-tâm làm phận sự tái sinh kiếp sau trong cõi trời tương xứng với quả của bậc thiền ấy, vị phạm-thiên hưởng quả an-lạc trong suốt thời gian lâu dài cho đến lúc hết tuổi thọ tại cõi trời ấy, rồi cũng phải tái sinh kiếp sau trong cõi khác, quanh quẩn không giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.    

 

3- Pháp-Hành-Thiền-Tuệ

 

Sau khi hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định ở giai đoạn giữa, chứng đắc được bậc thiền nào, hành-giả có thể sử dụng bậc thiền ấy làm nền tảng, làm đối-tượng của pháp-hành-thiền-tuệ. Tiếp theo thực-hành pháp-hành-thiền-tuệở giai đoạn cuối.

 

Pháp-hành-thiền-tuệdanh-pháp, sắc-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) làm đối-tượng

thiền-tuệ, hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ phát sinh trí-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của danh-pháp, sắc-pháp là pháp-vô-ngã; tiếp theo trí-tuệ-thiền-tuệ tiến triển thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh-pháp, sắc-pháp, hiện rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã của danh-pháp, sắc-pháp, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt mọi phiền-não, mọi tham-ái không còn dư sót, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

 
        Nghi Thức Thọ Pháp-Hành-Thiền
 

 Lễ thọ pháp-hành-thiền là việc làm theo truyền thống từ thời kỳ Đức-Phật cho đến nay. Khi Đức-Phật còn hiện hữu trên thế gian, các tỳ-khưu đền hầu Đức-Phật kính xin thọ pháp-hành-thiền-định hoặc pháp-hành-thiền-tuệ, rồi tìm nơi thanh vắng để thực hành, hoặc đến xin thọ pháp-hành nơi vị Đại-trưởng-lão, hoặc Đại-đức, v.v..

 

Khi làm lễ thọ pháp-hành-thiền, nếu hành-giả là cận-sự-nam, cận-sự-nữ nên làm lễ thọ tam-quy và chánh-mạng-đệ-bát-giới (ājīvaṭṭhamakasīla) nghĩa là giới thứ 8 là giới-chánh-mạng từ vị Thiền-sư.

 

Trước khi thọ tam-quy, hành-giả nên làm lễ sám hối lỗi lầm của mình trước sự hiện diện vị Thiền-sư chứng minh, để tránh mọi sự trở ngại, trong khi thực hành pháp-hành-thiền-tuệ như sau:

 

1-  Nghi Thức Sám Hối   

 

Hành-giả nên thành tâm sám hối rằng:

 

- Kính bạch Ngài Đại-đức, xin phép Ngài, con xin thành tâm sám hối những lỗi lầm do cố ý hoặc vô ý phạm đến Đức-Phật, Đức-Pháp. Đức-Tăng, Tam-Bảo, cùng với các bậc Thầy tổ, cha mẹ,… từ trước cho đến hiện-tại này. Kể từ nay về sau, con hết sức cố gắng thu thúc giữ gìn không để tái phạm.

Kính xin Ngài chứng minh cho con, và nhận biết những lỗi lầm của con. Bạch Ngài.

Do tác-ý thiện-tâm này, nên tất cả mọi điều tai hại không xảy đến với con, và nguyện vọng thực hành pháp-hành-thiền-tuệ cho được thành tựu. (Đảnh lễ 3 lần)

 

Ngài Đại-đức Thiền-sư khuyên dạy:

- Này hành-giả! Con đã nhận biết những lỗi lầm do cố ý hoặc vô ý phạm đến Đức-Phật, Đức-Pháp. Đức-Tăng, Tam-Bảo, cùng với các bậc Thầy tổ, cha mẹ,… từ trước cho đến hiện-tại này.

Sư chứng minh và nhận biết sự thành tâm sám hối, sửa chữa những lỗi lầm của con.

 

Vậy, kể từ nay về sau, con phải nên cố gắng giữ gìn thân, khẩu, ý tránh không để tái phạm. Người nào đã nhận biết được lỗi lầm của mình, rồi biết sám hối, sửa chữa đúng theo pháp luật của Đức-Phật, thì người ấy chắc chắn sẽ tiến hoá mọi thiện-pháp trong giáo pháp của Đức-Phật.  

 

Hành-giả bạch rằng: “Sādhu! Bhante, Sādhu! Lành thay! Lành thay! Bạch Ngài”.

 
2- Lễ Thọ Tam-Quy Và Chánh-Mạng Đệ Bát-Giới
 

Hành-giả đảnh lễ vị Thiền-sư xong, rồi hành nghi lễ theo tuần tự như sau:

 
Lễ Sám Hối Tam-Bảo
 
* Lễ Sám Hối Đức-Phật-Bảo,
 
Uttamaṅgena vande’haṃ,
Pādapaṃsuṃ varuttamaṃ.
Buddhe yo khaliko doso,
Buddho khamatu taṃ mamaṃ.
 
Con hết lòng thành kính cuối đầu đảnh lễ,
Bụi trần dưới bàn chân cao thượng của Đức-Phật.
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Phật-bảo,
Cúi xin Phật-bảo xá tội ấy cho con. (đảnh lễ).
 
* Lễ Sám Hối Đức-Pháp-Bảo,
 
Uttamaṅgena vande’haṃ,
Dhammañca duvidhaṃ varaṃ.
Dhamme yo khaliko doso,
Dhammo khamatu taṃ mamaṃ.
 
Con hết lòng thành kính cuối đầu đảnh lễ,
Hai hạng Pháp-bảo: pháp-học và pháp-hành,
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Pháp-bảo,

Cúi xin Pháp-bảo xá tội ấy cho con. (đảnh lễ).

 
* Lễ Sám Hối Đức-Tăng-Bảo
 
Uttamaṅgena vande’haṃ,
Saṃghañca duvidhuttamaṃ.
Saṃghe yo khaliko doso,
Saṃgho khamatu taṃ mamaṃ.
 
Con hết lòng thành kính cuối đầu đảnh lễ,
Hai bậc Tăng-bảo: phàm-Tăng và Thánh-Tăng,
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Tăng-bảo,
Cúi xin Tăng-bảo xá tội ấy cho con. (đảnh lễ).
 
Bài Kệ Cầu Nguyện
 
Iminā puññakammena,
Sabbe bhayā vinassantu.
Nibbānaṃ adhigantuṃ hi,
Sabbadukkhā pamuccāmi.
 
Do nhờ năng lực thiện-tâm sám hối này,
Cầu xin mọi tai hoạ hãy đều tiêu diệt,
Mong chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn,  
Cầu mong giải thoát mọi cảnh khổ tái sinh.
 
* Lễ Thọ Tam-Quy Và Ājīvaṭṭhamakasīla
 
 Nếu một hành-giả (số ít) thì đọc như sau:
 

AhaṃBhante, tisaraṇena saha ājīvaṭṭhamakasīlaṃ dhammaṃ yācāmianuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me Bhante.

 

Dutiyampi, ahaṃBhante, tisaraṇena saha ājivaṭṭhamaka-sīlaṃ dhammaṃ yācāmianuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me Bhante.

 

Tatiyampi, ahaṃBhante, tisaraṇena saha ājivaṭṭhamaka-sīlaṃ dhammaṃ yācāmianuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me Bhante.

 

* Nếu nhiều hành-giả (số nhiều) thì đọc như sau:

 

Mayaṃ Bhante, tisaraṇena saha ājīvaṭṭhamakasīlaṃ dhammaṃ yācāmaanuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha no Bhante.

 

Dutiyampi, mayaṃ Bhante, tisaraṇena saha ājivaṭṭha-makasīlaṃ dhammaṃ yācāmaanuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha no Bhante.

 

Tatiyampi, mayaṃBhante, tisaraṇena saha ājīvaṭṭha-makasīlaṃ dhammaṃ yācāmaanuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha no Bhante.

 
Nghĩa:
 

- Kính bạch Đại-đức, Con xin thọ trì tam-quy cùng chánh-mạng-đệ-bát-giới. Kính xin Ngài Đại-đức từ bi hướng dẫn tam-quy cùng chánh-mạng-đệ-bát-giới cho con. Bạch Ngài.

 

- Kính bạch Đại-đức, Con xin thọ trì tam-quy cùng chánh-mạng-đệ-bát-giới. Kính xin Ngài Đại-đức từ bi hướng dẫn tam-quy cùng chánh-mạng-đệ-bát-giới cho con, lần thứ nhì. Bạch Ngài.

 

- Kính bạch Đại-đức, Con xin thọ trì tam-quy cùng   chánh-mạng-đệ-bát-giới. Kính xin Ngài Đại-đức từ bi hướng dẫn tam-quy cùng chánh-mạng-đệ-bát-giới cho con, lần thứ ba. Bạch Ngài.       

 (Hành-giả đảnh lễ 3 lần)

 

Vị Thiền-sư hướng dẫn

 
Ths: Yamahaṃ vadāmi, taṃ vadehi.
 

(Sư hướng dẫn từng câu nào, con nên đọc theo đúng từng câu ấy).

 

Hg:   Āma. Bhante. (Dạ, xin vâng. Bạch Ngài).

Ths: Namo tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa.   

                                                                                        (3 lần).

* Thọ Phép Quy-Y Tam-Bảo
 

- Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi,

   Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật,

- Dhamaṃ saraṇaṃ gacchāmi,

 Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp,

- Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

   Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng,

 

- Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi,

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật, lần thứ nhì,

- Dutiyampi Dhamaṃ saraṇaṃ gacchāmi,

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp, lần thứ nhì,

- Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng, lần thứ nhì,

 

- Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi,

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật, lần thứ ba,

- Tatiyampi Dhamaṃ saraṇaṃ gacchāmi,

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp, lần thứ ba,

- Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng, lần thứ ba.

 

Ths: Tisaraṇagamanaṃ paripuṇṇaṃ.

       (Phép quy y Tam-Bảo trọn vẹn bấy nhiêu)

 

Hg:   Āma. Bhante. (Dạ, xin vâng. Kính bạch Ngài).

 
* Thọ trì Ājīvaṭṭhamakasīla
 

1- Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự sát sinh.

 

2- Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự trộm cắp.

 

3- Kāmesu micchācārā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự tà dâm.

 

4- Musāvādā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự nói dối.

 

5- Pisuṇavācā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa nói lời chia rẽ

 

6- Pharusavācā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa nói lời thô tục.

 

7- Samphappalāpā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.   

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa nói lời vô ích.

 

8- Micchājīvā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa cách sống tà mạng.

 

Tisaraṇena saha ājīvaṭṭhamakasīlaṃ dhammaṃ sādhukaṃ katvā, appamādena sampādetha.

 

(Các con đã thọ trì phép quy y Tam-Bảo cùng với chánh-mạng-đệ-bát-giới (ājīvaṭṭhamakasīla) xong, các con nên cố gắng giữ gìn cho được trong sạch và trọn vẹn, để

làm nền tảng cho mọi thiện-pháp phát sinh, bằng pháp không thất niệm, thực hành pháp-hành-tứ-niệm-xứ.)

Hg: Āma, Bhante. (Dạ, xin vâng. Kính bạch Ngài.

 

Ths: Sīlena sugatiṃ yanti, sīlena bhogasampadā.

       Sīlena nibbutiṃ yanti, tasmā sīlaṃ visodhaye.

 
Chúng sinh tái sinh cõi trời, nhờ giữ giới,
Chúng sinh đầy đủ của cải, nhờ giữ giới,
Chúng sinh giải thoát Niết-bàn, nhờ giữ giới,

Vậy, các con nên giữ giới, cho trong sạch!

 

Hg: Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!

 

Sau khi đã thọ phép quy-y Tam-Bảo cùng với ājīvaṭṭhamakasīla xong, tiếp theo hành-giả nên đọc 3 bài kệ khẳng định quy-y Tam-Bảo rằng:

 
“Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Buddho me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena,

Hotu me jayamaṅgalaṃ.

 
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Dhammo me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena,

Hotu me jayamaṅgalaṃ.

 
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Saṃgho me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena,

Hotu me jayamaṅgalaṃ.”

 
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Phật-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

 
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Pháp-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

 
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Tăng-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

 

Hoàn thành xong lễ thọ quy-y Tam-Bảo cùng với 

ājīvaṭṭhamakasīla: chánh-mạng-đệ-bát-giới.

 
Nhận Xét Về Giới Ājīvaṭṭhamakasīla
 

Hành-giả là bậc xuất gia sa-di, tỳ-khưu hoặc người tại gia cận-sự-nam, cận-sự-nữ đều có giới-hạnh theo phạm-hạnh của mình và còn phải nghiêm chỉnh thực hành Ājīvaṭṭhamakasīla: Chánh-mạng đệ-bát-giới-này nữa, bởi vì giới này còn có tên là Ādibrahmacariyakasīla:([12]) Giới-hành-phạm-hạnh-phần-đầu.

 

Chánh-mạngđệ-bát-giới nghĩa là chánh-mạng là giới thứ 8. Giới này gồm có 8 giới như sau:

 

1- Giới có tác ý tránh xa sự sát-sinh,

2-  Giới có tác ý tránh xa sự trộm-cắp,

3- Giới có tác ý tránh xa sự tà-dâm.

 

Ba giới này thuộc vềchánh-nghiệp.

 

4-  Giới có tác ý tránh xa sự nói-dối,

5- Giới có tác ý tránh xa sự nói lời chia-rẽ,

6-  Giới có tác ý tránh xa sự nói lời thô-tục,

7- Giới có tác ý tránh xa sự nói lời vô-ích.

Bốn giới này thuộc về chánh-ngữ

 

8- Giới có tác ý tránh xa cách sống tà-mạng thuộc về  chánh-mạng.

 

Như vậy, ājīvaṭṭhamakasīla: chánh-mạng đệ-bát-giới hoặc ādibrahmacariyakasīla: giới-hành-phạm-hạnh-phần-đầu gồm có 3 chánh: chánh-nghiệp, chánh-ngữ, chánh-mạng thuộc về phần-giới trong pháp-hành bát-chánh-đạotam-giới, bởi vì 3 chánh này 3 tâm-sở sinh riêng với nhau (nānākadāci), mỗi tâm-sở đồng sinh với 8 dục-giới đại-thiện-tâm có đối-tượng khác nhau.      

 

Nhưng hành-giả thực hành pháp-hành-thiền-tuệ, cho đến khi phát sinh Thánh-đạo-tâm hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới trong Thánh-đạo-lộ-trình-tâm. Khi ấy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng 3 tâm-sở sinh chung với nhau (niyata ekato) trong Thánh-đạo-tâm thuộc về phần-giới trong pháp-hành bát-chánh-đạo siêu-tam-giới.

 

Cho nên, hành-giả nên giữ gìn ājīvaṭṭhamakasīla: chánh-mạng đệ-bát-giới hoặc ādibrahmacariyakasīla: giới-hành-phạm-hạnh-phần-đầu hoàn toàn trong sạch và trọn vẹn để làm nền tảng cho pháp-hành-thiền-định, pháp-hành-thiền-tuệ.

 
3- Lễ Hiến Dâng Sinh-Mạng
 
* Lễ hiến dâng sinh mạng lên Đức-Phật
 

Hành-giả thực hành pháp-hành-thiền-định, hoặc pháp-hành-thiền-tuệ ở một mình nơi thanh vắng, phát sinh sợ hãi, hoặc các hàng phi nhân đến quấy nhiễu, hoặc các loài thú dữ có thể làm hại đến sinh mạng của mình.

Để tránh khỏi những trở ngại cho việc thực hành pháp-hành-thiền-định hoặc pháp-hành-thiền-tuệ, hành-giả nên làm lễ hiến dâng sinh mạng của mình lên Đức-Phật, trước khi thực hành pháp-hành-thiền-định hoặc pháp-hành-thiền-tuệ.

 

Trong bộ Visuddhimagga: Thanh-Tịnh-Đạo hướng dẫn đọc lời hiến dâng sinh mạng lên Đức-Phật rằng:

“Imā’haṃ Bhagavā, attabhāvaṃ tumhākaṃ pariccajāmi.”([13]) (3 lần, rồi đảnh lễ Đức-Phật)

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con xin thành kính hiến dâng sinh mạng của con lên Ngài.

 

Sau khi đã làm lễ hiến dâng sinh mạng của mình lên Đức-Phật rồi, hành-giả nên phát sinh đức tin trong sạch nơi Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, đó là thiện-pháp phát sinh.

 

Vì vậy, sinh mạng của hành-giả được an toàn, hành-giả thực hành pháp-hành-thiền-định hoặc pháp-hành-thiền-tuệ được thuận lợi, tiến hoá trong mọi thiện-pháp.

 

Đức-Phật dạy rằng:

Dhammo have rakkhati dhammacāriṃ,..”([14])

 

Thật vậy, thiện-pháp hộ trì người hành pháp.

 
* Lễ Hiến Dâng Sinh Mạng Đến Thiền-Sư
 

Hành-giả ban đầu thực hành pháp-hành-thiền-định hoặc pháp-hành-thiền-tuệ cần phải nương nhờ nơi vị Thiền-sư thông hiểu rành rẽ về pháp-học Phật-giáo và có đầy đủ kinh nghiệm về pháp-hành Phật-giáo, nhất là pháp-hành-thiền-định và pháp-hành-thiền-tuệ.

 

Để cho vị Thiền-sư tận tâm chỉ dạy tỉ mỉ các đề-mục- thiền-định, để hành-giả thực hành pháp-hành-thiền-định, và các đối-tượng-thiền-tuệ là tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadham-ma), để thực hành pháp-hành-tuệ.

 

Cho nên, hành-giả nên làm lễ hiến dâng sinh mạng của mình đến vị Thiền-sư.

 

Trong bộ Visuddhimagga: Thanh-Tịnh-Đạo, hướng dẫn đọc lời hiến dâng sinh mạng đến vị Thiền-sư rằng:

 

“Imā’haṃ Bhante, attabhāvaṃ tumhākaṃ pariccajāmi.”([15]) (3 lần, rồi đảnh lễ Ngài)

 

- Kính bạch Ngài Đại-đức, con xin thành kính hiến dâng sinh mạng của con đến Ngài.

 

Sau khi đã làm lễ hiến dâng sinh mạng của mình đến vị Thiền-sư rồi, hành-giả tỏ ra là người đệ tử dễ dạy, biết vâng lời dạy dỗ của vị Thiền-sư ấy([16]), trong suốt thời gianthực hành.

 

* Lễ Thọ Pháp-Hành-Thiền-Tuệ
 

Phật-giáo gồm có 3 pháp:

 

- Pháp-học Phật-giáo đó là theo học Tam-tạng pāḷi và Chú-giải pāḷi gồm tất cả lời giáo huấn của Đức-Phật.  

 

- Pháp-hành Phật-giáo đó là pháp-hành-giới, pháp-hành-thiền-định, pháp-hành-thiền-tuệ.      

 

- Pháp-thành Phật-giáo đó là 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.

 

Để tỏ lòng tôn kính Pháp-bảo, hành-giả cần phải làm Lễ cầu pháp-hành,” với vị Thiền-sư, nên đọc câu: 

 

“Nibbānassa me Bhante, sacchikaraṇatthāya samathavipassanākammaṭṭhānaṃ detha.”(3 lần, đảnh lễ)   

 

- Kính bạch Ngài Đại-đức, kính xin Ngài từ bi tế độ hướng dẫn, chỉ dạy cho con pháp-hành-thiền-định và pháp-hành-thiền-tuệ, để thực hành hầu mong chứng ngộ Niết-bàn, giải thoát khổ sinh. Bạch Ngài.

 

Sau khi hành-giả lễ cầu pháp-hành xong, vị Thiền-sư tận tâm chỉ dạy về pháp-hành-thiền-định và pháp-hành-thiền-tuệ cho hành-giả.

 
* Cúng-Dường Tam-Bảo Và Lời Phát-Nguyện
 

Cúng-dường Tam-Bảo là cúng-dường Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo là nơi quy-y nương nhờ đối với các hàng thanh-văn đệ tử, để tỏ lòng tôn kính ngôi Tam-Bảo, hằng ngày đêm, các hàng thanh-văn đệ tử thường lễ bái, cúng-dường đến ngôi Tam-Bảo.

 

Đức-Phật dạy cách cúng-dường:

- Amisapūjā: Cúng-dường bằng phẩm vật, …

-Paṭipattipūjā: Cúng-dường bằng pháp-hành: pháp-hành-thiền-định, pháp-hành-thiền-tuệ,…

 

Trong 2 cách cúng-dường, Đức-Phật tán dương ca tụng paṭipattipūjā là cao thượng hơn cả.

 

Để lòng tôn kính Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, hành-giả thành kính cúng-dường bằng pháp-hành-thiền-tuệ lên ngôi Tam-Bảo, đọc bằng lời như sau:  

 

* Imāya dhammānudhammapaṭipattiyā

   Buddhaṃ pūjemi.

 

Con đem hết lònh thành kính cúng-dường Đức-Phật-bảo bằng pháp-hành-thiền này,

 

* Imāya dhammānudhammapaṭipattiyā

   Dhammaṃ pūjemi.

 

Con đem hết lònh thành kính cúng-dường Đức-Pháp-bảo bằng pháp-hành-thiền này,

 

* Imāya dhammānudhammapaṭipattiyā

   Saṃghaṃ pūjemi.

 

Con đem hết lònh thành kính cúng-dường Đức-Tăng-bảo bằng pháp-hành-thiền này.

 
Lời Phát Nguyện
 

* Addhā imāya paṭipattiyā jāti-jarā-maraṇamhā  parimuccissāmi. (3 lần).

 

Chắc chắn, con sẽ giải thoát khỏi khổ sinh, lão, tử bằng pháp-hành-thiền này.

 

Như vậy, mục đích cứu cánh của hành-giả thực hành pháp-hành-thiền-tuệ cốt yếu là chứng ngộ Niết-bàn giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

   \
 (Xong nghi thức thọ pháp-hành-thiền)

 
Đoạn Kết
 
 

 Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định nếu đã chứng đắc các bậc thiền sắc-giới nào, bậc thiền vô-sắc-giới nào, sau khi hành-giả ấy chết, chắc chắn chỉ có bậc thiền thiện-tâm cao nhất ưu tiên cho quả là bậc thiền quả-tâm cao ấy làm phận sự tái sinh kiếp sau kế tiếp trong cõi trời sắc-giới hoặc cõi trời vô-sắc-giới, tương xứng với bậc thiền quả-tâm cao nhất ấy, hưởng sự an-lạc cho đến hết tuổi thọ trong cõi trời ấy.(các bậc thiền thấp còn lại đều trở thành vô hiệu quả).

Tất cả chúng-sinh có bốn loài: thai-sinh, noãn-sinh, thấp-sinh, hoá-sinh tử sinh luân hồi trong tam-giới: dục-giới có 11 cõi, sắc-giới có 16 cõi, và vô-sắc-giới có 4 cõi. Trong tam-giới gồm có 31 cõi chỉ là nơi tạm trú của mỗi chúng-sinh trên con đường tử sinh luân hồi mà thôi, không có chúng-sinh nào được thường trú trong một cõi nào cả.

Thật vậy, dù vị Phạm-thiên trú tại cõi trời vô-sắc-giới cao tột đỉnh gọi là Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiên, có tuổi thọ 84.000 đại kiếp trái đất, đến lúc hết tuổi thọ (chết) tại cõi trời vô-sắc-giới ấy, cũng phải tái sinh kiếp sau trở xuống cõi thiện-dục-giới.  

Bậc Tiền-bối dạy rằng:“Tất cả những vật dù to, dù nhỏ được ném lên cao trên hư không, thời gian mau hoặc chậm, những vật ấy đều phải bị rơi xuống đất cả thảy, không có vật nào đứng yên trên hư không được.” 

Cũng như vậy, chúng-sinh nếu còn là hạng phàm-nhân trong vòng tử sinh luân hồi trong tam-giới thì khó mà tránh khỏi rơi vào 4 cõi ác-giới: địa ngục, a-tu-la, ngạ-quỷ, súc-sinh.

Nếu người nào không muốn chịu cảnh khổ thì người ấy cần phải nên tránh xa tất cả mọi ác-nghiệp, bởi vì chỉ có ác-nghiệp mới cho quả tái sinh kiếp sau trong 4 cõi ác giới: địa ngục, a-tu-la, ngạ-quỷ, súc-sinh mà thôi. 

Nếu người nào mong muốn hưởng sự an-lạc trong cõi người, 6 cõi trời dục-giới, 16 cõi trời sắc-giới, 4 cõi trời vô-sắc-giới thì người ấy phải nên cố gắng tinh tấn tạo mọi thiện-nghiệp: dục-giới-thiện-nghiệp, sắc-giới-thiện-nghiệp, vô-sắc-giới thiện-nghiệp, bởi vì chỉ có thiện-nghiệp mới cho quả tái sinh kiếp sau trong cõi-thiện-giới mà thôi. 

 Dù hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định, có khả năng chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm và 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm vẫn còn là hạng phàm-nhân, không phải bậc Thánh-nhân, nên vẫn còn phải chịu khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài không có tận cùng. 

Cho nên, hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định không dẫn đến mục-đích cứu cánh giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới, vẫn còn phải luẩn quẩn trong vòng tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.  

Chư bậc thiện-trí có trí-tuệ sáng suốt thấy rõ, biết rõ kiếp tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài thật là khổ đáng kinh sợ, nên quý Ngài cố gắng tinh tấn không ngừng đêm ngày thực hành pháp-hành-thiền-tuệ, để mong dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt mọi phiền-não, mọi tham-ái, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán, mới mong tịch-diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.   



        Patthanā
 

 Iminā puññakammena,    sukhī bhavāma sabbadā.

Ciraṃ tiṭṭhatu saddhammo, loke sattā sumaṅgalā. 

Vietnam ca raṭṭhikā sabbe, janā pappontu sāsane.

Vuḍḍhiṃ viruḷhivepullaṃ,   patthayāmi nirantaraṃ.
 
Do nhờ phước thiện thanh cao này,

Cho chúng con thường được an lạc.

Cầu mong chánh pháp được trường tồn,

Tất cả chúng-sinh được hạnh phúc.
 
Dân tộc Việt Nam được phát triển,

Tiến hóa hưng thịnh trong Phật giáo.

Bần sư cầu nguyện với tâm thành,

Hằng mong được thành tựu như nguyện.
 
Ciraṃ tiṭṭhatu saddhammo lokasmiṃ.

Ciraṃ tiṭṭhatu saddhammo Vietnam-raṭṭhasmiṃ.

Cầu nguyện chánh pháp được trường tồn trên thế gian.

Cầu nguyện chánh pháp được trường tồn trên Tổ quốc Việt Nam thân yêu.

 
                           P.L.: 2556 / D.L.: 01/2013
Rừng Núi Viên Không

Xã Tóc Tiên, Huyện Tân Thành

Tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
 
                                        Tỳ-khưu Hộ-Pháp

                                      (Dhammarakkhita Bhikkhu)

                                      (Aggamahāpaṇḍita)

 
 


[1] Visuddhimagga, Kammaṭṭhānaggahaṇanidesa, Cariyāvaṇṇanā

[2] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, Tích Tissattheravatthu

[3] Nền Tảng Phật giáo, Quyển VI, Pháp Hạnh Ba-la-mật, Tập 1, Tập 3

[4] Bộ chú giải  Aṅguttaranikāya, phần Etadaggavagga, tích Bākulattheravatthu

[5] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, Sahassavagga, tích Saṃkiccasāmaṇeravatthu

[6] Bộ Dhamapadaṭṭhakathā, Kodhavagga, tích Uttarā upāsikāvatthu

[7] Dhammapadagāthā số 233, Tích Uttarā upāsikāvatthu

[8] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, Appamādavagga, tích Sāmāvatīvatthu

[9] Asaṅkhyeyya: A-tăng-kỳ là khoảng thời gian không thể đếm bằng số.

Mahākappa: Đại-kiếp trái đất gồm có 4 a-tăng-kỳ: thành, trụ, hoại, không.

1- A-tăng-kỳ thành là khoảng thời gian lâu dài của kiếp trái đất đã tạo thành.

2- A-tăng-kỳ trụ là khoảng thời gian lâu dài của kiếp trái đất đang tồn tại,

3- A-tăng-kỳ hoại là khoảng thời gian lâu dài của kiếp trái đất đang bị hoại dần,

4- A-tăng-kỳ không là khoảng thời gian lâu dài của kiếp trái đất không còn nữa.

[10] Bộ Visuddhimagga, phần Paṭhamasīlapañcaka (44)

[11] Xem quyển “Gương Bậc Xuất Gia” phần 14 pháp-hành , cùng soạn giả

[12] Bộ Víuddhimagga, phần Sīlaniddesa

[13] Bộ Visuddhimagga, phần Kammaṭṭhānaggahana niddesa

[14] Dhammapadaṭṭhakatthā, Tich Sambahulabhikkhuvatthu

[15] Bộ Visuddhimagga, phần Kammaṭṭhānaggahana niddesa

[16] Nếu hành-giả xét thấy pháp-hành của mình không phát triển thì có thể thay đổi vị Thiền-sư khác. đó là việc bình thường.





[ Ðầu trang][Trở về mục lục ][ Trở về trang Thư Viện ]

updated: 2024