• Nền Tảng Phật Giáo - Quyển VI

    PHÁP HẠNH BA-LA-MẬT

    (Tập 3)

  • Soạn giả: Hộ Pháp

  

Chuyện Con Cá Ānanda Ăn Cá Đồng Loại

 

Thời quá khứ, trong đại dương, một con cá tên Ānanda rất lớn và dài 50 do tuần, nó ăn đá và san hô. Các đàn cá suy tôn con cá Ānanda lên làm vua các loài cá. Hằng ngày, sáng chiều, các đàn cá đến chầu, phục vụ vua cá Ānanda. Một hôm, Vua cá Ānanda đi kiếm ăn đá và san hô, nó ăn phải một con cá dính trong bụi san hô mà không biết. Thịt con cá có vị ngon lan toả khắp toàn thân, nó nghĩ: “Đây là vị gì mà ta chưa hề được thưởng thức vị ngon đặc biệt như thế này bao giờ”?

Vua cá Ānanda khạc nhổ ra xem, thì biết đó là vị thịt một con cá đồng loại. Nó nghĩ tiếp: “Cá đồng loại có vị ngon như thế mà từ lâu ta không hề biết. Vậy từ nay, các đàn cá đến chầu phục vụ ta mỗi sáng chiều, ta sẽ bắt 1-2 con để ăn thịt. Nếu ta bắt ăn mà để chúng nó biết thì

chúng nó sẽ không đến chầu phục vụ ta nữa.

Vậy, ta nên chờ khi chúng nó chầu phục vụ xong trở về, ta sẽ lén bắt ăn con cá sau cùng”.

Nghĩ xong, nó thực hiện theo âm mưu độc ác ấy. Trải qua thời gian lâu dài, các đàn cá càng ngày càng giảm dần, chúng bàn luận với nhau rằng:

“Từ trước, các đàn cá bà con của chúng ta rất đông đảo, do nguyên nhân nào, nay bây giờ, đã giảm dần thưa tht như thế này? Do tai hoạ từ đâu?”

Một con cá thông minh nghĩ: “Vua cá Ānanda có những hành vi khác thường, ta nên lén theo dõi hành vi của y”.

Như thường lệ, các đàn cá đến chầu phục vụ xong rồi kéo nhau trở về. Con cá thông minh lén núp vào mang vua cá Ānanda. Khi các đàn cá kéo nhau ra về, vua cá Ānanda vồ bắt con cá đi cuối cùng ăn thịt, trước sự chứng kiến của con cá thông minh.

Nhìn thấy hành vi tàn nhẫn, độc ác của vua cá, con cá thông minh lén trở về thông báo, tố cáo hành vi tàn ác ấy cho các đàn cá.

Từ đó, tất cả các đàn cá hoảng sợ đều di chuyển đến nơi khác, không có một con cá nào dám đến chầu, phục vụ vua cá Ānanda nữa. Vì nó đã ăn thịt cá đồng loại có vị ngon đặc biệt, đã trở thành thói quen, nghiện vị thịt cá đồng loại, nên nó không muốn ăn đá, san hô như trước nữa. Cơn thèm khát hành hạ làm cho nó tối tăm, ngu muội. Khi bơi đi tìm đàn cá để bắt chúng ăn thịt, vua cá Ānanda gặp hòn núi lớn dưới đáy biển, nó nghĩ: “Các đàn cá trốn trong hòn núi này, bởi vì chúng sợ ta ăn thịt, ta sẽ vây chúng lại, không để một con nào trốn thoát khỏi miệng ta”.

 Nghĩ xong, nó dùng đầu và đuôi quấn quanh hòn núi lớn, bởi vì thân hình nó dài 50 do tuần, cho nên, khi đầu và đuôi của nó quấn quanh hòn núi lớn giáp nhiều vòng, thì đầu và đuôi của nó gặp nhau.

Đã mấy ngày qua chịu cảnh đói khổ thèm khát, vua cá Ānanda gặp cái đuôi của mình, tưởng nhầm rằng đuôi con cá khác trốn trong hòn núi ấy. Nó vừa nổi giận, vừa thèm khát, cắn cái đuôi của mình ăn ngon lành. Vua cá Ānanda phát sinh đau khổ, máu chảy lai láng, toả ra một vùng rộng lớn. Cuối cùng nó chết, bộ xương của nó chất thành đống như núi.

Các vị đạo sĩ có thần thông bay trên hư không nhìn thấy và biết rõ chuyện vua cá Ānanda này. Các Ngài đã trở về thuật lại cho mọi người trong cõi Nam thiện bộ châu đều biết chuyện vua cá Ānanda như vậy.

Kể xong câu chuyện con cá Ānanda, vị quan Thừa tướng tâu với Đức Vua rằng:

- Tâu Bệ hạ, vua cá Ānanda nghiện vị thịt cá đồng loại, khi không có đàn cá nữa, vua cá Ānanda tự cắn cái đuôi của mình để ăn rồi chết.

- Tâu Bệ hạ, nếu Bệ hạ là người dể duôi, ưa thích, thèm khát dùng món thịt người đồng loại, chưa biết thức tỉnh, thì Bệ hạ sẽ từ bỏ Thái Thượng Hoàng, Hoàng thái hậu, Chánh cung Hoàng hậu, các hoàng tử, các công chúa, những người trong hoàng gia, v.v… như vua cá Ānanda tự ăn thịt của mình rồi chết.

Dù vị Thừa tướng Kāḷahatthi đã cố gắng đem tích quá khứ tâu khuyên Đức Vua, nhưng Đức Vua vẫn khăng khăng một mực không thể từ bỏ món ăn thịt người được. Khi ấy, trước cửa cung điện, dân chúng la hét lớn rằng:

- Thưa Thừa tướng Kāḷahatthi, nếu Đức Vua không chịu từ bỏ món ăn thịt người, thì chúng ta mời Đức Vua rời khỏi kinh thành Bārāṇasī, ra khỏi đất nước Kāsi này, không để cho Đức Vua ở lại cung điện nữa.

Nghe dân chúng la hét lớn như vậy, Đức Vua Brahmadatta có vẻ lo lắng. Vị Thừa tướng lại một lần nữa tâu rằng:

- Tâu Bệ hạ, xin Bệ hạ từ bỏ món ăn thịt người có được hay không?

Đức Vua truyền rằng:

- Này Kāḷahatthi! Trẫm không thể từ bỏ món ăn thịt người được!

Vị quan Thừa tướng Kāḷahatthi thỉnh mời Thái Thượng Hoàng, Hoàng thái hậu, Chánh cung Hoàng hậu, các hoàng tử, các công chúa, các cung phi mỹ nữ, những người trong hoàng gia, v.v… đến chầu Đức Vua Brahmadatta khóc than khẩn khoản, van xin Đức Vua từ bỏ món ăn thịt người, nhưng Đức Vua vẫn khăng khăng một mực truyền rằng:

- Trẫm không thể nào từ bỏ món ăn thịt người được! Ngôi vua và tất cả các người không phải là nơi yêu quý nhất của Trẫm, Trẫm chỉ có ưa thích nhất là món thịt người mà thôi, các người nên biết như vậy!

Khi ấy, vị quan Thừa tướng tâu rằng:

- Tâu Bệ hạ, nếu Bệ hạ quyết tâm không thể từ bỏ món ăn thịt người thì xin Bệ hạ rời khỏi kinh thành Bārāṇasī, ra khỏi đất nước Kāsi này.

Đức Vua truyền rằng:

- Này Thừa tướng! Ngôi vua này không còn ích lợi gì đối với Trẫm nữa, Trẫm sẽ rời khỏi kinh thành Bārāṇasī, ra khỏi đất nước Kāsi này. Trẫm chỉ cần một thanh gươm, một người đầu bếp, một nồi nấu thịt và một cái giỏ đựng thịt mà thôi.

Vị Thừa tướng Kāḷahatthi ra lệnh cho người đem những thứ ấy dâng lên Đức Vua Brahmadatta. Sau khi nhận những thứ ấy xong, Đức Vua ngự rời khỏi kinh thành Bārāṇasī cùng người đầu bếp, không ngoảnh mặt lại, trước sự hiện diện của Thái Thượng Hoàng, Hoàng thái hậu, Chánh cung Hoàng hậu, các hoàng tử, các công chúa, các cung phi mỹ nữ, v.v…Đức Vua cùng người đầu bếp ngự đi vào rừng, ở dưới gốc cây da, chỉ có 2 người: Đức Vua và người đầu bếp. Hằng ngày, Đức Vua mang gươm ra đường, chặn người qua lại, giết chết đem về giao người đầu bếp làm món ăn dâng lên y dùng. Một hôm, Đức Vua chạy ra đường la hét lớn lên rằng:

- Ta là kẻ sát nhân Porisāda!

Những người đi đường hoảng sợ vấp té, tên sát nhân Porisāda thích người nào là giết người ấy chết, rồi mang 2 chân lên trên, cái đầu xuống dưới, đem về giao cho người đầu bếp làm món ăn để cho y dùng. Mọi người gần xa biết khu rừng ấy có tên sát nhân Porisāda, nên không có một ai dám đi lại. Một hôm, tên sát nhân Porisāda không giết được người nào, trở về tay không. Thấy vậy, người đầu bếp tâu y rằng:

- Tâu Bệ hạ, hạ thần làm gì bây giờ?

Tên sát nhân Porisāda bảo người đầu bếp nhóm lửa, đặt nồi nước lên bếp. Người đầu bếp nghĩ: “hôm nay, chắc chắn ta sẽ là món ăn của Đức Vua”. Vì nghĩ như thế nên y vừa khóc vừa phải làm phận sự nhóm lửa, đặt nồi nước lên bếp. Tên sát nhân Porisāda giết chết người đầu bếp, tự mình làm thịt, nấu chín rồi ăn ngon lành.

Trong rừng tại gốc cây da, chỉ còn một mình tên sát nhân Porisāda.

Vào thời ấy, một người lái buôn Bà-la-môn giàu sang có 500 cổ xe bò chở hàng thường đi ngang qua khu rừng ấy. Bây giờ, nghe tin có tên sát nhân Porisāda ẩn núp trong khu rừng thường ra đón đường giết người, nên ông lái buôn Bà-la-môn thuê mướn một nhóm người vệ sĩ đi theo bảo vệ ông và 500 cỗ xe hàng khi đi ngang qua khu rừng này với số tiền lớn 1.000 Kahāpana.

Nhóm người vệ sĩ này đồng ý, ông lái buôn Bà-la-môn cho 500 cỗ xe bò chở hàng đi trước. Ông ngồi trên cỗ xe nhỏ xinh đẹp bằng con bò trắng lực lượng kéo đi đằng sau, có nhóm người vệ sĩ đi theo bảo vệ ông và đoàn xe.

Khi ấy, tên sát nhân Porisāda leo lên cây cao quan sát, nhìn thấy đoàn xe bò đi qua theo tuần tự, đến cỗ xe sang trọng có ông lái buôn Bà-la-môn ngồi trong xe. Nhìn thấy ông lái buôn Bà-la-môn, Y cảm thấy thèm chảy nước miếng. Khi cỗ xe bò ấy đến gần, Y từ trên cây cao nhảy xuống tung gươm la hét lớn lên 3 lần rằng:

Ta là tên sát nhân Porisāda đây!”.

Nhóm vệ sĩ đi theo bảo vệ ông lái buôn Bà-la-môn, không có một người nào đứng vững, tất cả đều giật mình té xuống đất. Tên sát nhân Porisāda bắt ông Bà-la-môn ấy, nắm 2 chân đưa lên trên, đầu chúc xuống đất mang đi. Nhóm vệ sĩ đứng dậy bảo nhau rằng:

- Ông lái buôn Bà-la-môn thuê mướn chúng ta đi theo bảo vệ ông, bây giờ ông bị bắt, chúng ta không làm gì được hay sao?

Trong nhóm vệ sĩ ấy, một người có tài chạy rất nhanh, cầm gươm đuổi theo kịp tên sát nhân Porisāda. Nhìn lại đằng sau thấy có người đuổi theo kịp, y mang ông lái buôn Bà-la-môn tung người nhảy qua bụi cây cản đường, đụng phải gốc cây nhọn đâm vào bàn chân bị thương nằm quỵ xuống, máu tuôn xối xả.

Nhìn thấy y bị thương, người vệ sĩ la lớn lên rằng:

 - Tên sát nhân đã bị thương rồi! Chúng ta hãy vây bắt y.

Nhìn thấy nhóm người chạy đến gần, tên sát nhân Porisāda bỏ ông lái buôn Bà-la-môn lại, một mình ráng chạy thoát thân. Nhóm vệ sĩ bảo nhau rằng:

- Chúng ta có phận sự bảo vệ ông lái buôn Bà-la-môn, nay chúng ta cứu ông được rồi, chúng ta không có bổn phận bắt tên sát nhân ấy.

Nhóm vệ sĩ không đuổi theo tên sát nhân nữa, mà dìu ông lái buôn Bà-la-môn lên xe và họ tiếp tục lên đường.

Tên sát nhân Porisāda cố gắng đi về đến chỗ ở dưới gốc cây da nằm nghỉ.

 

Cầu Chư Thiên Cội Cây Chữa Trị

 

Do vết thương làm đau nhức quá không chịu nổi, tên sát nhân Porisāda cầu xin chư thiên cội cây chửa trị cho mau lành. Y thề rằng:

- Thưa vị chư thiên cội cây này! Nếu Ngài chửa trị vết thương của tôi lành hẳn trong vòng 7 ngày thì tôi hứa sẽ lấy máu ở cổ của các Đức Vua trong toàn cõi Nam thiện bộ châu này, để làm lễ cúng dường đến Ngài, và lấy thịt của các Đức Vua ấy làm món ăn cúng dường đến Ngài.

Nhưng thật ra, khi tên sát nhân Porisāda nhịn ăn suốt 7 ngày, đã làm cho vết thương bàn chân lành hẳn, đi lại được tự nhiên. Y nghĩ: “Vết thương của ta được lành là do nhờ oai lực của vị chư thiên cội cây này chữa trị. Ta phải nên thực hiện lời hứa làm lễ cúng dường tạ ơn chư thiên cội cây này”.

Tên sát nhân Porisāda ăn thịt người được ít ngày sau, thì sức khoẻ được hồi phục trở lại, y nghĩ tiếp: “Vị chư thiên cội cây này là ân nhân đã giúp chửa trị vết thương của ta lành, ta phải đền ơn vị chư thiên này đúng theo lời hứa của ta”.

Nghĩ xong, y cầm gươm rời khỏi cội cây da, với quyết tâm bắt cho được 101 Đức Vua trong toàn cõi Nam thiện bộ châu này, đem về làm lễ cúng dường tạ ơn vị chư thiên cội cây này đã giúp chữa lành vết thương của y.

Khi ấy, một Dạ-xoa (Yakkha)([1]) vốn là bạn thân tiền kiếp của y (tiền kiếp của y là một Dạ-xoa), đang đi ngược chiều gặp lại y, nhớ lại vốn là bạn thân ở kiếp trước, Dạ-xoa hỏi y rằng:

- Này bạn! Bạn có nhớ tôi không?

Tên Porisāda trả lời rằng:

- Tôi không nhớ được, nhưng tôi cảm thấy thân quen.

Dạ-xoa nhắc lại chuyện tiền kiếp của y là một Dạ-xoa, thì y cảm thấy thân quen thật sự, nên 2 người trở thành bạn thân thiết như kiếp trước. Dạ-xoa hỏi về thân thế của y thế nào, tại sao ở một mình trong khu rừng này. Tên sát nhân Porisāda thuật lại mọi việc xảy ra trong cuộc đời của mình cho Dạ-xoa nghe, và hiện đang lo làm lễ cúng dường tạ ơn chư thiên cội cây, nên y yêu cầu Dạ-xoa giúp đỡ rằng:

- Này bạn, xin bạn hãy giúp đ tôi, chúng ta cùng đi với nhau bắt 101 Đức Vua trong toàn cõi Nam thiện bộ châu này, để đem về làm lễ cúng dường tạ ơn chư thiên cội cây đã cứu chữa lành vết thương của tôi. 

Dạ-xoa trả lời rằng:

- Này bạn! Bây giờ tôi chưa có thể cùng đi với bạn được, bởi vì tôi có phận sự phải làm, nhưng tôi có biết phép thuật (manta) tên Padalakkhaṇa, có khả năng đặc biệt, có sức mạnh phi thường, chạy nhanh như gió, có nhiều oai lực, tôi sẽ dạy bạn phép thuật manta ấy. Bạn nên học phép thuật này, vì nó sẽ giúp bạn thành tựu mọi điều như ý.

 Nghe Dạ-xoa giới thiệu, tên sát nhân Porisāda vô cùng vui vẻ xin học phép thuật ấy.

 

Lễ Cúng Dường Tạ Ơn Chư Thiên Cội Cây

 

Thật vậy, sau khi học phép thuật ấy xong, tên sát nhân Porisāda có sức mạnh phi thường, có tài chạy nhanh như gió, y đi tìm bắt 101 Đức Vua trong cõi Nam thiện bộ châu trong vòng 7 ngày, đem về xâu 2 bàn tay của 101 Đức Vua treo quanh cây da, 2 bàn chân chạm đất. Thật là một cảnh tượng đáng thương tâm.

Tên sát nhân Porisāda không bắt Đức Vua Bồ Tát Sutasoma là vì Ngài đã từng là vị thầy, phụ dạy y trong thời gian đang học tại kinh thành Takkasilā. Hơn nữa, nếu bắt Đức Vua Sutasoma làm lễ cúng dường chư thiên, thì trong cõi Nam thiện bộ châu này không còn Đức Vua nào cả. Để chuẩn bị làm lễ cúng dường tạ ơn vị chư thiên cội cây, y gom củi chất thành đống chờ châm lửa, y ngồi làm những cây lui nướng thịt.

Vị chư thiên cội cây thấy vậy nghĩ: “Tên sát nhân Porisāda này sẽ tạo ác nghiệp sát sinh, giết 101 Đức Vua, lấy máu làm lễ cúng dường tạ ơn ta, lấy thịt của 101 Đức Vua làm món ăn cúng dường tạ ơn ta. Sự thật, vết thương của y được lành ấy, ta không giúp chửa trị gì cho y cả. Bây giờ, y sẽ sát hại 101 Đức Vua lấy máu, lấy thịt làm

lễ cúng dường tạ ơn cho ta. Đó là tội ác lớn lao.

Vậy, ta nên làm cách nào ngăn cản việc làm ác của y, để cứu sống 101 Đức Vua này”.

 Suy xét thấy mình không có khả năng ngăn cản được việc làm ác của tên sát nhân Porisāda, vị thiên nam cội cây đến cầu cứu Tứ đại Thiên vương giúp ngăn cản việc làm ác của y, nhưng Tứ đại thiên vương cũng không có khả năng ngăn cản việc làm ác của y được. Tứ đại Thiên vương giới thiệu lên cầu cứu Đức Vua trời Sakka cõi Tam thập Tam thiên. Vị thiên nam cội cây đến chầu Đức Vua trời Sakka tâu rõ sự việc như vậy, và cầu cứu Đức Vua trời Sakka giúp ngăn cản việc làm ác giết người khủng khiếp ấy, nhưng Đức Vua trời Sakka cũng không có khả năng ngăn cản y được.

Đức Vua trời Sakka suy xét: “Trong các hàng chúng sinh, ngoài Đức Vua Bồ Tát Sutasoma ra, không có một ai có khả năng ngăn cản được việc làm tàn ác của tên sát nhân Porisāda” nên Đức Vua trời Sakka truyền bảo rằng:

- Này thiên nam! Trẫm không có khả năng ngăn cản việc làm tàn ác của tên sát nhân Porisāda được.

 Trẫm biết chỉ có Đức Vua Sutasoma ngự tại kinh thành Indapatta, trị vì đất nước Kuru, mới có khả năng đặc biệt thuyết phục được tên sát nhân Porisāda chịu từ bỏ ăn thịt người, và cứu sống 101 Đức Vua trong cõi Nam thiện bộ châu này được mà thôi.

Ngoài Đức Vua Sutasoma ra, Trẫm không thấy có một ai trong các cõi giới này, có khả năng ngăn cản được việc làm tàn ác của tên sát nhân Porisāda.

Vâng theo lệnh của Đức Vua trời Sakka truyền dạy, vị thiên nam cội cây trở lại gốc cây da, rồi hóa ra một bậc

xuất gia đứng không xa tên sát nhân Porisāda.

Nhìn thấy bậc xuất gia, y nghĩ: “Ta nên bắt bậc xuất gia này để làm lễ cúng dường tạ ơn chư thiên cùng với 101 Đức Vua này”.

Nghĩ xong, y cầm gươm chạy nhanh đến, thì bậc xuất gia bước đi khoan thai một cách tự nhiên với dáng thu thúc lục căn, còn y dù chạy hết tốc lực suốt 3 do tuần mà vẫn không đuổi kịp bậc xuất gia ấy. Y đuối sức mệt lử, đứng lại nghĩ: “Từ trước, voi, ngựa chạy, ta còn đuổi theo kịp, còn bậc xuất gia này bước đi khoan thai một cách tự nhiên, dù ta chạy hết tốc lực mà vẫn không đuổi kịp bậc xuất gia này”. Y gọi lớn lên rằng:

- Này Sa-môn kia, hãy dừng lại!

Vị Sa-môn vẫn bước đều đặn tự nhiên, không quay lại, trả lời rằng:

- Ta đã dừng lại từ lâu rồi, chỉ có ngươi hãy nên dừng lại mà thôi!

Tên sát nhân Porisāda hỏi rằng:

- Này Sa-môn! Thông thường, vị Sa-môn không nói dối, dù vì sinh mạng. Tại sao Ngài nói dối như vậy? Ngài tưởng rằng thanh gươm của tôi là chiếc lông nhỏ hay sao?

Vị Sa-môn trả lời rằng:

- Này Đại Vương! Bần đạo là người đã dừng lại mọi ác nghiệp từ lâu, chỉ hành thiện nghiệp mà thôi, không đổi tên, không đổi nòi giống.

Từ trước, Đại Vương có tên là Brahmadatta cao quý, nay thay đổi là kẻ sát nhân Porisāda tàn nhẫn, độc ác hành ác nghiệp giết người ăn thịt. Trước kia, Đại Vương sinh ra trong dòng dõi vua chúa, nay Đại Vương ăn thịt người như loài Dạ-xoa, thay đổi nòi giống.

- Này kẻ sát nhân! Ngươi đã hành ác nghiệp, sau khi chết, ác nghiệp sẽ cho quả tái sinh trong cõi ác giới: địa ngục, Atula, ngạ quỷ, súc sinh.

- Này kẻ sát nhân! Sự thật, chính ngươi là người nói dối! Ngươi đã cầu khẩn và hứa với ta rằng: “Tôi sẽ lấy máu trên cổ của các Đức Vua trong toàn cõi Nam thiện bộ châu, để làm lễ cúng dường, tạ ơn chư thiên…”

Bây giờ, ngươi chỉ bắt các Đức Vua nước nhỏ đem về mà thôi, còn Đức Vua Sutasoma nước lớn, ngươi không bắt đem về được. Như vậy, ngươi là người nói dối. Vậy, ngươi phải đi bắt cho được Đức Vua Sutasoma về đây.

Sau khi nói xong, vị Sa-môn ấy liền biến đổi hình dạng trở lại là vị thiên nam cội cây đứng trên hư không có hào quang sáng ngời. Tên sát nhân Porisāda nghe tiếng nói và nhìn thấy vị thiên nam ấy bèn hỏi rằng:

- Thưa Ngài, Ngài là ai vậy?

- Ta là vị thiên nam cội cây da này.

Tên sát nhân Porisāda vô cùng hoan hỷ tận mắt nhìn thấy vị thiên nam rồi thưa rằng:

- Thưa vị thiên nam, xin Ngài an tâm, tôi sẽ đi bắt Đức Vua Sutasoma đem về đây.

Khi ấy, mặt trời đã lặn và mặt trăng đang mọc, tên sát nhân Porisāda nhìn các vì sao biết được, ngày hôm sau là ngày Đức Vua Sutasoma ngự đến vườn thượng uyển, tắm tại hồ nước lớn theo truyền thống hằng năm. Y nghĩ: “Ngày mai, các đội binh hộ giá bảo vệ Đức Vua Sutasoma suốt 3 do tuần. Vậy, đêm nay ta đến vườn thượng uyển, xuống nằm dưới hồ nước ngâm mình chờ đợi, trong khi các đội binh chưa chuẩn bị giữ gìn an ninh bảo vệ Đức Vua Sutasoma”.

Y đã thực hiện theo ý ghĩ ấy của mình.

Trong khi ấy, một vị Bà-la-môn Nanda thỉnh 4 bài kệ gọi là Satārahagāthā từ kinh thành Takkasilā đến kinh thành Indapatta khoảng cách 120 do tuần, vị Bà-la-môn Nanda nghỉ đêm ở ngoài cửa thành.

Sáng hôm sau, các đội binh: đội tượng binh, đội mã binh, đội quân xa, đội bộ binh, v.v… kéo dài suốt 3 do tuần bảo vệ Đức Vua Bồ Tát  Sutasoma.

Sáng sớm dùng vật thực xong, Đức Vua Bồ Tát  Sutasoma ngự lên voi báu Maṅgala được trang hoàng lộng lẫy, xung quanh có các bộ binh hộ giá đi ra khỏi kinh thành Indapatta.

Cũng sáng hôm ấy, vị Bà-la-môn Nanda đi vào kinh thành, nhìn thấy Đức Vua Bồ Tát Sutasoma ngự ra cửa thành hướng đông, ông chắp 2 tay trên trán, tỏ vẻ cung kính chúc tụng Đức Vua Bồ Tát.

Nhìn thấy vị Bà-la-môn, Đức Vua Bồ Tát Sutasoma cho voi đến gần truyền hỏi rằng:

- Này vị Bà-la-môn! Ngươi từ đâu đến kinh thành này có mục đích gì? Ngươi hãy tâu cho Trẫm rõ.

Vị Bà-la-môn tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương, kẻ tiện dân từ kinh thành Takkasilā đến đây. Nghe tin rằng Đại Vương là bậc đa văn túc trí, hiếu học, nên kẻ tiện dân thỉnh 4 bài kệ tên là Satārahagāthā có ý nghĩa sâu sắc mà Đức Phật Kassapa đã thuyết giảng, đến kinh thành này vì sự lợi ích của Đại Vương.

Kính xin Đại Vương lắng nghe 4 bài kệ này, để được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài.

Lắng nghe vị Bà-la-môn tâu như vậy, Đức Vua Bồ Tát Sutasoma vô cùng hoan hỷ truyền bảo rằng:

- Kính thưa Bà-la-môn, tốt lành thay, Ngài đã đến đây,

nhưng bây giờ Trẫm không thể hồi cung được, bởi vì hôm nay Trẫm ngự đi làm lễ tắm gội đầu theo phong tục truyền thống của triều đình xưa.

Vậy, sau khi Trẫm làm lễ tắm gội đầu xong, khi hồi cung, Trẫm sẽ xin lắng nghe 4 bài kệ Satārahagāthā ấy.

Đức Vua Bồ Tát Sutasoma truyền các quan rằng:

- Này các khanh! Các khanh hãy mời vị Bà-la-môn này vào cung điện, nghỉ ngơi chỗ sang trọng, lo phục vụ những thứ cần thiết cho vị Bà-la-môn này.

 

Đức Vua Bồ Tát Sutasoma tiếp tục ngự đến vườn thượng uyển. Xung quanh vườn thượng uyển có bờ thành cao 14 cùi tay, các cửa ra vào có các đội binh: đội tượng binh, đội mã binh, đội quân xa, đội bộ binh, v.v… kéo dài suốt 3 do tuần, để bảo vệ Đức Vua Bồ Tát.

Đến hồ nước, Đức Vua Bồ Tát cởi bộ đồ triều phục, thợ sửa râu tóc, các quan thoa vật thơm để tắm, Đức Vua Bồ Tát Sutasoma ngự xuống hồ nước lớn theo phong tục truyền thống của triều đình xưa. Làm lễ tắm gội đầu xong, Đức Vua Bồ Tát Sutasoma vẫn đứng dưới nước, các quan đem vật thoa, vật thơm, bộ đồ triều phục, và các đồ trang sức đến cho Ngài mặc.

Khi ấy, tên sát nhân Porisāda từ dưới nước nổi lên, cầm thanh gươm đưa lên khỏi đầu la hét lớn 3 lần rằng:

Ta là tên sát nhân Porisāda đây!

Khi nghe như vậy, các đội binh theo hộ giá Đức Vua Bồ Tát Sutasoma, nếu những lính ngồi trên lưng voi, lưng ngựa, trên xe thì bị rơi xuống đất, những lính bộ thì té ngả xuống đất, v.v…



[1] Yakkha: Dạ-xoa là hạng chư thiên ở phương Bắc thuộc cõi trời Tứ đại Thiên vương, do Đức Đại Thiên Vương Kuvera cai quản. Yakkha có thể hoá ra người.



Tên Sát Nhân Porisāda Bắt Đức Vua Bồ Tát Sutasoma

 

Tên sát nhân Porisāda đến nâng Đức Vua Bồ Tát Sutasoma lên đặt trên vai của mình. Đây là trường hợp đặc biệt, vì trước đây, khi bắt 101 Đức Vua khác, y đều nắm 2 chân đưa lên cao, đầu chúc xuống đất chạy nhanh như bay, nhưng đối với Đức Vua Bồ Tát Sutasoma, y nâng cái mông của Ngài đặt trên vai của mình, không đi ra theo cửa ra vào mà bắn tung người lên nhảy ngang qua thành cao 14 cùi tay, đạp trên lưng con voi này đến lưng con voi khác, rồi đến lưng con ngựa này đến lưng con ngựa khác, rồi đến chiếc xe này đến chiếc xe khác,… chạy nhanh như gió khoảng 3 do tuần, nhìn lại không thấy một ai đuổi theo, nên y đi bình thường, rồi nghĩ: “Chúng sinh không sợ chết không có, ai cũng đều sợ chết cả. Còn Đức Vua Sutasoma có sợ chết hay không? Ta nên tâu hỏi cho rõ”. Nghĩ xong y bèn tâu rằng:

- Tâu Đại Vương, Đại Vương là bậc đại thiện trí, bậc đa văn túc trí có trí tuệ sáng suốt hiểu rõ nhân quả, chắc chắn Đại Vương không hoảng sợ. Bậc đại thiện trí như Đại Vương là nơi nương nhờ của mọi người khác, ví như hòn đảo giữa đại dương là nơi nương nhờ của những người đi trên thuyền bị bão táp.

Như vậy, bậc đại thiện trí như Đại Vương chắc chắn không khóc vì sợ chết. Nếu Đại Vương khóc vì sợ chết, thì những người si mê khác sẽ như thế nào?

- Tâu Đại Vương, do nguyên nhân nào làm cho Đại Vương khổ tâm sầu não như vậy? Có phải vì mình, vì Chánh cung Hoàng hậu, các hoàng tử, các công chúa, Đức Thái Thượng Hoàng, Bà Hoàng thái hậu, vì ngôi vua hay không?

Xin Đại Vương truyền bảo cho tôi biết rõ nguyên nhân ấy có được hay không?

Nghe Porisāda hỏi như vậy, Đức Vua Bồ Tát Sutasoma truyền bảo rằng:

- Này Porisāda bạn thân mến! Tôi không phải khổ tâm sầu não vì mình, hoặc vì Chánh cung Hoàng hậu, các hoàng tử, các công chúa, Đức Phụ Vương, Mẫu hậu, vì ngôi vua,…

Thật ra, tôi thực hành pháp hạnh chân thật của chư bậc thiện trí đã thực hành từ ngàn xưa, đó là lời nói chân thật mà tôi đã hứa hẹn với vị Bà-la-môn ấy, tôi không giữ gìn đúng theo lời nói chân thật hứa hẹn ấy, đó là nguyên nhân khiến tôi khổ tâm sầu não.

Sáng nay, trên đường đang ngự ra khỏi kinh thành, tôi gặp vị Bà-la-môn thỉnh 4 bài kệ của Đức Phật Kassapa  từ kinh thành Takkasilā đến tìm tôi, để thuyết lại cho tôi nghe 4 bài kệ ấy.

Tôi đã hứa hẹn với vị Bà-la-môn ấy rằng: “Sau khi Trẫm làm lễ tắm gội đầu xong, hồi cung trở về, Trẫm sẽ xin lắng nghe 4 bài kệ Satārahagāthā ấy”.

 Tôi đã truyền lệnh các quan đón tiếp vị Bà-la-môn ấy tại cung điện của tôi. Tôi đã mời vị Bà-la-môn ấy chờ đợi cho đến khi tôi hồi cung.

 Nay, tôi bị bạn bắt, tôi sẽ không thể gìn giữ đúng lời nói chân thật hứa hẹn với vị Bà-la-môn ấy.

- Này Porisāda bạn thân mến! Tôi xin bạn cho tôi hồi cung trở về, để nghe vị Bà-la-môn thuyết xong 4 bài kệ ấy, tôi sẽ là người không còn nợ nữa, tôi hứa chắc chắn sẽ trở lại gặp bạn, tôi xin giữ gìn đúng lời hứa chân thật này. Xin bạn hãy tin chắc nơi tôi.

Tên sát nhân Porisāda tâu rằng:

- Tâu Đại Vương cao thượng, người nào biết quý sinh mạng, mong mỏi kiếp sống an lạc, khi được ra khỏi tay kẻ thù là tử thần rồi, người ấy chắc chắn sẽ không trở lại gặp kẻ thù nữa. Cho nên, điều mà Đại Vương hứa, tôi chưa có thể tin được.

- Tâu Đại Vương cao thượng, Đại Vương sẽ không trở lại tìm tôi nữa đâu! Khi Đại Vương thoát ra khỏi tay của tôi, ngự trở lại cung điện, hưởng mọi sự an lạc trong cung điện, Đại Vương rất quý sinh mạng, sống an lành. Chẳng bao giờ Đại Vương có thể trở lại tìm tôi nữa!

Nghe Porisāda không tin vào lời hứa của mình, nên Đức Vua Bồ Tát Sutasoma truyền bảo rằng:

- Này Porisāda bạn thân mến! Tôi với bạn cùng sống chung với nhau, cùng học chung một Tôn Sư qua nhiều năm trước đây, bạn đã từng nghe tôi nói dối bao giờ chưa? Nay, tôi có thể nói dối chỉ vì sinh mạng hay sao?

 

Dù gió thổi bay hòn núi lớn, mặt trời, mặt trăng rơi xuống mặt đất, nước dòng sông chảy ngược. Dù những điều ấy có thật thì tôi vẫn không thể nói dối được.

Dù hư không nứt rạn, nước trong các đại dương khô cạn, mặt đất có đảo ngược, núi Suneru bị nhổ chân núi. Dù những điều ấy có thật thì tôi vẫn không thể nói dối được.

Dù Đức Vua Bồ Tát Sutasoma đã truyền bảo như vậy, nhưng tên sát nhân Porisāda vẫn chưa chịu tin. Ngài nghĩ: Ta đã nói hết lời như vậy mà Porisāda vẫn chưa chịu tin, ta sẽ làm cho y tin bằng lời thề của ta”.

Khi ấy, Đức Vua Bồ Tát Sutasoma vẫn còn đang ngồi trên vai của tên sát nhân Porisāda, nên Ngài truyền bảo rằng:

- Này Porisāda bạn thân mến! Xin bạn hãy đặt tôi đứng xuống đất, tôi sẽ nói lên lời thề trước mặt bạn, để

cho bạn tin lời thề chân thật của tôi.

Tên sát nhân Porisāda đặt Đức Vua Bồ Tát Sutasoma đứng xuống đất. Khi ấy, Đức Vua Bồ Tát Sutasoma tay cầm thanh gươm báu dõng dạc phát lời thề rằng:

- Này Porisāda bạn thân mến! Tôi xin thề trước mặt bạn rằng: “Bạn thả tôi trở về cung điện, tôi sẽ gặp lại vị Bà-la-môn đúng theo hứa hẹn, để tôi được nghe vị Pháp Sư Bà-la-môn thuyết dạy 4 bài kệ của Đức Phật Kassapa.

Sau khi nghe xong, tôi sẽ cúng dường đến vị Pháp Sư Bà-la-môn. Khi ấy, tôi là người không còn mắc nợ nữa. Tôi xin thề chắc chắn sẽ trở lại tìm gặp bạn. Tôi xin giữ gìn lời thề chân thật này”.

Nghe lời thề của Đức Vua Bồ Tát Sutasoma, tên sát nhân Porisāda suy xét: “Để giữ gìn lời hứa hẹn với vị Bà-la-môn Pháp Sư mà Đức Vua Sutasoma đã dám thề nặng như vậy, mà chắc chắn không có Đức Vua nào dám thề. Vậy, ta còn muốn gì hơn nữa. Dù Đức Vua Sutasoma có trở lại gặp ta hoặc không trở lại gặp ta, điều ấy không còn quan trọng gì nữa, bởi vì chính ta cũng là Đức Vua, nếu không có Đức Vua Sutasoma, thì ta sẽ lấy máu của ta làm lễ cúng dường tạ ơn chư thiên cũng được vậy!” 

Sau khi suy xét xong, tên sát nhân Porisāda tâu rằng:

- Tâu Đại Vương kính mến! Lời hứa hẹn nào mà Đại Vương đã hứa hẹn với vị Pháp Sư Bà-la-môn, khi ngự ra khỏi thành, vậy, kính thỉnh Đại Vương hồi cung ngự trở về gặp vị Pháp Sư Bà-la-môn đúng theo lời hứa hẹn chân thật ấy.

Kính xin Đại Vương giữ lời hứa chân thật là sẽ ngự trở lại gặp tôi.

Đức Vua Bồ Tát Sutasoma truyền rằng:

- Này Porisāda bạn thân mến! Xin bạn hãy an tâm. Sau khi đã nghe 4 bài kệ từ vị Pháp Sư Bà-la-môn, cúng dường đến vị Pháp Sư xong, tôi sẽ trở lại gặp bạn từ sáng sớm. Xin bạn hãy tin theo lời hứa chân thật của tôi.

Tên sát nhân Porisāda tâu với Đức Vua Bồ Tát rằng:

- Tâu Đại Vương kính mến! Đại Vương đã truyền lời thề mà không có một Đức Vua nào dám thề cả. Vậy, kính xin Đại Vương nhớ lời hứa với tôi.

Khi ấy, Đức Vua Bồ Tát Sutasoma truyền bảo với tên sát nhân Porisāda rằng:

- Này Porisāda bạn thân mến! Tôi với bạn cùng sống, cùng học chung với nhau trong thời thiếu niên, tôi chưa từng nói dối dù là lời nói đùa vui. Bây giờ, tôi đã là Đức Vua đứng đầu trong một nước, tôi lại có thể nói dối chỉ vì sinh mạng được hay sao!

 - Này Porisāda bạn thân mến! Bạn hãy tin lời hứa chân thật của tôi, chắc chắn tôi sẽ trở lại gặp bạn kịp lễ cúng dường tạ ơn chư thiên, rồi bạn sẽ ăn thịt tôi vào ngày mai.

Tên sát nhân Porisāda tâu với Đức Vua Bồ Tát rằng:

- Tâu Đại Vương kính mến! Kính xin Đại Vương ngự trở về ngay bây giờ. Ngày mai, xin Đại Vương trở lại sớm. Bởi vì, nếu thiếu Đại Vương thì chư thiên không nhận lễ cúng dường tạ ơn của tôi. Vậy, kính xin Đại Vương đừng làm hỏng lễ cúng dường tạ ơn chư thiên của tôi.

 

Đức Vua Bồ Tát Sutasoma Được Phép Hồi Cung

Tên sát nhân Porisāda tiễn đưa Đức Vua Bồ Tát Sutasoma hồi cung ngự trở về. Rời khỏi tay tên sát nhân

Porisāda, Đức Vua Bồ Tát Sutasoma có sức mạnh như voi chúa ngự trở về kinh thành Indapatta.

Khi ấy, các đội binh đang đứng chờ Ngài ở ngoài cửa thành. Họ tin chắc rằng Ngài có tài thuyết pháp hay có thể thuyết phục được tên sát nhân Porisāda thả Ngài ngự trở về. Vả lại, các đội binh không dám vào kinh thành, bởi vì sợ Đức Thái Thượng Hoàng, Hoàng Thái hậu, dân chúng trong kinh thành chê trách: “Các đội binh hùng mạnh như vậy, tại sao không thể hộ giá bảo vệ Đức Vua được, để cho tên sát nhân Porisāda bắt Đức Vua đem đi”.

Khi nhìn từ xa thấy Đức Vua Bồ Tát Sutasoma đang ngự trở về, tất cả các đội binh đứng nghiêm chỉnh đón tiếp Ngài, rồi tâu rằng:

- Tâu Bệ hạ, chúng hạ thần bất lực quá, không bảo vệ được Bệ hạ, để tên sát nhân Porisāda bắt Bệ hạ, long thể Bệ hạ có bất an hay không?

Đức Vua Bồ Tát Sutasoma truyền bảo rằng:

- Này các khanh! Trẫm vẫn được bình an, tuy Pori-sāda là tên sát nhân tàn ác, nhưng nghe Trẫm thuyết phục bằng lời chân thật, y đã tin, rồi thả Trẫm trở về.

Các quan kính thỉnh Đức Vua Bồ Tát ngự lên voi báu cùng các quan ngự vào cung điện.

Nhìn thấy Đức Vua hồi cung, toàn thể dân chúng vô cùng hoan hỷ tung hô ca tụng Ngài. Ngài là bậc biết kính trọng pháp nên nghĩ: “Sau khi ta nghe 4 bài kệ từ vị Pháp Sư Bà-la-môn xong, ta sẽ ngự đến chầu Đức Phụ Vương và Mẫu hậu của ta”.

Vì nghĩ như vậy Ngài ngự thẳng đến cung điện, ngự lên ngai vàng rồi truyền các quan rằng:

- Này các khanh! Các khanh hãy gọi thợ đến sửa râu,

tóc cho Pháp Sư Bà-la-môn, tắm rửa sạch sẽ, mặc trang

phục sang trọng, rồi thỉnh Pháp Sư đến yết kiến Trẫm.

Tuân theo lệnh của Đức Vua Bồ Tát Sutasoma, các quan đã phục vụ vị Pháp Sư Bà-la-môn xong, thỉnh đến chầu Ngài. Ngài kính dâng phần vật thực của mình đến cho vị Pháp Sư Bà-la-môn dùng, còn Ngài dùng phần vật thực khác.

Sau khi vị Pháp Sư Bà-la-môn dùng xong, Ngài kính thỉnh vị Pháp Sư ngồi trên ngai vàng, rồi cúng dường hoa, vật thơm với tâm tôn kính đến vị Pháp sư. Đức Vua Bồ Tát Sutasoma ngự một chỗ hợp lẽ thấp hơn, rồi kính thỉnh vị Pháp sư Bà-la-môn rằng:

- Kính thưa Pháp Sư, Trẫm xin kính thỉnh Pháp Sư thuyết cho Trẫm nghe 4 bài kệ gọi là “Satārahagāthā” để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài cho Trẫm.

Nghe Đức Vua Bồ Tát Sutasoma kính thỉnh xong, vị Pháp sư Bà-la-môn rửa 2 tay bằng nước hoa thơm, đưa tay lấy 4 bài kệ từ trong hộp quý, 2 tay cầm bổn kệ ngay trước ngực tâu rằng:

- Tâu Đại Vương, Bây giờ, kính xin Đại Vương lắng nghe 4 bài kệ gọi là “Satārahagāthā” mà Đức Phật Kassapa đã thuyết giảng, để chứng ngộ Niết Bàn bất tử, để diệt tham, sân, si. 4 bài kệ ấy như sau:

 

4 Bài kệ Satārahagāthā

 

1- “Sakideva Mahārājā, sabbhi hoti samāgamo

 Sā naṃ saṅgati pāleti, nāsabbhi bahu saṅgamo”.

Ý nghĩa:

 

Tâu Đại Vương Sutasoma,

Sự thân cận với chư bậc thiện trí,

Dù chỉ một lần mà thôi,

Sự thân cận ấy cũng hộ trì người ấy được.

Dù gần gũi nhiều lần với những kẻ si mê,

Vẫn không thể hộ trì người ấy được.

 

2-“Sabbhireva samāsetha, sabbhi kubbetha santhavaṃ.

Sataṃ saddhammamaññāya, seyyo hoti na pāpiyo”.

Ý nghĩa:

 

Hãy nên thân cận với chư bậc thiện trí,

Hãy nên gần gũi kết bạn thân với chư bậc thiện trí.

Sự hiểu biết chánh pháp của chư bậc thiện trí,

Chỉ có cao thượng chứ không có thấp hèn.

 

3- “Jīranti ve rājarathā sucittā,

Atho sarīrampi jaraṃ upeti.

Satañca dhammo na jaraṃ upeti,

Santo have sabbhi pavedayanti”.

Ý nghĩa:

 

Long xa được trang hoàng đẹp đẽ tuyệt vời,

Cũng có ngày bị cũ rích, hư hoại. Cũng như vậy,

Thân thể được điểm trang xinh đẹp lộng lẫy,

Cũng có ngày đến tuổi già nua, tan rã.

Chư Phật, chư Thánh đều ca tụng Niết Bàn,

Thật sự, pháp Niết Bàn là bất lão, bất tử.

 

4- “Nabhañca dūre pathavī ca dūre,

Pāraṃ samuddassa tadāhu dūre.

Tato have dūrataraṃ vadanti,

Satañca dhammo asatañca Rājā”.

Ý nghĩa:

 

Tâu Đại Vương Sutasoma,

Bầu trời xa cách mặt đất,

Mặt đất cũng xa cách bầu trời.

Bờ đại dương bên này xa cách bờ bên kia.

Thật sự, xa cách nhau hơn cả, đó là

Chánh pháp của bậc thiện trí,

Với tà pháp của kẻ si mê.

Thật nghìn trùng xa cách!

 

Nghe xong 4 bài kệ ấy, Đức Vua Bồ Tát Sutasoma suy xét: Sự trở về của ta đã đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lớn lao quá! Bốn bài kệ này không phải là lời dạy của các vị đạo sĩ, cũng không phải lời thơ của các nhà thi sĩ, cũng không phải là lời dạy của chư Thanh Văn đệ tử Phật. Mà thật sự, 4 bài kệ này chính là lời giáo huấn của chư Phật Chánh Đẳng Giác.

Thật là vô cùng cao thượng! Thật là vô giá!

Nếu có thất báu chất đầy từ cõi người lên đến 6 cõi trời dục giới, các cõi trời sắc giới phạm thiên tột đỉnh, thì cũng không thể sánh được với 4 bài kệ này”.

Suy xét về sự cúng dường đến vị Pháp Sư Bà-la-môn, Đức Bồ Tát Sutasoma xét thấy vị Pháp Sư chỉ có khả năng thọ nhận được số tiền mỗi bài kệ 1.000 Kahāpana mà thôi, nên Ngài truyền lệnh các quan đem ra 4.000 Kahāpana. Ngài thưa với vị Pháp Sư rằng:

- Kính thưa Pháp Sư, khi Pháp Sư thuyết 4 bài kệ này đến các Đức Vua khác, thì Pháp Sư được cúng dường mỗi bài kệ bao nhiêu? Thưa Ngài.

 

- Tâu Đại Vương, hạ thần được cúng dường mỗi bài kệ 100 Kahāpana. Do đó, bài kệ này có tên Satāraha-gāthā: bài kệ đáng giá 100 Kahāpana.

Đức Vua Bồ Tát Sutasoma thưa rằng:

- Kính thưa vị Pháp Sư, Trẫm xin cúng dường mỗi bài kệ 1.000 Kahāpana. Xin gọi là “Sahassarahagāthā" bài kệ đáng giá 1.000 Kahāpana.

- Kính thưa vị Pháp Sư, Trẫm kính xin cúng dường 4.000 Kahāpana đến Ngài, kính xin Ngài thọ nhận 4.000 đồng Kahāpana này.

Khi ấy, toàn thể chư thiên đều hoan hỷ thốt lên lời Sādhu! Sādhu! Sādhu! Lành thay vang rền khắp mọi nơi. Đức Vua Bồ Tát Sutasoma truyền các quan đem ban cho vị Pháp Sư Bà-la-môn một chiếc xe sang trọng, rồi tiễn vị Pháp Sư lên đường trở về cố quốc.

Sau đó Đức Vua Bồ Tát Sutasoma ngự đến chầu Đức Phụ Vương và Mẫu hậu, đảnh lễ song thân xong, đứng một nơi hợp lẽ.

Đức Thái thượng hoàng truyền hỏi rằng:

- Này hoàng nhi yêu quý! Con đã thoát khỏi tay tên sát nhân Porisāda bằng cách nào vậy?

- Muôn tâu Đức Phụ Vương và Mẫu hậu, Porisāda đã cho phép con hồi cung trở về, để nghe 4 bài kệ mà con đã hứa hẹn với vị Pháp Sư Bà-la-môn tại cổng thành, trước khi con đi làm lễ tắm gội đầu ở hồ nước lớn trong vườn thượng uyển.

Sau khi đã nghe 4 bài kệ từ vị Pháp Sư, con cũng đã cúng dường đến vị Pháp Sư Bà-la-môn xong. Nay con kính dâng ngôi báu lại để Đức Phụ Vương trị vì đất nước này.

Còn con đã hứa hẹn với Porisāda, sau khi đã nghe 4 bài kệ, cúng dường vị Pháp Sư Bà-la-môn xong, con sẽ trở lại gặp y. Con thành kính đảnh lễ Đức Phụ Vương và Mẫu hậu, sáng sớm ngày mai, con phải trở lại gặp Porisāda đúng theo lời hứa chân thật của con với y.

Nghe Đức Vua Bồ Tát Sutasoma tâu như vậy, Đức Thái Thượng Hoàng cảm thấy khổ tâm, truyền rằng:

- Này hoàng nhi yêu quý! Con không nên đi đến gặp tên sát nhân Porisāda tàn ác ấy, Đức Phụ Vương sẽ truyền lệnh đem các bộ binh vây bắt, giết tên sát nhân Porisāda ấy, bởi vì y là kẻ thù của chúng ta.

Nghe Đức Thái Thượng Hoàng truyền bảo như vậy, Đức Vua Bồ Tát Sutasoma tâu rằng:

- Muôn tâu Đức Phụ Vương, Porisāda đã làm điều khó làm, y đã bắt sống được con, rồi lại thả cho con trở về. Con vẫn nhớ những hành vi của Porisāda đối xử tốt với con, và con đã nói lời hứa hẹn chân thật với y rằng: “Sau khi đã nghe 4 bài kệ từ vị Bà-la-môn Pháp Sư, rồi cúng dường đến vị Bà-la-môn Pháp Sư xong, tôi sẽ trở lại gặp bạn, vào sáng sớm ngày mai”.

- Muôn tâu Đức Phụ Vương, con phải giữ đúng lời hứa hẹn chân thật của con với y. Cho nên, con phải đi gặp y, chứ không thể nào thất hứa, làm khổ y được.

 - Muôn tâu Đức Phụ Vương, kính xin Đức Phụ Vương chớ nên bận tâm về con, bởi vì con đã tạo và tích luỹ mọi thiện nghiệp, để làm nơi nương nhờ cho con trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai rồi.

Khi ấy, Chánh cung Hoàng hậu của Đức Vua Sutasoma, các hoàng tử, các công chúa cùng với 16.000 Cung phi đều đến chầu Ngài, khóc than khẩn khoản van xin Ngài không nên ngự đến gặp tên sát nhân Porisāda. Các người trong hoàng tộc, các quan văn võ, các tướng lãnh đều khổ tâm, bởi nghe tin Ngài ngự đến gặp tên sát nhân Porisāda.

Dân chúng trong kinh thành nghe tin rằng: “Đức Vua Sutasoma đã nói lời hứa hẹn chân thật với tên sát nhân Porisāda. Sau khi đã nghe 4 bài kệ từ vị Bà-la-môn Pháp Sư, rồi cúng dường đến vị Bà-la-môn Pháp Sư xong, Đức Vua sẽ trở lại gặp tên sát nhân Porisāda”.

Biết Đức Vua sẽ trở lại gặp tên sát nhân Porisāda đúng

theo lời hứa hẹn chân thật ấy. Dân chúng ai cũng cảm thấy khổ tâm sầu não.

Đức Vua Bồ Tát Sutasoma ở lại tại cung điện suốt đêm hôm ấy, để dạy dỗ các hoàng hậu, hoàng tử, công chúa, cùng các hoàng thân cả thảy.

Đến lúc rạng sáng ngày hôm sau, Đức Vua Bồ Tát Sutasoma ngự đến chầu đảnh lễ Đức Thái Thượng Hoàng và Hoàng Thái Hậu một lần nữa, rồi từ giã Chánh cung Hoàng hậu, các hoàng tử, công chúa, cung phi, các người trong hoàng tộc, các quan văn võ, tướng lĩnh, quân lính, cùng toàn thể dân chúng… Ai ai cũng cảm động trào nước mắt.

 

Đức Vua Bồ Tát Sutasoma Ngự Trở Lại Gặp Porisāda

 

Đức Vua Bồ Tát Sutasoma rời khỏi cung điện, ngự ra cửa thành, mọi người đi theo tiễn đưa Ngài. Tại cửa thành, dân chúng cũng đứng chờ tiễn đưa Ngài đi. Đức Vua Bồ Tát Sutasoma đứng lại truyền bảo từ giã dân chúng, rồi tiếp tục ngự đi đến gặp tên sát nhân Porisāda. Đức Vua Bồ Tát Sutasoma ngự đi trước, dòng người vẫn đi theo sau, Ngài dừng lại lấy cây gác ngang đường rồi truyền lệnh rằng:

- Nếu người nào còn kính yêu Trẫm, thì người ấy không nên bước ngang qua ranh giới bên này!

 Tất cả mọi người không một ai dám vượt qua ranh giới ấy. Họ đứng lại nơi ấy nhìn theo Đức Vua Bồ Tát Sutasoma cho đến khi không còn nhìn thấy hình bóng Ngài nữa. Tất cả mọi người vô cùng xúc động, khóc than tiễn biệt Ngài rồi trở về chỗ ở của mình. Đức Vua Bồ Tát Sutasoma là bậc dũng cảm như sư tử chúa một mình đến gặp tên sát nhân Porisāda.


 Suy Tư Của Tên Sát Nhân Porisāda

 

Từ khi Đức Vua Bồ Tát Sutasoma hồi cung trở về cung điện, tên sát nhân Porisāda nghĩ: Đại Vương Sutasoma, bạn thân thiết của ta, nếu muốn trở lại thì cũng tốt, nếu không muốn trở lại thì cũng được. Vị chư thiên cội cây này sẽ hành phạt ta thế nào ta cũng cam chịu. Ta sẽ giết các Đức Vua này lấy máu và lấy máu của ta thay máu của Đức Vua Sutasoma làm lể cúng dường tạ ơn vị chư thiên cội cây này, và sẽ lấy thịt các Đức Vua này làm món ăn cúng dường tạ ơn vị chư thiên cội cây này”.

Nghĩ xong, tên sát nhân Porisāda đốt đống củi, khi lửa đang còn cháy ngùn ngụt, khói lên nghi ngút, y đang ngồi cặm cụi làm những cây nhọn để lụi thịt nướng thì Đức Vua Bồ Tát Sutasoma đã ngự đến.

Nhìn thấy Ngài tên sát nhân Porisāda vui mừng đón tiếp, tâu rằng:

- Tâu Đại Vương kính mến! Đại Vương đã hoàn thành xong mọi phận sự, rồi mới ngự trở lại đây phải không?

Đức Vua Sutasoma truyền rằng:

- Này Porisāda, bạn thân mến! Tôi đã hoàn thành xong mọi phận sự như: Tôi đã gặp vị Bà-la-môn đúng theo lời hứa hẹn chân thật vào buổi sáng hôm qua; tôi đã nghe vị Pháp Sư Bà-la-môn thuyết 4 bài kệ của Đức Phật Kassapa, rồi tôi đã cúng dường xứng đáng đến vị Pháp Sư Bà-la-môn ấy; tôi đã đến chầu Đức Phụ Vương và Mẫu hậu của tôi; tôi đã từ giã mọi người thân trong hoàng gia; các quan văn võ, các tướng lĩnh, các quân lính; toàn thể dân chúng….

Nay, tôi đến gặp bạn đúng theo lời hứa hẹn chân thật của tôi. Tôi là người không mắc nợ với ai nữa.

- Này Porisāda, bạn thân mến! Ngay bây giờ, bạn có thể đem tôi để làm lễ vật cúng dường tạ ơn chư thiên theo ý của bạn.

Nghe Đức Vua Bồ Tát Sutasoma truyền bảo như vậy, tên sát nhân Porisāda suy xét: Đức Vua Sutasoma đã nghe 4 bài kệ xong, trở thành người dũng cảm, không hề run sợ, chắc chắn là do oai lực của 4 bài kệ ấy.

Vậy, ta nên thỉnh cầu Đức Vua Sutasoma thuyết lại cho ta nghe 4 bài kệ ấy, ta cũng sẽ trở thành người dũng cảm, không run sợ”.

Tên sát nhân Porisāda đã tâu rằng:

- Tâu Đại Vương Sutasoma, bạn thân mến! Lễ cúng dường tạ ơn chư thiên cội cây này, ăn thịt của bạn. Đó là điều chắc chắn đối với tôi, tôi sẽ được như ý.

Nay lửa đang cháy, khói bốc lên nghi ngút, chờ trở thành than hồng, nướng thịt mới chín ngon được. Trong khi chờ đợi, kính xin Đại Vương thuyết lại 4 bài kệ ấy cho tôi nghe trước.

Nghe Porisāda kính xin như vậy, Đức Vua Bồ Tát Sutasoma nghĩ: Bây giờ Porisāda đang có tà kiến, ác tâm phát sinh. Vậy, ta nên thuyết phục y phát sinh thiện tâm, biết hổ thẹn tội lỗi, biết ghê sợ tội lỗi, rồi ta mới thuyết lại 4 bài kệ ấy cho y nghe”. Cho nên, Ngài truyền bảo rằng:

- Này Porisāda, bạn thân mến! Bạn là người ác ăn thịt người, bị đuổi ra khỏi nước, bị lưu đày vào trong rừng sâu này. Bạn là kẻ sát nhân có đôi bàn tay đẫm máu, tạo ác nghiệp giết người ăn thịt với ác tâm tàn nhẫn, độc ác, không có tâm từ, không có tâm bi thương xót mọi người, mọi chúng sinh. Bạn tự làm khổ mình, làm khổ chúng sinh khác. Bạn hành tà pháp của kẻ si mê.

Còn 4 bài kệ của Đức Phật Kassapa này thuộc về chánh pháp của bậc thiện trí. Sao bạn có thể hiểu rõ ý nghĩa cao siêu của chánh pháp được.

Như vậy, nếu tôi thuyết lại 4 bài kệ này cho bạn nghe thì có ích lợi gì đâu?

Nghe Đức Vua Bồ Tát Sutasoma truyền bảo như vậy, tên sát nhân Porisāda không nổi giận, mà còn cảm thấy mát mẻ, bởi vì Ngài truyền bảo với tâm từ mong đem lại sự lợi ích cho y. Y tâu rằng:

- Tâu Đại Vương, bạn thân mến! Các Đức Vua khác mang cung tên vào rừng săn bắn các con thú rừng như nai, v.v… để ăn thịt, tạo ác nghiệp sát sinh. Nếu hành động của các Đức Vua ấy hợp pháp thì hành động của tôi cũng hợp pháp.

- Này Porisāda, bạn thân mến! Thông thường Đức Vua không được phép dùng 10 thứ thịt, trong đó có món thịt người. Bạn là Đức Vua đã dùng món thịt người, thì hợp pháp sao được. Bạn đã phạm tội lỗi rồi!

Tên sát nhân Porisāda không còn cách biện hộ cho mình được nữa, nên quay sang bắt lỗi Đức Vua Sutasoma rằng:

- Tâu Đại Vương Sutasoma, bạn thân mến! Khi Đại Vương đã thoát ra khỏi tay của tôi, ngự trở lại cung điện của mình, đã thoát nạn, hưởng mọi sự an lạc trong cung điện. Đại Vương còn ngự trở lại gặp kẻ thù là tôi.

Như vậy, Đại Vương đã không hiểu rõ chiến lược của một Đức Vua, Đại Vương không biết được con đường tiến hoá và con đường thoái hoá của mình. Danh tiếng của Đại Vương được lan truyền khắp cõi Nam thiện bộ châu này rằng: “Đại Vương là bậc đại thiện trí có trí tuệ siêu việt”, nhưng thật ra, Đại Vương cũng chỉ là hạng người thiểu trí, si mê nhất mà thôi.

Nghe Porisāda chê trách mình như vậy, Đức Vua Sutasoma truyền bảo rằng:

- Này Porisāda, bạn thân mến! Tôi hiểu biết rõ chiến lược của một Đức Vua, nếu những Đức Vua nào thi hành theo sách lược ấy, phần nhiều sau khi chết, ác nghiệp ấy cho quả tái sinh trong cõi địa ngục. Do đó, tôi không thực hành theo sách lược ấy, mà tôi chỉ thực hành theo bậc thiện trí giữ gìn lời hứa hẹn chân thật của tôi mà thôi. Cho nên, tôi trở lại gặp bạn đúng theo lời hứa hẹn chân thật ấy.

 Này Porisāda, bạn thân mến! Bạn hãy đem tôi làm lễ cúng dường tạ ơn chư thiên theo ý muốn của bạn.

Nghe Đức Vua Sutasoma truyền bảo như vậy, tên sát nhân Porisāda tâu rằng:

- Tâu Đại Vương Sutasoma, bạn thân mến! Bạn là một Đại Vương trị vì một đất nước rộng lớn, an hưởng mọi sự an lạc đế vương. Thế mà Đại Vương đã từ bỏ tất cả, trở lại gặp tôi, nghĩa là Đại Vương dám hy sinh thân mạng để giữ lời hứa hẹn chân thật với tôi.

- Tâu Đại Vương, bạn thân mến! Bạn thấy quả báu thực hành giữ gìn lời hứa hẹn chân thật ấy thế nào, mà bạn dám hy sinh thân mạng của bạn vậy?

Đức Vua Sutasoma truyền bảo rằng:

- Này Porisāda, bạn thân mến! Lời chân thật là pháp vị cao quý nhất, cao thượng nhất trong các loại vị trong đời. Các bậc Sa-môn, Bà-la-môn, đều giữ gìn lời nói chân thật, giữ gìn 3 tiết chế chân thật (chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng) mới có thể dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi. Do đó, pháp vị chân thật là pháp cao thượng hơn tất cả mọi thứ vị trong đời.

Lắng nghe Đức Vua Bồ Tát Sutasoma truyền bảo về quả báu của pháp vị chân thật như vậy, tên sát nhân Porisāda nhìn thấy gương mặt của Ngài trong sáng, xinh đẹp như đoá hoa sen hé nở, như mặt trăng ngày rằm trong sáng, nên y mới tư duy: Dù nhìn thấy giàn hoả lửa hồng, dù thấy ta đang làm cây lụi nướng thịt, thế mà Đức Vua Sutasoma vẫn không hề tỏ vẻ sợ sệt chút nào cả. Đó là do oai lực của 4 bài kệ hoặc do oai lực của pháp chân thật của Đức Vua. Ta sẽ tâu hỏi cho rõ”. Suy xét xong, y tâu nhắc lại rằng:

- Tâu Đại Vương Sutasoma, bạn thân mến! Bạn đã thoát khỏi tay tôi, bạn ngự trở về cung điện, an hưởng mọi sự an lạc, rồi bạn trở lại gặp tôi. Bạn không sợ chết hay sao?

 

Người Không Sợ Chết

 

Đức Vua Sutasoma truyền bảo rằng:

- Này Porisāda, bạn thân mến! Tôi đã tạo mọi thiện nghiệp, đã tích luỹ mọi thiện nghiệp mà chư bậc thiện trí tán dương ca tụng. Như vậy, con đường thiện nghiệp của tôi dẫn đến cho quả tái sinh kiếp sau của tôi được rõ ràng chắc chắn rồi. Vả lại tôi là người có giới, đang trú trong mọi thiện pháp ấy. Vậy, sao tôi lại phải sợ chết?

Và cũng chính những thiện pháp ấy sẽ làm cho thiện tâm của tôi trong sáng, sẽ không bị ô nhiễm bởi phiền não trong lúc lâm chung, hy vọng sau khi tôi chết, chắc chắn thiện nghiệp ấy sẽ cho quả tái sinh trong cõi thiện giới: cõi người hoặc cõi trời. Vậy, sao tôi lại phải sợ chết?

- Này Porisāda, bạn thân mến! Bạn hãy đem tôi làm lễ cúng dường tạ ơn chư thiên theo ý muốn của bạn.

- Này Porisāda, bạn thân mến! Tôi đã phụng dưỡng Đức Phụ Vương và Mẫu hậu của tôi một cách cung kính và chu đáo, tôi đã làm tròn phận sự người con rồi; tôi là Đức Vua đã trị vì đất nước bằng thiện pháp. Như vậy, con đường thiện nghiệp của tôi dẫn đến cho quả tái sinh kiếp sau của tôi được rõ ràng chắc chắn rồi. Vả lại tôi là người có giới, đang trú trong mọi thiện pháp ấy. Vậy, sao tôi lại phải sợ chết?

Và cũng chính những thiện pháp ấy sẽ làm thiện tâm của tôi trong sáng, sẽ không bị ô nhiễm bởi phiền não trong lúc lâm chung, hy vọng sau khi tôi chết, chắc chắn thiện nghiệp ấy sẽ cho quả tái sinh trong cõi thiện giới: cõi người hoặc cõi trời. Vậy, sao tôi lại phải sợ chết?

- Này Porisāda, bạn thân mến! Bạn hãy đem tôi làm lễ cúng dường tạ ơn chư thiên theo ý muốn của bạn.

- Này Porisāda, bạn thân mến! Tôi đã nuôi dưỡng Chánh cung Hoàng hậu, các Cung phi, các hoàng tử, các công chúa, giúp đỡ thân quyến và bạn hữu một cách chu đáo; tôi là Đức Vua đã trị vì đất nước bằng thiện pháp. Như vậy, con đường thiện nghiệp của tôi dẫn đến cho quả tái sinh kiếp sau của tôi được rõ ràng chắc chắn rồi. Vả lại tôi là người có giới, đang trú trong mọi thiện pháp ấy. Vậy, sao tôi lại phải sợ chết?

Và cũng chính những thiện pháp ấy sẽ làm cho thiện tâm của tôi trong sáng, sẽ không bị ô nhiễm bởi phiền não trong lúc lâm chung, hy vọng sau khi tôi chết, chắc chắn thiện nghiệp ấy sẽ cho quả tái sinh trong cõi thiện giới: cõi người hoặc cõi trời. Vậy, sao tôi lại phải sợ chết?

- Này Porisāda, bạn thân mến! Bạn hãy đem tôi làm lễ cúng dường tạ ơn chư thiên theo ý muốn của bạn.

- Này Porisāda, bạn thân mến! Tôi đã làm phước bố thí cúng dường đến các Sa-môn, Bà-la-môn một cách cung kính, tế độ mọi người nghèo khổ. Như vậy, con đường thiện nghiệp của tôi dẫn đến cho quả tái sinh kiếp sau của tôi được rõ ràng chắc chắn rồi. Vả lại tôi là người có giới, đang trú trong mọi thiện pháp ấy. Vậy, sao tôi lại phải sợ chết?

Và cũng chính những thiện pháp ấy sẽ làm cho thiện tâm của tôi trong sáng, sẽ không bị ô nhiễm bởi phiền não trong lúc lâm chung, hy vọng sau khi tôi chết, chắc chắn thiện nghiệp ấy sẽ cho quả tái sinh trong cõi thiện giới: cõi người hoặc cõi trời. Vậy, sao tôi lại phải sợ chết?

 - Này Porisāda, bạn thân mến! Bạn hãy đem tôi làm lễ cúng dường tạ ơn chư thiên theo ý muốn của bạn.

Lắng nghe Đức Vua Bồ Tát Sutasoma thuyết giảng như vậy, tên sát nhân Porisāda vô cùng hoảng sợ, nghĩ: “Đại Vương Sutasoma là bậc đại thiện trí cao thượng, có trí tuệ siêu việt, thuyết pháp rất hay, có ý nghĩa sâu sắc. Nếu ta giết Đức Vua Sutasoma để làm lễ cúng dường tạ ơn chư thiên, rồi ăn thịt Đức Vua thì chắc chắn cái đầu của ta sẽ bị vỡ ra làm 7 mảnh, hoặc mặt đất nứt làm đôi rút ta vào trong lòng đất, bởi vì ác nghiệp nặng của ta”. Vì vậy, y tâu rằng:

- Tâu Đại Vương Sutasoma, bạn thân mến! Đại Vương là bậc đại thiện trí cao thượng, tôi không dám giết Đại Vương để làm lễ cúng dường tạ ơn chư thiên, rồi ăn thịt. Nếu người nào dám giết Đại Vương, rồi ăn thịt của Đại Vương thì cái đầu của người ấy chắc chắn sẽ bị vỡ ra làm 7 mảnh.

Trước đây, tên sát nhân Porisāda muốn được nghe 4 bài kệ để trở thành con người dũng cảm, hoàn toàn chưa có đức tin trong sạch nơi chánh pháp. Nay, y muốn được nghe 4 bài kệ đễ hiểu biết được thiện pháp, ác pháp, nên y tâu rằng:

- Tâu Đại Vương, bạn thân mến! Thông thường những người được nghe chánh pháp mới hiểu biết được thiện pháp, ác pháp. Nếu tôi được nghe chánh pháp thì tôi cũng hiểu biết được thiện pháp, ác pháp vậy. Bây giờ, xin kính thỉnh Đại Vương từ bi tế độ tôi, thuyết cho tôi nghe lại 4 bài kệ ấy, để tôi được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài.

Khi ấy, Đức Vua Bồ Tát Sutasoma suy xét: “Bây giờ, Porisāda có nhận thức đúng đắn, có ý nguyện muốn nghe chánh pháp, để hiểu rõ thiện pháp, ác pháp. Vậy, ta nên thuyết lại 4 bài kệ ấy, để tế độ y”. Suy xét như vậy xong Ngài truyền bảo rằng:

- Này Porisāda, bạn thân mến! Bạn hãy nên lắng tai nghe rõ 4 bài kệ như sau:

Bắt đầu, Đức Vua Bồ Tát Sutasoma tán dương ca tụng bài kệ để cho Porisāda phát sinh đức tin trong sạch nơi chánh pháp. Khi ấy, chư thiên trong cõi trời dục giới đều vô cùng hoan hỷ, đồng thanh nói lên lời Sādhu! Lành thay! vang rền khắp các cõi trời. Tất cả chư thiên đều tán dương ca tụng Đức Vua Bồ Tát Sutasoma đã thuyết phục, tế độ được Porisāda. Ngài thuyết lại 4 bài kệ mà vị Bà-la-môn Pháp Sư đã thuyết cho Ngài như sau:

 

4 Bài Kệ

1- “Sakideva Mahārājā, sabbhi hoti samāgamo.

 Sā naṃ saṅgati pāleti, nāsabbhi bahu saṅgamo”.

 

Ý nghĩa:

Tâu Đại Vương Sutasoma,

Sự thân cận với chư bậc thiện trí,

Dù chỉ một lần mà thôi,

Sự thân cận ấy cũng hộ trì người ấy được.

Dù gần gũi nhiều lần với những kẻ si mê,

Vẫn không thể hộ trì người ấy được.

 

2-“Sabbhireva samāsetha, sabbhi kubbetha santhavaṃ.

Sataṃ saddhammamaññāya, seyyo hoti na pāpiyo”.

 

Ý nghĩa:

Hãy nên thân cận với chư bậc thiện trí,

Hãy nên gần gũi kết bạn thân với chư bậc thiện trí.

Sự hiểu biết chánh pháp của chư bậc thiện trí,

Chỉ có cao thượng chứ không có thấp hèn.

 

3- “Jīranti ve rājarathā sucittā,

Atho sarīrampi jaraṃ upeti.

Satañca dhammo na jaraṃ upeti,

Santo have sabbhi pavedayanti”.

 

Ý nghĩa:

Long xa được trang hoàng đẹp đẽ tuyệt vời,

Cũng có ngày bị cũ rích, hư hoại. Cũng như vậy,

Thân thể được điểm trang xinh đẹp lộng lẫy,

Cũng có ngày đến tuổi già nua, tan rã.

Chư Phật, chư Thánh đều ca tụng Niết Bàn,

Thật sự, pháp Niết Bàn là bất lão, bất tử.

 

4- “Nabhañca dūre pathavī ca dūre,

Pāraṃ samuddassa tadāhu dūre.

Tato have dūrataraṃ vadanti,

Satañca dhammo asatañca Rājā”.

 

Ý nghĩa:

 

Tâu Đại Vương Sutasoma,

Bầu trời xa cách mặt đất,

Mặt đất cũng xa cách bầu trời.

Bờ đại dương bên này xa cách bờ bên kia.

Thật sự, xa cách nhau hơn cả, đó là

Chánh pháp của bậc thiện trí,

Với tà pháp của kẻ si mê.

Thật nghìn trùng xa cách!

 

Lắng nghe Đức Vua Bồ Tát Sutasoma thuyết lại 4 bài kệ với giọng rất hay, còn 4 bài kệ có ý nghĩa thật là sâu sắc, Porisāda phát sinh đức tin trong sạch nơi Ngài, đồng thời phát sinh thiện tâm hỷ lạc chưa từng có bao giờ. Porisāda vô cùng tôn kính Đức Vua Bồ Tát Sutasoma, xem Ngài như là Đức Phụ Vương của mình. Porisāda nghĩ: Đại Vương Sutasoma là bậc đại thiện trí thuyết lại 4 bài kệ có ý nghĩa vô cùng sâu sắc, thật là cao thượng. Ta không có phẩm vật nào xứng đáng để cúng dường vị Pháp Sư Đại Vương Sutasoma. Vậy, ta nên cúng dường mỗi ân huệ cho mỗi bài kệ, 4 bài kệ là 4 ân huệ đến vị Pháp Sư Đại Vương Sutasoma”.

Nghĩ xong, Y thành kính tâu rằng:

- Tâu Đại Vương Sutasoma, Pháp Sư kính mến! Đại Vương là bậc Đại thiện trí cao thượng đã thuyết lại 4 bài kệ với giọng rất hay, còn 4 bài kệ có ý nghĩa thật là sâu sắc, làm cho thân tâm tôi phát sinh hỷ lạc chưa từng có bao giờ. Tôi hết lòng thành kính cúng dường đến Ngài, mỗi ân huệ cho mỗi bài kệ, 4 bài kệ là 4 ân huệ với tấm lòng tôn kính và tri ân của tôi.

- Kính xin Pháp Sư Đại Vương Sutasoma nhận 4 ân huệ của tôi.

Nghe Porisāda tâu như vậy, Đức Vua Bồ Tát Sutasoma truyền bảo rằng:

- Này Porisāda, bạn thân mến! Bạn là con người ác, không biết hổ thẹn tội lỗi, không biết ghê sợ tội lỗi, không tin nghiệp và quả của nghiệp, không biết thiện nghiệp nên làm, ác nghiệp không nên làm, không biết

điều lợi, điều hại, không biết sự tử sinh luân hồi.

Bạn là con người tàn nhẫn, độc ác giết người ăn thịt. Vậy, con người tàn ác như bạn lại có thể cúng dường 4 ân huệ cho tôi thật hay sao? Nếu tôi nói với bạn rằng: Tôi xin nhận đủ 4 ân huệ của bạn, thì bạn có dám cúng dường đủ 4 ân huệ ấy cho tôi hay không?

Bây giờ, bạn hứa sẽ cúng dường đến cho tôi đủ 4 ân huệ, nếu khi tôi xin nhận đủ 4 ân huệ ấy thì bạn không chịu cúng dường, chẳng lẽ tôi lại cãi với người ác có sức lực như bạn. Ai là bậc thiện trí phán xét công bằng được?

Nghe Đức Vua Bồ Tát Sutasoma truyền bảo như vậy, Porisāda nghĩ: Đại Vương Sutasoma chưa tin nơi ta, ta sẽ tâu rõ để cho Ngài tin tưởng những điều ta tâu là sự thật”. Y tâu khẳng định rằng:

- Tâu Đại Vương Sutasoma, bạn thân mến! Người nào đã hứa cúng dường 4 ân huệ, rồi không chịu cúng dường đủ 4 ân huệ thì tốt hơn người ấy không nên hứa cúng dường gì cả!

- Tâu Đại Vương Sutasoma, bạn thân mến! Kính xin Đại Vương an tâm tin chắc rằng: “Tôi hứa chắc chắn cúng dường đủ 4 ân huệ và Đại Vương cũng sẽ nhận đủ 4 ân huệ ấy. Dù cho phải hy sinh sinh mạng, thì tôi cũng dám hy sinh sinh mạng, để hiến dâng, để cúng dường đến Đại Vương.

Khi ấy, Đức Vua Bồ Tát Sutasoma nghĩ: “Porisāda can đảm dám thốt lên lời nói khẳng định như vậy, Porisāda chắc chắn sẽ làm theo lời hứa của y. Ta sẽ xin nhận 4 ân huệ của y”. Nghĩ xong Ngài truyền bảo rằng:

- Này Porisāda, bạn thân mến! Nếu bạn đã có thật tâm dâng cho tôi đủ 4 ân huệ thì tôi xin nhận đủ 4 ân huệ của bạn.

 

4 Ân Huệ

 

1- Ân huệ thứ nhất:

- Này Porisāda, bạn thân mến! Tình bằng hữu của bậc Thánh này sánh được với tình bằng hữu của bậc Thánh khác. Sự hiểu biết của bậc thiện trí này sánh được với sự hiểu biết của bậc thiện trí khác. Vậy, tôi mong muốn nhìn thấy bạn khoẻ mạnh sống lâu 100 năm.

 Đó là ân huệ thứ nhất mà tôi mong muốn được.

Nghe Đức Vua Bồ Tát Sutasoma xin ân huệ thứ nhất như vậy, Porisāda hiểu rằng Ngài mong muốn ta được khoẻ mạnh, sống lâu, nên phát sinh tâm vô cùng hoan hỷ tâu rằng:

- Tâu Đại Vương Sutasoma, bạn thân mến! Đại Vương mong muốn nhìn thấy tôi được khoẻ mạnh sống lâu 100 năm. Tôi thành kính dâng đến Đại Vương ân huệ thứ nhất này

 

2- Ân huệ thứ nhì:

- Này Porisāda, bạn thân mến! Những Đức Vua nào thuộc dòng dõi hoàng tộc được làm lễ đăng quang lên ngôi vua trong toàn cõi Nam thiện bộ châu này. Vậy, tôi xin bạn đừng giết những Đức Vua ấy để ăn thịt.

 Đó là ân huệ thứ nhì mà tôi mong muốn được.

Porisāda tâu rằng:

- Tâu Đại Vương Sutasoma, bạn thân mến! Những Đức Vua trong toàn cõi Nam thiện bộ châu này đều không bị tôi giết, để ăn thịt. Tôi thành kính dâng đến Đại Vương ân huệ thứ nhì này.




[ Ðầu trang][Trở về mục lục ][ Trở về trang Thư Viện ]

updated: 2024