• Nền Tảng Phật Giáo - Quyển VI

    PHÁP HẠNH BA-LA-MẬT

    (Tập 1)

  • Soạn giả: Hộ Pháp

Người Thợ Săn Tạo Ác Nghiệp

 Người thợ săn Sonuttara vốn là người đã từng kết oan trái với Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama trong thời quá khứ, nay kiếp hiện tại là Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta. Kiếp hiện tại người thợ săn Sonuttara bị tâm tham của cải mà bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā hứa sẽ ban cho y, do tâm si mê không biết tội lỗi, nên người thợ săn Sonuttara bị bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā sai khiến, đi tìm giết Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta, rồi cưa lấy cặp ngà đen về dâng bà, để lãnh thưởng.

Người thợ săn Sonuttara đã băng qua nhiều khu rừng rậm, leo vượt qua 7 dãy núi cao mới tìm đến được chỗ ở của Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta, đã trải qua suốt thời gian dài 7 năm 7 tháng và 7 ngày.

Người thợ săn Sonuttara trải qua nhiều ngày quan sát  biết được con đường mà Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta ngự đi xuống hồ nước Chaddanta để tắm, sau khi tắm xong ngự đi lên bờ đến đứng nghỉ một chỗ chờ đợi đàn voi tắm xong lên bờ. Khi ấy, Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta dẫn đầu đàn voi ngự trở về chỗ ở của mình.

Quyết định đào cái hầm vuông ngay dưới chỗ Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta đứng nghỉ, chờ đợi đàn voi, người thợ săn Sonuttara xuống núi, vào rừng đốn cây làm cột, cưa cây làm ván sàn, thực hiện đào một cái hầm vuông sâu, có thể đi lại dưới hầm ấy, giữa hầm có chừa một cái lỗ trống để bắn mũi tên tẩm thuốc độc cực mạnh xuyên lên ngay chỗ đứng của Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta, và đào một con đường hầm đi vào cái hầm vuông ấy.

 

Đức Bồ Tát Bạch Tượng Chúa Chaddanta Bị Bắn

Cái hầm vuông sâu đã đào xong, mọi việc đều chuẩn bị sẵn sàng, buổi sáng sớm hôm ấy, người thợ săn Sonuttara mặc tấm y màu vàng lõi mít (kāsāva) tay cầm cây cung vai mang các mũi tên tẩm thuốc độc cực mạnh, đi theo con đường hầm đến chỗ hầm vuông ấy, đứng chờ giữa hầm ngay trên đầu có cái lỗ thông lên mặt đất.

Cũng buồi sáng hôm ấy, Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta dẫn đầu đàn voi 8.000 con ngự đi đến hồ nước Chaddanta. Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta ngự xuống hồ nước tắm xong, rồi trang hoàng các loài hoa sen, hoa súng đủ màu, Đức Bồ Tát bạch tượng chúa ngự đi lên bờ đi đến đứng nghỉ chỗ đứng theo thường lệ, để hóng gió chờ đợi đàn voi. Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta đứng ngay trên nắp hầm, phía dưới hầm người thợ săn Sonuttara đang đứng chờ sẵn từ sáng, nước từ lỗ rún của Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta chảy rơi xuống đất ngay lỗ trống trên nắp hầm, nước rơi xuống trên đầu người thợ săn Sonuttara ở phía dưới.

Biết Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta đang đứng nghỉ hóng gió, chờ đàn voi, ngay chỗ lỗ trống. Người thợ săn Sonuttara lấy cây tên tẩm thuốc độc cực mạnh nạp vào cung, kéo dây cung thật căng bắn mũi tên độc bay ra khỏi cây cung xuyên qua lỗ nắp hầm đâm thủng vào lỗ rún xuyên qua bụng đi thẳng lên cột sống của Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta, rồi mũi tên bay lên hư không, để lại vết thương làm cho máu chảy thành vòi xuống đất, thuốc độc thấm vào thân đau đớn vô cùng. Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta rống lên ba lần.

Nghe tiếng rống của Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta, đàn voi 8.000 con chạy đến nhìn thấy Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta bị thương chúng chạy dẫm nát khu rừng để tìm kẻ thù, riêng voi Chánh cung Hoàng hậu đệ nhất Mahāsubhaddā đến đứng gần an ủi Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta.

Khi ấy, ráng nhẫn nại chịu đựng nỗi đau đớn từ vết thương mũi tên đâm thủng, suy xét đường mũi tên từ đâu đến, Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta thấy mũi tên đâm thủng từ lỗ rún xuyên qua bụng đi thẳng lên cột sống, rồi bay lên hư không. Như vậy, kẻ thù phải đứng dưới hầm bắn lên, không phải nơi nào khác.

Muốn voi Chánh cung Hoàng hậu đệ nhất Mahā-subhaddā rời khỏi nơi ấy, Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta truyền bảo rằng.

- Này ái khanh! Các voi đều đi tìm kẻ thù, tại sao một mình ái khanh đứng tại đây!

Nghe Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta truyền bảo như vậy, voi Chánh cung Hoàng hậu đệ nhất Mahāsubhaddā nghĩ rằng: “Ta cũng nên đi tìm cho ra kẻ thù hại Đức bạch tượng chúa Chaddanta của ta.”

Voi Chánh cung Hoàng hậu đệ nhất Mahāsubhaddā cúi đầu đảnh lễ Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta,  rồi bay lên hư không quan sát phía dưới khu rừng.

Khi ấy, Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta đưa cái vòi móc bật nắp hầm, thấy người thợ săn Sonuttara đứng dưới hầm. Đức Bồ Tát bạch tượng chúa phát sinh tâm sân nghĩ rằng: “Ta sẽ giết người thợ săn này chết.”

Đưa cái vòi xuống bắt người thợ săn Sonuttara đưa lên khỏi mặt đất, thấy y mặc tấm y vàng màu lõi mít (kāsāva) tượng trưng lá cờ chiến thắng của chư Thánh Arahán, Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta đặt nhẹ y nằm xuống phía trước, ráng nhẫn nại chịu đựng nỗi đau đớn cùng cực mà suy sét rằng: “Tấm y màu vàng màu lõi mít (kāsāva) tượng trưng lá cờ chiến thắng của chư Thánh Arahán, mà bậc thiện trí hết lòng tôn kính, ta không nên xúc phạm tấm y màu lõi mít này.”

Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta truyền dạy hai câu kệ rằng:

- Này ngươi! nếu người nào chưa diệt được phiền não, không có giới, không biết thu thúc lục căn thanh tịnh, không có pháp chân thật thì người ấy không xứng đáng mặc tấm y vàng màu lõi mít này. Bậc nào đã diệt tận được phiền não, có giới đức hoàn toàn trong sạch, biết thu thúc lục căn thanh tịnh, có pháp chân thật thì bậc ấy mới xứng đáng mặc tấm y vàng màu lõi mít này.

Sau khi truyền dạy hai câu kệ xong, Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta đè nén, khống chế được tâm sân, không nghĩ đến giết người thợ săn Sonuttara chết nữa.

Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta ráng nhẫn nại chịu đựng nỗi đau khổ cùng cực, truyền hỏi người thợ  săn Sonuttara rằng:

- Này ngươi!  Ngươi bắn Trẫm chết vì sự lợi ích của ngươi hay vì sự lợi ích của người khác? Nếu là vì sự lợi ích của người khác thì ngươì ấy là ai mà khiến ngươi phải vất vả khổ cực tìm đến nơi này, để giết Trẫm như vậy?

Nghe Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta truyền hỏi như vậy, người thợ săn Sonuttara tâu rằng:

- Muôn tâu Đức bạch tượng chúa Chaddanta cao thượng, bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā của Đức Vua Bārāṇasī nhớ lại tiền kiếp của bà là voi Chánh cung Hoàng hậu đệ nhị Cūḷasubhaddā của Đức bạch tượng Chúa. Bà đã từng kết oan trái với Đức bạch tượng Chúa, bà muốn trả thù Đức bạch tượng Chúa, nên bà gọi kẻ tiện dân đến, rồi truyền bảo rằng: - Này người thợ săn Sonuttara! Ta đã từng làm phước thiện và cầu nguyện mong được thành tựu như ý.

Vậy, ngươi chớ nên lo sợ, xin ngươi hãy cố gắng giúp ta giết Đức bạch tượng chúa Chaddanta chết, rồi cưa lấy cặp ngà ấy đem về dâng cho ta.

 Thành tựu được như vậy, ta sẽ tâu lên Đức Vua Bārāṇasī ban thưởng cho ngươi 5 xóm nhà để cho ngươi lấy thuế, hưởng sự an lạc suốt đời.”

- Muôn tâu Đức bạch tượng chúa Chaddanta cao thượng, Chính bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā hướng dẫn chỉ đường cho kẻ tiện dân này đến tại nơi đây.  

Nghe người thợ săn Sonuttara tâu như vậy, Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta nghĩ rằng: “ Bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā này không phải muốn được cặp ngà của ta, mà chính là bà có tác ý ác muốn nhờ người thợ săn này giết ta chết, để trả thù theo lời kết oan trái trong tiền kiếp của bà. Tiền kiếp của bà là voi Chánh cung Hoàng hậu đệ nhị Cūḷasubhaddā phát sinh ác tâm ganh tị, ghen tức với voi Chánh cung Hoàng hậu đệ nhất Mahāsubhaddā của ta. Nay kiếp hiện tại bà là Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā của Đức Vua Bārāṇasī dùng quyền thế để trả thù ta.”

 

Thực Hành Pháp Hành Bố Thí Ba-La-Mật Bậc Trung

Sau khi suy nghĩ xong, Đức Bồ Tát bạch tượng chúa truyền bảo rằng:

- Này người thợ săn! Thật ra, bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā đã biết rõ những cặp ngà của ông cha ta đã cất dấu nơi nào rồi, nhưng bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā có tâm thù hận đã từng kết oan trái với ta, bởi vì tính ganh tị đê hèn của bà, nên bà có thủ đoạn chỉ muốn giết ta mà thôi.

- Này người thợ săn! Ngươi hãy đứng dậy cầm cưa đến cưa cặp ngà, ta biết chắc chắn không bao lâu ta sẽ chết vì thuốc độc cực mạnh này.

Vậy, ngươi hãy mau cưa cặp ngà của ta đem về dâng cho bà, rồi tâu với bà rằng: “Tôi đã giết Đức bạch tượng chúa Chaddanta chết rồi, ý nguyện oan trái của bà kiếp trước, kiếp hiện tại này bà đã trả thù xong, bà đã thành tựu như ý.

Đây là cặp ngà của Đức bạch tượng chúa Chaddanta. Xin bà hãy nhận lấy.”

Nghe Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta truyền bảo như vậy, người thợ săn Sonuttara ngồi dậy đi lấy cây cưa đến gần Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta, để cưa cặp ngà, nhưng Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta cao khoảng 80 củi tay, đứng sừng sững như quả núi bằng bạc, do đó người thợ săn Sonuttara không thể đưa lưỡi cưa đến cái ngà được.

Thấy vậy, Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta nằm xà xuống đất, người thợ săn leo lên đầu Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta, dùng lưỡi cưa cắt chiếc ngà  làm cho Đức Bồ Tát bạch tượng chúa đau đớn máu tuông ra đầy miệng.

Dù người thợ săn Sonuttara dùng hết sức mình, nhưng vẫn chưa cắt đứt được chiếc ngà nào cả.

Khi ấy, Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta ráng nhẫn nại chịu đựng nỗi đau đớn, nhổ máu trong miệng rồi truyền hỏi rằng:

- Này bạn! Bạn không thể cắt đứt được chiếc ngà nào hay sao?

Người thợ săn thưa rằng:

- Muôn tâu Đức bạch tượng chúa Chaddanta cao thượng, kẻ tiện dân này đã cố gắng hết mình mà vẫn chưa cắt đứt được chiếc ngà nào.

- Này bạn! Bạn hãy đỡ cái vòi của Trẫm nắm một đầu  lưỡi cưa và bạn nắm một đầu lưỡi cưa, Trẫm sẽ giúp bạn cắt đứt cặp ngà của Trẫm.

Nhờ Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta giúp  sức, nên người thợ săn Sonuttara mới có thể cắt đứt được cặp ngà có hào quang sáu màu rời ra khỏi thân hình to lớn như quả núi bạc của Đức Bồ Tát bạch tượng chúa.

Khi ấy, Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta truyền bảo người thợ săn cầm cặp ngà có hào quang sáu màu đặt trong cái vòi, rồi truyền bảo với người thợ săn Sonuttara rằng: 

- Này bạn thợ săn Sonuttara! Trẫm ban cho ngươi cặp ngà này không phải Trẫm không quý cặp ngà này, Trẫm ban cho ngươi cặp ngà này, không phải Trẫm cầu mong muốn trở thành vua trời Sakka cõi Tam thập Tam thiên, cũng không phải Trẫm cầu mong muốn trở thành Ma Vương, cũng không phải Trẫm cầu mong muốn trở thành Đức phạm thiên.

Sự thật, Trẫm ban cho ngươi cặp ngà này là Trẫm thực hành pháp hạnh bố thí Ba-la-mật bậc trung, Trẫm chỉ cầu mong muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác mà Trẫm yêu quý nhất gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp trăm ngàn lần cặp ngà có hào quang sáu màu này.”

Khi ấy, Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta phát nguyện rằng:

 Do nhờ phước thiện thực hành pháp hạnh bố thí Ba-la-mật bậc trung này chỉ làm duyên lành để chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác mà thôi.”

Sau khi phát nguyện xong, Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta trao cặp ngà cho người thợ săn Sonuttara. Người thợ săn Sonuttara vô cùng hoan hỷ đón nhận cặp ngà có hào quang sáu màu từ nơi cái vòi của Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta.

Đức Bồ Tát bạch tượng chúa hỏi người thợ săn rằng:

- Này bạn thợ săn Sonuttara! Bạn từ kinh thành Bārāṇasī đến tận nơi này đã trải qua thời gian bao lâu?

Người thợ săn Sonuttara tâu rằng:

- Muôn tâu Đức bạch tượng chúa Chaddanta cao thượng, kẻ tiện dân từ kinh thành Bārāṇasī đến tận nơi này suốt 7 năm, 7 tháng, 7 ngày.

Nghe người thợ săn Sonuttara tâu như vậy, Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta phát nguyện rằng:

“Do oai lực của cặp ngà mà người thợ săn Sonuttara mang trong người sẽ giúp hỗ trợ cho người thợ săn này đi từ nơi đây đến kinh thành Bārāṇasī chỉ trong vòng 7 ngày mà thôi.”

Và tiếp theo, Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta phát nguyện bằng lời chân thật rằng:

Khi Trẫm bị mũi tên tẩm thuốc độc cực mạnh xuyên qua thân thể, làm cho Trẫm phát sinh tâm sân khổ tâm và khổ thân đau đớn cùng cực, nhưng khi Trẫm nhìn thấy người thợ săn mặc tấm y vàng màu lõi mít (kāsāva) tượng trưng lá cờ chiến thắng của chư Thánh A-ra-hán, nên Trẫm đè nén, chế ngự được tâm sân không phát sinh, không làm hại người thợ săn nữa.

Do lời chân thật này, cầu xin các loài thú dữ trong rừng không làm hại người thợ săn Sonuttara này.

Cầu xin cho người thợ săn Sonuttara trở về đến kinh thành Bārāṇasī được an toàn sinh mạng.”

Sau khi phát nguyện xong, Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta băng hà.

Người thợ săn Sonuttara vô cùng tôn kính, lễ bái Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta, rồi từ giã, rời khỏi nơi ấy, vội mang cặp ngà có hào quang sáu màu trở về kinh thành Bārāṇasī ngay khi ấy.

 

 Lễ Hoả Táng Đức Bồ Tát Bạch Tượng Chúa Chaddanta

Sau khi người thợ săn Sonuttara rời khỏi nơi ấy không lâu, Chánh cung Hoàng hậu đệ nhất Mahā-subhaddā cùng đàn voi 8.000 con đi tìm kẻ thù không gặp, vội bay trở về thì nhìn thấy Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta nằm băng hà và cặp ngà đã bị cắt đứt đem đi rồi, không thấy kẻ thù đâu cả.

Chánh cung Hoàng hậu Mahāsubhaddā cùng với đàn voi 8.000 con khóc than thảm thiết, dẫn nhau bay đến chỗ ở của 500 Đức Phật Độc Giác mà từ lâu Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta thường hay đến lễ bái cúng dường đến chư Đức Phật Độc Giác này, cung kính bạch quý Ngài rằng: 

- Kính bạch chư Phật Độc Giác, Đức bạch tượng chúa Chaddanta bị bắn bằng mũi tên độc cực mạnh, đã băng hà rồi.

Kính thỉnh chư Phật Độc Giác ngự đến quán xét thi thể của Đức bạch tượng chúa Chaddanta tại hồ nước Chaddanta.

 Nghe bạch như vậy, 500 Phật Độc Giác bay bằng đường hư không đến tận nơi thi thể của Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta.

Khi ấy, hai con voi lực lưỡng dùng cặp ngà nâng thi thể của Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta, để tỏ lòng tôn kính chư Phật Độc Giác.

Sau đó, đàn voi đi tìm củi chất thành giàn, để làm đại lễ hoả táng Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta. 

   Chư Phật Độc Giác ngồi nhập Thánh Quả suốt đêm ấy.

Sau lễ hoả táng Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta xong, gom tất cả xá lợi của Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta gói lại, rồi làm lễ suy tôn voi Chánh cung Hoàng hậu Mahāsubhaddā làm chúa đàn voi. Đàn voi 8000 đều khóc than thảm thiết lấy phần tro còn lại của lễ hoả táng đem thoa trên đầu để tỏ lòng tôn kính Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta.

Lễ cung nghinh Xá lợi của Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta do voi Chánh cung Hoàng hậu Mahā-subhaddā dẫn đầu đàn voi thỉnh về chỗ ở của mình, rồi làm tháp tôn thờ Xá lợi của Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta một cách tôn nghiêm.

 

Người Thợ Săn Trở Về Kinh Thành Bārāṇasī

Do nhờ oai lực của cặp ngà mà người thợ săn Sonuttara mang theo, và do nhờ lời phát nguyện chân thật của Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta mà người thợ săn Sonuttara trở về được an toàn sinh mạng,  đến kinh thành Bārāṅasī chưa đến 7 ngày.

Trước khi vào kinh thành Bārāṅasī, người thợ săn Sonuttara cho người tâu báo cho bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā biết rằng:

“Kẻ tiện dân thợ săn Sonuttara đã bắn chết Đức bạch tượng chúa Chaddanta bằng mũi tên tẩm thuốc độc của bà và đã cắt được cặp ngà có hào quang sáu màu của Đức bạch tượng chúa Chaddanta rồi. Kẻ tiện dân thợ săn này sẽ đem cặp ngà ấy đến kính dâng lên bà.

Vậy, xin bà trang hoàng cung điện lộng lẫy rực rỡ để đón rước cặp ngà voi quý báu này.”

Nghe tin tâu báo, bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā ngự đến tâu lên Đức vua. Đức Vua truyền lệnh trang hoàng kinh thành và cung điện lộng lẫy rực rỡ như cung điện trên cõi trời.

Bà chánh cung hoàng hậu Subhaddā đã truyền cho người thợ làm ngọc làm cái giá bằng ngọc maṇi, để sẵn sàng chờ đặt cặp ngà quý báu có hào quang sáu màu. Khi người thợ săn Sonuttara về đến kinh thành, lễ đón rước cặp ngà voi quý báu rất trọng thể, người thợ săn đem cặp ngà có hào quang sáu màu lên cung điện của bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā tâu rằng:

- Muôn tâu bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā, tiền kiếp lệnh Bà đã kết oan trái với Đức bạch tượng chúa Chaddanta, do tính ganh tị, ghen tức bởi chuyện  nhỏ nhen. Nay kiếp hiện tại này, lệnh bà đã sai khiến kẻ tiện dân này đến chỗ ở của Đức bạch tượng chúa Chaddanta, bắn chết Đức bạch tượng chúa bằng mũi tên tẩm thuốc độc cực mạnh của bà, và thi hành theo lệnh bà,  kẻ tiện dân này đã cắt cặp ngà quý báu có hào quang sáu màu của Đức bạch tượng chúa Chaddanta.Như vậy, kẻ tiện dân này đã tạo tội ác kinh khủng. Nay, kẻ tiện dân này xin kính dâng cặp ngà quý báu này lên lệnh bà. Kính xin lệnh bà đón nhận.

 

Chánh Cung Hoàng Hậu Thoả Nguyện

Nghe người thợ săn Sonuttara trân trọng nâng cặp ngà quý báu ấy tâu như vậy, bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā vô cùng hoan hỷ đón nhận cặp ngà quý báu của Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta, lời nguyện cầu của bà đã được thành tựu như ý. Bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā ôm cặp ngà quý báu có hào quang sáu màu trên ngực một cách vô cùng sung sướng.

Khi ấy, bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā liền nhớ lại tiền kiếp của bà rằng: “Tiền kiếp của ta sinh làm con voi Chánh cung Hoàng hậu đệ nhị Cūḷasubhaddā của Đức bạch tượng chúa Chaddanta, bởi vì tính ganh tị, ghen tức nhỏ nhen với voi Chánh cung Hoàng hậu đệ nhất Mahāsubhaddā, nên tiền kiếp của ta đã kết oan trái với Đức bạch tượng chúa Chaddanta, quyết tâm trả thù.

Nay kiếp hiện tại này, ta là Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā được Đức Vua Bārāṇasī sũng ái nhất, ta đã nhờ người thợ săn Sonuttara bắn chết Đức bạch tượng chúa Chaddanta bằng mũi tên tẩm thuốc độc cực mạnh của ta để trả thù, rồi cắt cặp ngà quý báu có hào quang sáu màu này. Đây là cặp ngà quý báu của Đức bạch tượng chúa Chaddanta. Đức phu quân tiền kiếp của ta”

Khi ấy, bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā phát sinh tâm sầu não cùng cực, nên bị vỡ tim chết ngay tại nơi ấy.

 

Tích Chaddantajātaka Liên Quan Đến Kiếp Hiện Tại

Trong tích Chaddantajātaka này, Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama sinh làm Đức bạch tượng chúa Chaddanta trong thời quá khứ. Đến khi Đức Phật Gotama đã xuất hiện trên thế gian, thì hậu kiếp của những nhân vật trong tích Chaddantajātaka liên quan đến kiếp hiện tại của những nhân vật ấy như sau:

- Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā,, nay kiếp hiện tại là vị tỳ khưu ni trẻ cười và khóc ở giữa hội chúng.

- Người thợ săn Sonuttara, nay kiếp hiện tại là Tỳ khưu Devadatta.

- Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta, nay kiếp hiện tại là Đức Phật Gotama.

 Đức Thế Tôn thuyết về tích Chaddantajātaka này xong, chư Tỳ khưu có số trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, v.v…tuỳ theo các pháp hạnh Ba-la-mật của mỗi vị.

Về sau, vị Tỳ khưu ni trẻ thực hành pháp hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

 

10 Pháp Hạnh Ba-la-mật.

Tóm lược tích Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta là tiền kiếp của Đức Phật Gotama đã thực hành pháp hạnh giữ giới Ba-la-mật bậc trung đồng thời các pháp hạnh Ba-la-mật khác cũng được thành tựu cùngmột lúc như  sau:

1- Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta bố thí cặp ngà quý nhất, đó là pháp hạnh bố thí Ba-la-mật.

2- Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta có trí tuệ sáng suốt biết rõ những điều nên làm, đó là pháp hạnh trí tuệ Ba-la-mật.

3- Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta có sự tinh tấn, đó là pháp hạnh tinh tấn Ba-la-mật.

4- Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta có đức nhẫn nại, đó là pháp hạnh nhẫn nại Ba-la-mật.

5- Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta nói lời chân thật, đó là pháp hạnh chân thật Ba-la-mật.

6- Đức Bồ tát bạch tượng chúa Chaddanta phát nguyện bằng lời chân thật, đó là pháp hạnh phát nguyện Ba-la-mật.

7- Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta có tâm từ, đó là pháp hạnh tâm từ Ba-la-mật.

8- Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta có tâm xả, đó là pháp hạnh tâm xả Ba-la-mật.

Đó là 8 pháp hạnh Ba-la-mật cùng thành tựu với pháp hạnh giữ giới Ba-la-mật bậc trung này.

Nhận Xét Về Tích Đức Bồ Tát Bạch Tượng Chúa Chaddanta   

Pháp hạnh giữ giới Ba-la-mật bậc trung là 1 trong 10 pháp hạnh Ba-la-mật bậc trung, cũng là 1 trong 30 pháp hạnh Ba-la-mật mà Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác cần phải thực hành cho được đầy đủ trọn vẹn, để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác (Sammāsambuddha).

Pháp hạnh giữ giới Ba-la-mật đó là tâm sở tác ý (cetanācetasika) đồng sinh với các thiện tâm tránh xa mọi hành ác do thân và khẩu. 

Tích Chaddantajātaka. Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama sinh làm Đức bạch tượng chúa Chaddanta bị người thợ săn Sonuttara bắn bằng mũi tên tẩm thuốc độc cực mạnh, làm cho thân thể vô cùng đau đớn, phát sinh tâm sân có ý định giết người thợ săn Sonuttara, nhưng khi nhìn thấy người thợ săn Sonuttara mặc tấm y vàng màu lõi mít (kāsāva) tượng trưng lá cờ chiến thắng của chư Thánh Arahán, nên Đức Bồ Tát bạch tượng chúa phát sinh thiện tâm tôn kính tấm y vàng ấy, mới đè nén, chế ngự được tâm sân, tránh xa sự sát sinh, để giữ gìn giới của mình cho được hoàn toàn trong sạch.

Như vậy, Đức Bồ Tát bach tượng chúa Chaddanta đã thực hành pháp hạnh giữ giới Ba-la-mật. 

 Truyền hỏi người thợ săn Sonuttara, Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta biết rằng: “Người thợ săn Sonuttara đến tận nơi này, bắn ta theo lệnh của bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā, mà tiền kiếp của bà là voi Chánh cung Hoàng hậu đệ nhị Cūḷasubhaddā của ta. Chánh cung Hoàng hậu đệ nhị Cūḷasubhaddā có tính ganh tị, ghen tức với voi Chánh cung Hoàng hậu đệ nhất Mahāsubhaddā bởi vì chuyện nhỏ nhen, nên kết oan trái với ta, quyết tâm trả thù. 

Nay kiếp hiện tại là Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā của Đức Vua Bārāṇasī, dựa vào quyền thế Đức Vua, bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā chỉ đường người thợ săn Sonuttara tìm đến đây, để bắn ta chết bằng mũi tên tẩm thuốc độc cực mạnh của bà, để trả thù, và bà truyền bảo người thợ săn Sonuttara cưa cặp ngà quý báu có hào quang sáu màu của ta, đem về dâng cho bà, để lãnh thưởng.”


Được biết rõ như vậy, Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta chấp nhận hy sinh, thực hành pháp hạnh giữ giới Ba-la-mật bậc trung, để cho người thợ săn Sonuttara cưa cặp ngà quý báu của Đức Bồ Tát bạch tượng chúa, đem về dâng cho bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā. 

Với ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, Đức Bồ Tát có thể hy sinh tất cả thậm chí kể cả sinh mạng của mình cốt chỉ để bồi bổ các pháp hạnh Ba-la-mật cho được đầy đủ trọn vẹn mà thôi. Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta truyền bảo với người thợ săn Sonuttara rằng:

- “Này bạn thợ săn Sonuttara! Trẫm ban cho ngươi cặp ngà này không phải Trẫm không quý cặp ngà này, Trẫm ban cho ngươi cặp ngà này, không phải Trẫm cầu mong muốn trở thành vua trời Sakka cõi Tam thập Tam thiên, cũng không phải Trẫm cầu mong muốn trở thành Ma Vương, cũng không phải Trẫm cầu mong muốn trở thành Đức phạm thiên. Sự thật, Trẫm ban cho ngươi cặp ngà này là Trẫm thực hành pháp hạnh bố thí Ba-la-mật, Trẫm chỉ cầu mong muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác mà Trẫm yêu quý nhất gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp trăm ngàn lần cặp ngà có hào quang sáu màu này."

Khi ấy, Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta phát nguyện rằng:

Do nhờ phước thiện thực hành pháp hạnh bố thí Ba-la-mật này chỉ làm duyên lành để chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác mà thôi.

        (Xong pháp hạnh giữ giới Ba-la-mật bậc trung)

 

 2-3 Pháp Hạnh Giữ Giới Ba-La-Mật Bậc Thượng (Sīlaparamatthapāramī)

   Tích Saṅkhapālajātaka (Xăn-khắ-pà-lá-chà-tá-ká)

Trong tích Saṅkhapālajātaka ([1]) này, Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama sinh làm Đức Long Vương tên là Saṅkhapālanāgarājā thực hành pháp hạnh giữ giới Ba-la-mật bậc thượng (Sīlaparamatthapāramī). Tích này được bắt nguồn như sau:

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sāvatthi, khi ấy, những người cận sự nam, cận sự nữ, đang thọ trì và giữ gìn bát giới uposathasīla trong ngày giới hằng tháng. Đức Thế Tôn ngự đến ngồi trên pháp tòa, rồi truyền bảo khuyến khích chư cận sự nam, cận sự nữ rằng:

- Này các con! Trong thời quá khứ, Đức Long Vương tiền bối đã từ bỏ ngai vàng trong cõi Long cung, tìm đến nơi yên tĩnh để thọ trì và giữ gìn bát giới uposathasīla trong ngày giới hằng tháng.

Nghe Đức Thế Tôn truyền bảo như vậy, các người cận sự nam, cận sự nữ đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi kính thỉnh Ngài thuyết giảng về tích Đức Long Vương tiền bối ấy.

 

Tích Saṅkhapālajātaka 

Đức Thế Tôn thuyết giảng về tích Đức Long Vương Saṅkhapālajātaka được tóm lược như sau:

Trong thời quá khứ, Đức Vua nước Magadha ngự tại kinh thành Rājagaha. Khi ấy, Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama sinh làm Thái tử của bà Chánh cung Hoàng hậu của Đức Vua nước Magadha. Đức Bồ Tát tên là Thái tử Duyyodhana. Khi Đức Bồ Tát Thái tử Duyyodhana trưởng thành được Đức Vua truyền gửi đi học tại kinh thành Takkasilā. Sau khi Ngài học thành tài xong trở về nước Magadha. 

Sau đó, Đức Phụ Vương làm lễ đăng quang truyền ngôi báu cho Đức Bồ Tát Thái tử Duyyodhana lên làm vua, ngự tại kinh thành Rājagaha trị vì nước Magadha.Đức Phụ Vương của Ngài từ bỏ cung điện đi xuất gia trở thành đạo sĩ trú tại vườn thượng uyển. Đức Vua Bồ Tát Duyyodhana ngự đến hầu Đức Phụ Vương đạo sĩ tại vườn thượng uyển mỗi ngày 3 lần. Hằng ngày, các quan, dân chúng đến hầu Đức đạo sĩ tại vườn thượng uyển, họ đem theo những lễ vật đến cúng dường Đức đạo sĩ. Cho nên, những lễ vật càng nhiều, càng làm quấy rầy Đức đạo sĩ, không thuận lợi cho việc thực hành pháp môn thiền định. Đức đạo sĩ suy nghĩ: “Ta trú tại vườn thượng uyển này không thuận lợi cho việc thực hành pháp hành thiền định. Vậy, ta nên đi tìm nơi thanh vắng yên tịnh, để cho thuận lợi cho việc thực hành pháp hành thiền định”.

Suy nghĩ như vậy, không muốn thông báo cho Đức Vua biết, Đức đạo sĩ rời khỏi vườn thượng uyển đi ra khỏi nước Magadha, sang nước Mahisaka đến chân núi Candaka, làm cốc lá nhỏ gần con sông Kaṇṇaveṇṇā trú ngụ. Con sông này bắt nguồn từ hồ nước lớn Saṅkhapāla. Đức đạo sĩ thực hành thiền định dẫn đến chứng đắc các bậc thiền và chứng đắc phép thần thông. Hằng ngày, Đức đạo sĩ đi khất thực để nuôi mạng.

Đức Long Vương Saṅkhapāla cùng nhóm tuỳ tùng hộ giá đông đảo thỉnh thoảng xuất hiện đến hầu nghe Đức đạo sĩ thuyết pháp.

Đức Vua Bồ Tát Duyyodhana truyền lệnh cho các quan dò hỏi để tìm chỗ ở của Đức Phụ Vương đạo sĩ. Khi biết được chỗ ở của Đức đạo sĩ, Đức Vua Bồ Tát cùng các quan ngự đến thăm Đức Phụ Vương đạo sĩ tại cốc lá nhỏ ở chân núi Candaka gần con sông Kaṇṇaveṇṇā. Khi ấy, Đức Long Vương Saṅkhapāla cùng với nhóm tuỳ tùng thuộc hạ đang ngồi nghe Đức đạo sĩ thuyết pháp.

Nhìn thấy Đức Vua Bồ Tát Duyyodhana cùng các quan ngự đến, Đức Long Vương Saṅkhapāla đánh lễ Đức đạo sĩ, rồi cùng nhóm tuỳ tùng đông đảo xin phép trở về cõi long cung chỗ ở của mình. Đức Vua Bồ Tát Duyyodhana đảnh lễ Đức Phụ Vương đạo sĩ, rồi ngồi một chỗ hợp lẽ, vấn an sức khoẻ của Đức Phụ Vương đạo sĩ xong bạch hỏi rằng:

- Kính bạch Đức Phụ Vương, vừa rồi Đức Vua nước nào đã ngự đến đây nghe Đức Phụ Vương thuyết pháp vậy?

- Này Hoàng nhi! Đức Vua ấy là Long Vương Saṅkhapāla từ cõi long cung, thỉnh thoảng ngự đến nghe Phụ Vương thuyết pháp.

Nghe Đức Phụ Vương truyền bảo như vậy, Đức Vua Bồ Tát Duyyodhana có ý nguyện muốn trở thành Đức Long Vương. Cho nên, sau khi hồi cung, Ngài truyền lệnh lập ra 4 trại bố thí tại 4 cửa thành để tế độ những người nghèo khổ, những khách qua đường, và giữ gìn ngũ giới, thọ trì bát giới uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng, rồi phát nguyện rằng: “Do nhờ thiện nghiệp này, xin kiếp sau trở thành Đức Long Vương”.

Thật vậy, sau khi Đức Vua Bồ Tát Duyyodhana băng hà, do năng lực lời phát nguyện, nên thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm kiếp Đức Long Vương Saṅkhapāla-nāgarājā trị vì cõi long cung, hưởng mọi sự an lạc trong cõi long cung. Qua một thời gian, Đức Bồ Tát Long Vương Saṅkha-pāla cảm thấy nhàm chán những sự an lạc trong ngũ dục: (sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, xúc dục) mà muốn tái sinh trở lại làm người trong cõi người, để thuận lợi thực hành các pháp hạnh Ba-la-mật. Cho nên, Ngài phát nguyện thọ trì bát giới uposathasīla tại cõi long cung.

Sau khi Đức Bồ Tát Long Vương Saṅkhapāla đã phát nguyện thọ trì bát giới uposathasīla xong rồi, nhưng không thể giữ gìn bát giới uposathasīla cho được trong sạch hoàn toàn và đầy đủ được, bởi vì các hoàng hậu, các long nữ đến quấy rầy. Do đó, Ngài từ bỏ cõi long cung xuất hiện lên cõi người, tìm đến chỗ gò mối gần con sông Kaṇṇaveṇṇā để thọ trì bát giới uposathasīla.

Sau khi thọ trì bát giới uposathasīla, Ngài thành tâm phát nguyện rằng: “Tôi quyết tâm giữ gìn bát giới uposathasīla cho được trong sạch hoàn toàn và đầy đủ 8 điều giới, dù phải hy sinh thân mạng, tôi vẫn quyết tâm không để đứt giới nào.

Nếu những người nào cần đến da của tôi, thì những người ấy hãy lột da của tôi. Nếu những người nào cần đến thịt của tôi, thì những người ấy hãy lóc thịt của tôi. Nếu những người nào cần đến xương của tôi, thì những người ấy hãy lấy xương của tôi, v.v…

Dù cho thế nào tôi vẫn giữ gìn thiện tâm trong sạch, không để cho tâm sân phát sinh, cốt để giữ gìn bát giới uposathasīla cho được hoàn toàn trong sạch thanh tịnh và đầy đủ.”

Sau khi phát nguyện xong, Đức Bồ Tát Long Vương Saṅkhapāla nằm khoanh tròn quanh gò mối ấy, thọ trì và giữ gìn bát giới uposathasīla vào ngày 14, 15 và ngày 29, 30 cuối tháng đủ hằng tháng (nếu tháng thiếu thì vào ngày 28, 29). Đức Bồ Tát thường ngụ trở về cõi long cung vào ngày hôm sau của những ngày giới.

Một hôm, sau khi đã thọ trì bát giới uposathasīla xong, Đức Bồ Tát Long Vương Saṅkhapāla nằm khoanh tròn quanh gò mối, giữ gìn bát giới uposathasīla. Khi ấy, nhóm 16 người con của những người thợ săn thú rừng mang khí giới dẫn nhau vào rừng săn thú. Hôm ấy, chúng nó không giết được con thú nào, dẫn nhau trở về tay không, đến gò mối, nhìn thấy Ngài đang nằm khoanh tròn quanh gò mối giữ gìn bát giới uposathasīla; chúng bàn tính với nhau rằng: 

- Chúng ta nên bắt con Long Vương này để ăn thịt, nhưng con Long Vương này to lớn có sức mạnh và có chất độc dữ dội. Nếu chúng ta đụng đến nó thì nó sẽ bò đi mất, cho nên chúng ta đồng phóng lao cùng một lúc, để làm cho nó bị thương mất sức lực, khi ấy chúng ta mới có thể tiến gần đến bắt nó được.

Bàn tính xong, bọn chúng mỗi đứa cầm lao phóng vào thân mình của Đức Bồ Tát Long Vương Saṅkhapāla.

 

Đức Bồ Tát Hy Sinh Thân Mạng, Giữ Gìn Giới

Khi ấy, Đức Bồ Tát Long Vương Saṅkhapāla nghĩ: “Hôm nay, lời phát nguyện của ta sẽ được thành tựu, ta sẽ hy sinh thân mạng, để giữ gìn bát giới uposathasīla cho được trong sạch hoàn toàn và đầy đủ trọn vẹn”.

Cho nên, Ngài nhẫn nại chịu đựng nỗi đau đớn cùng cực mà không hề phát sinh tâm sân, để quyết tâm giữ gìn bát giới uposathasīla của mình cho được trong sạch hoàn toàn và đầy đủ trọn vẹn 8 điều giới. Nhìn thấy Đức Bồ Tát Long Vương Saṅkhapāla vẫn nằm yên một chỗ, chúng tiến đến gần nắm cái đuôi đập mạnh xuống mặt đất, rồi chúng lấy lưỡi giáo đâm dài theo thân mình của Ngài 8 lỗ, lấy sợi dây mây xâu vào 8 lỗ cột thành vòng và đâm vào lỗ mũi, xỏ dây mây vào lỗ mũi cột chặt. Chúng xỏ 8 cái đòn vào 8 vòng mây, mỗi bên 8 đứa khiêng Ngài từ gò mối đi ra con đường.

Đức Bồ Tát Long Vương Saṅkhapāla vẫn nhắm đôi mắt, cái đầu gục xuống chạm đất, chúng khiêng kéo lê Ngài làm cho cái đầu bị chà xát trên mặt đường. Thật ra, Ngài có nhiều oai lực và nhiều phép mầu biến hóa phi thường. Nếu khi ấy Ngài nổi giận thì phun lửa ra có thể làm thiêu huỷ phạm vi rộng lớn, và chất độc vô cùng khủng khiếp của Ngài có thể tàn sát các đối phương một cách chớp nhoáng, còn nhóm 16 đứa con của những người thợ săn này có đáng gì đâu! Song vì Ngài đã có lời phát nguyện bố thí sinh mạng để giữ gìn bát giới uposathasīla gọi là thực hành pháp hạnh giữ giới Ba-la-mật bậc thượng, cho nên, Ngài nhẫn nại chịu đựng nỗi đau đớn cho đến chết, mà không hề phát sinh tâm sân.

Khi ấy, trưởng giả Āḷāra, một lái buôn giàu có trong kinh thành Mithilā nước Videha, đang ngồi trên chiếc xe sang trọng dẫn đầu 500 cỗ xe chở hàng hoá đi bán xứ khác. Nhìn thấy nhóm 16 đứa con của các người thợ săn trong xóm nhà Paccanta, đang khiêng Đức Bồ Tát Long Vương Saṅkhapāla, Ông trưởng giả Āḷāra bước xuống xe đến hỏi chúng rằng:

- Này các ngươi! Các ngươi khiêng Đức Long Vương này đi đâu? Để làm gì?

- Kính thưa ông trưởng giả lái buôn, chúng tôi khiêng con Long Vương này về xóm nhà Paccanta của chúng tôi, rồi chúng tôi sẽ giết con Long Vương này để ăn thịt, thịt con Long Vương này ngon lắm!

Nghe chúng nói như vậy, ông trưởng giả lái buôn liền trao đổi với chúng rằng:

- Này các ngươi! Ta sẽ ban cho các ngươi mỗi người 1 gói vàng ròng, 1 chiếc xe bò chở đầy hàng hoá, vải, mền, còn ban cho vợ các ngươi những đồ trang sức quý giá nữa, với điều kiện là các ngươi hãy thả Đức Long Vương này được sống tự do, ngự trở về cõi long cung.

Tuy chúng thèm ăn thịt Đức Bồ Tát Long Vương Saṅkhapāla, nhưng khi nghe ông trưởng giả lái buôn giàu có ban cho nhiều của cải quý giá như vậy, cho nên, chúng đồng ý ngay. Chúng đặt Ngài nằm xuống mặt đất, xin nhận tất cả số của cải từ ông trưởng giả lái buôn giàu có ban cho. Chúng đi được một đoạn đường ngắn, rồi đứng lại một nơi kín, bởi vì chúng nghĩ: Con Long Vương ấy bị thương nặng như vậy, chắc chắn nó sẽ chết, chúng ta đứng chờ ở đây, rồi khiêng nó đem về ăn thịt”.

Sau khi nhóm 16 người con của các thợ săn đi rồi, ông trưởng giả lái buôn lấy con dao bén cắt từng sợi dây mây cột trên thân hình của Đức Bồ Tát Long Vương Saṅkhapāla, nhẹ tay rút ra từng sợi dây, rồi thả Ngài được tự do, thoát khỏi chết. Đức Bồ Tát Long Vương Saṅkhapāla đã bị nhiều thương tích nên sức yếu, bò đi một cách mệt nhọc, ông trưởng giả lái buôn đi theo sau tiễn đưa Ngài cho đến bờ sông Kaṇṇaveṇṇā. Bò xuống sông được một khoảng, Ngài ngẩng đầu lên cám ơn ông trưởng giả đã cứu sống.

Đức Bồ Tát Long Vương Saṅkhapāla ngự trở về cõi long cung, liền sau đó, Ngài cùng với đoàn tuỳ tùng đông đảo xuất hiện lên cõi người tìm ông trưởng giả Āḷāra. Khi ấy ông trưởng giả vẫn đang còn đứng tại bờ sông Kaṇṇaveṇṇā, Đức Bồ Tát Long Vương liền tán dương ca tụng ân đức của ông trưởng giả Āḷāra rằng:

- Kính thưa Ngài trưởng giả Āḷāra, Ngài như là cha mẹ của tôi, Ngài là người đã cứu sống tôi, Ngài là người bạn tốt của tôi. Tôi còn sống như thế này là nhờ ơn Ngài cứu sống.

Tôi thành tâm kính mời Ngài đến cõi long cung của tôi, nơi ấy có vật thực ngon lành, có đầy đủ các ngũ dục, có các cảnh đẹp như cõi Đức Vua trời Vāsava (Sakka).

Nghe Đức Bồ Tát Long Vương diễn tả cõi long cung, ông trưởng giả Āḷāra cũng muốn biết cõi long cung nên nhận lời mời ngay.

Đức Bồ Tát Long Vương Saṅkhapāla thỉnh ông trưởng giả Āḷāra xuống tại long cung, do oai lực của mình, rồi thỉnh ông trưởng giả Āḷāra lên ngồi trên ngai vàng, bởi vì ông trưởng giả Āḷāra được tôn là bậc đại ân nhân. Ngài kính dâng 300 bà Hoàng hậu của mình để phục vụ ông trưởng giả Āḷāra.

Ông trưởng giả Āḷāra hưởng mọi sự an lạc trong cõi long cung suốt 1 năm. Sau đó, ông thưa với Đức Bồ Tát Long Vương Saṅkhapāla rằng:

- Tâu Đức Long Vương Saṅkhapāla kính mến, Ngài đã ban cho tôi được hưởng mọi sự an lạc trong cõi long cung suốt 1 năm. Nay, tôi muốn xin từ giã Đức Long Vương trở lại cõi người, bởi vì, tôi có ý nguyện muốn xuất gia trở thành đạo sĩ.

Nghe ông trưởng già Āḷāra thưa như vậy, biết không thể thỉnh mời ở lại thêm được nữa, Đức Bồ Tát Long Vương Saṅkhapāla dâng các thứ vật dụng cần thiết đến ông trưởng giả Āḷāra để xuất gia trở thành đạo sĩ. Ngài cùng đoàn tuỳ tùng theo tiễn đưa ông trưởng giả Āḷāra từ cõi long cung trở lại cõi người.

Ông trưởng giả Āḷāra đi vào rừng núi Himavanta (Hy Mã Lạp sơn) xuất gia trở thành đạo sĩ, hành đạo suốt thời gian lâu. Về sau, vị đạo sĩ Āḷāra đi ra khỏi rừng núi Himavanta du hành đến kinh thành Bārāṇasī, nghỉ tại vườn thượng uyển của Đức Vua Bārāṇasī. Buổi sáng, vị đạo sĩ đi vào kinh thành khất thực, đi ngang qua cửa cung điện của Đức Vua Bārāṇasī.

Khi ấy, Đức Vua Bārāṇasī nhìn thấy vị đạo sĩ Āḷāra với dáng đi thu thúc, liền phát sinh đức tin nơi vị đạo sĩ. Đức Vua truyền lệnh các quan đi thỉnh mời vị đạo sĩ vào cung điện. Đức Vua thỉnh vị đạo sĩ ngồi trên chỗ cao quý, còn Đức Vua ngồi chỗ thấp, rồi đảnh lễ vị đạo sĩ. Đức Vua tự tay cúng dường những món vật thực ngon lành.

Sau khi vị đạo sĩ Āḷāra độ vật thực xong, Đức Vua đảnh lễ vị đạo sĩ rồi ngồi một chỗ hợp lẽ bèn bạch rằng:

- Kính bạch vị đạo sĩ, Ngài có sắc thân đẹp đẽ, có đôi mắt trong sáng, Trẫm nghĩ rằng: Ngài là thuộc dòng dõi cao quý hoặc gia đình giàu sang phú quý. Do nguyên nhân nào mà Ngài từ bỏ nhà đi xuất gia trở thành vị đạo sĩ như vậy? Thưa Ngài.

Nghe Đức Vua hỏi như vậy, vị đạo sĩ Āḷāra tâu rằng:

- Tâu Đại Vương, Bậc cao thượng trong thần dân thiên hạ! Do trước đây bần đạo tận mắt nhìn thấy cõi long cung của Đức Long Vương Saṅkhapāla, và bần đạo cũng đã hưởng mọi sự an lạc tại cõi long cung ấy.

Cõi long cung là quả được phát sinh do thiện nghiệp của Đức Long Vương. Đó là nguyên nhân mà bần đạo phát sinh đức tin trong sạch nơi nghiệp và quả của nghiệp, cho nên, bần đạo từ bỏ nhà đi xuất gia trở thành đạo sĩ, để được thuận lợi thực hành mọi thiện nghiệp.

Nghe vị đạo sĩ tâu như vậy, Đức Vua Bārāṇasī bạch rằng:

- Kính bạch vị đạo sĩ cao quý, Trẫm tin chắc chắn rằng Ngài không nói dối vì mục đích nào khác. Vậy, Trẫm xin Ngài tường thuật lại sự thật cho Trẫm nghe, do nguyên nhân nào mà Ngài tận mắt nhìn thấy cõi long cung và Ngài đã hưởng mọi sự an lạc trong cõi long cung ấy, để cho Trẫm cũng phát sinh đức tin trong sạch nơi nghiệp và quả của nghiệp.

Vị đạo sĩ tường thuật lại rằng:

- Tâu Đại Vương, trước khi trở thành đạo sĩ như thế này, bần đạo vốn là một người lái buôn giàu có ở kinh thành Mithilā trong nước Videha. Một hôm, bần đạo ngồi trên chiếc xe dẫn đầu 500 cỗ xe chở đầy hàng hoá đem bán xứ khác. Trên đường đi, bần đạo gặp nhóm 16 người con của những người thợ săn đang khiêng Đức Long Vương Saṅkhapāla có thân hình to lớn, bần đạo bèn hỏi chúng nó rằng:

“- Này các ngươi! Các ngươi khiêng Đức Long Vươngcó thân hình to lớn này đi đâu? để làm gì?”

Chúng thưa rằng: “- Kính thưa ông trưởng giả lái buôn, chúng tôi khiêng con Long Vương này về xóm nhà Paccanta của chúng tôi, rồi chúng tôi sẽ giết nó để ăn thịt, thịt con Long Vương này ngon lắm!”

- Tâu Đại Vương, khi nghe chúng nó nói vậy, bần đạo nhìn thấy Đức Long Vương Saṅkhapāla đau đớn, kiệt sức vì bị nhiều thương tích, liền phát sinh tâm bi muốn cứu giúp Đức Long Vương thoát khỏi tai nạn, khỏi bị giết chết, nên bần đạo xin trao đổi với chúng nó rằng: “Ta sẽ ban cho các người mỗi người 1 gói vàng ròng, 1 chiếc xe bò chở đầy hàng hoá, vải, mền,… còn ban cho vợ các ngươi những đồ trang sức quý giá nữa, với điều kiện là các ngươi hãy thả Đức Long Vương này được sống tự do, ngự trở về cõi long cung”.

Tuy chúng nó thèm ăn thịt Đức Long Vương, nhưng khi nghe bần đạo ban cho chúng nó nhiều của cải quý giá như vậy, cho nên, chúng đồng ý ngay. Chúng đặt Đức Long Vương nằm xuống mặt đất, rồi nhận tất cả của cải mà bần đạo đã ban cho. Chúng nó vui mừng sung sướng trở về nhà.

Bần đạo tự tay cắt từng sợi dây mây xâu qua thân mình của Đức Long Vương, nhẹ tay rút từng sợi dây mây ra khỏi thân mình của Đức Long Vương. Khi ấy, Đức Long Vương Saṅkhapāla được hoàn toàn tự do, bò về hướng đông đến con sông Kaṇṇaveṇṇā một cách vất vả vì đau đớn và kiệt sức. Bần đạo đi theo sau tiễn đưa Đức Long Vương cho đến bờ sông Kaṇṇaveṇṇā. Đức Long Vương Saṅkhapāla bò xuống nước một khoảng rồi ngẩng đầu lên cám ơn, rồi từ giã bần đạo ngự trở về cõi long cung.

- Tâu Đại Vương, sau khi trở về cõi long cung không lâu, Đức Long Vương Saṅkhapāla cùng đoàn tuỳ tùng đông đảo xuất hiện lên cõi người tìm bần đạo. Khi ấy, bần đạo đang còn ở bờ sông Kaṇṇaveṇṇā, Đức Long Vương Saṅkhapāla đứng trước bần đạo nói những lời dịu dàng ngọt ngào nghe êm tai rằng: “Kính thưa Ngài Āḷāra, Ngài như là cha mẹ của tôi, Ngài thật sự là người bạn tốt thân thiết nhất của tôi. Sở dĩ tôi còn sống đến bây giờ là nhờ ơn Ngài đã cứu sống. Kính thưa Ngài Āḷāra, tôi thành kính mời Ngài đến thăm cõi long cung của tôi. Ngài có thể hưởng được mọi sự an lạc trong cõi long cung, cũng như cõi trời của Đức Vua Vāsava (Sakka), cõi Tam thập Tam thiên”.

- Tâu Đại Vương, bần đạo đã nhận lời mời, rồi Đức Long Vương Saṅkhapāla mời bần đạo xuống cõi long cung do oai lực của Đức Long Vương.Cõi long cung thật là kỳ diệu, những lâu đài toàn là bằng vàng nguy nga lộng lẫy, được trang hoàng bằng các thứ ngọc như ngọc maṇi, ngọc bích,… có nhiều hồ nước xinh đẹp, các long nam, long nữ đều có vẻ đẹp kiều diễm từng đoàn đờn ca hát múa hát vui vẻ.

 - Tâu Đại Vương, Đức Long Vương Saṅkhapāla dẫn bần đạo lên lâu đài bằng vàng nguy nga lộng lẫy, được trang hoàng bằng các thứ ngọc, mời bần đạo ngồi trên ngai vàng, rồi Đức Long Vương Saṅkhapāla thưa rằng: “Kính thưa Ngài Āḷāra, tôi kính trọng Ngài như cha mẹ của tôi, tôi xin kính nhường ngôi báu này cho Ngài, và cũng xin nhường 300 Hoàng hậu của tôi đến phục vụ, hầu hạ Ngài .Tâu Đại Vương, bần đạo hưởng mọi sự an lạc tại cõi long cung được một năm. Trong dịp ấy, bần đạo có đàm thoại với Đức Long Vương Saṅkhapāla. Nay, bần đạoxin thuật lại cuộc đàm thoại ấy như sau:

- “Tâu Đức Long Vương Saṅkhapāla, Ngài có được cõi long cung này bằng cách nào? Chính Ngài tự tạo nên hay là chư thiên hoá ra rồi ban cho Ngài?

Đức Long Vương Saṅkhapāla truyền bảo rằng:

- Kính thưa Ngài Āḷāra, Trẫm có được cõi long cung này không phải Trẫm tự tạo nên, cũng không phải do chư thiên hoá ra rồi ban cho Trẫm. Sự thật, Trẫm đang hưởng mọi sự an lạc trong cõi long cung này, đó là quả của thiện nghiệp mà tiền kiếp của Trẫm đã tạo.

 - Tâu Đức Long Vương, thiện nghiệp mà tiền kiếp Ngài đã tạo như thế nào? Nay, kiếp hiện tại, Ngài được hưởng mọi sự an lạc trong cõi long cung to lớn đẹp đẽ như thế này?

- Kính thưa Ngài Āḷāra, tiền kiếp của Trẫm là Đức Vua tên Duyyodhana ngự tại kinh thành Rājagaha trị vì nước Magadha, có nhiều quyền lực. Một hôm, Trẫm suy xét thấy rõ sinh mạng con người là ngắn ngủi, vô thường, luôn luôn có sự biến đổi, Trẫm có đức tin nơi nghiệp và quả của nghiệp, muốn làm phước thiện bố thí, cho nên, Trẫm truyền lệnh xây dựng 4 trại bố thí tại 4 cửa kinh thành, Trẫm truyền lệnh xuất tiền của trong kho đem bố thí đến những người nghèo khổ. Mỗi ngày, Trẫm tự mình đến trại bố thí, ban của cải tiền bạc đến những người nghèo khổ.

Hằng ngày, thỉnh mời các Sa-môn, Bà-la-môn đến cung điện, Trẫm tự tay dâng lễ cúng dường những món vật thực, và các thứ vật dụng cần thiết đến các Sa-môn, Bà-la-môn một cách cung kính.

Đó là thiện nghiệp mà tiền kiếp của Trẫm đã tạo cho đến trọn kiếp ấy. Lúc lâm chung, Trẫm phát sinh tâm mong muốn trở thành Đức Long Vương trong cõi long cung, cho nên, sau khi Trẫm băng hà, tâm tham ái dắt dẫn nghiệp ấy cho quả tái sinh làm Đức Long Vương tên Saṅkhapāla trong cõi long cung này.

- Tâu Đức Long Vương Saṅkhapāla, Ngài có sức mạnh phi thường, có phép thần thông biến hoá, có chất độc khủng khiếp, còn nhóm 16 người con những người thợ săn kia không có sức mạnh, không có phép thuật gì. Tại sao Ngài lại để nhóm 16 đứa trẻ ấy hành hạ Ngài, rồi chúng định giết Ngài, để ăn thịt như vậy?

- Kính thưa Ngài Āḷāra, thật ra, Trẫm có sức mạnh phi thường, có phép thần thông biến hoá, có chất độc khủng khiếp, còn nhóm 16 đứa trẻ kia không có sức mạnh hơn Trẫm, chúng cũng không có phép thuật gì, nhưng vì hôm ấy là ngày giới uposathasīla mà Trẫm đã thọ trì và giữ bát giới uposathasīla, để cho được hoàn toàn trong sạch và trọn vẹn 8 điều giới ấy, dù phải hy sinh thân mạng của Trẫm, chứ không để phạm giới, không để đứt giới. Cho nên, Trẫm nhẫn nại chịu đựng bao nhiêu nỗi khổ thân mà không hề phát sinh tâm sân, cốt để giữ gìn bát giới uposathasīla của Trẫm không bị ô nhiễm, không bị đứt giới. Do đó, Trẫm chịu để cho nhóm 16 đứa trẻ hành hạ Trẫm, rồi chúng nó định giết Trẫm để ăn thịt. Nhưng may mắn, Trẫm được Ngài đến kịp cứu sống.

- Kính thưa Ngài trưởng giả Āḷāra, Trẫm xuất hiện lên cõi người, để thọ trì bát giới uposathasīla vào những ngày giới uposathasīla hằng tháng. Đó là ngày 14, 15 và ngày 29, 30 cuối tháng đủ (nếu tháng thiếu vào ngày 28, 29 cuối tháng). Trong ngày bát giới ấy, sau khi đã thọ trì bát giới uposathasīla xong,Trẫm đang nằm khoanh vòng quanh gò mối, để giữ gìn bát giới uposathasīla.



[1] Bộ Chú giải jātaka, Phần Cattālīsanipāta, Tích Saṅkhapālajātaka 


Nhóm 16 đứa con những người thợ săn thú vào rừng săn thú không được con thú nào, khi chúng trở về, nhìn thấy Trẫm nằm khoanh vòng quanh gò mối, chúng nó mỗi đứa cầm lao phóng vào thân hình Trẫm, làm cho Trẫm kiệt sức, chúng nó xông vào đâm vào thân hình của Trẫm 8 lỗ, rồi lấy dây mây xâu, dùng đòn khiêng ra đường. Khi ấy, Ngài gặp chúng nó, Ngài đã bỏ ra nhiều của cải ra để cứu mạng sống cho Trẫm.

- Tâu Đức Long Vương, Ngài là bậc có sức mạnh phi thường, có thần thông tự nhiên, có địa vị Đức Long Vương cao cả, trị vì trong cõi long cung này, hưởng mọi sự an lạc. Vậy, thấy sự lợi ích nào mà Ngài xuất hiện lên cõi người, để thọ trì rồi giữ gìn bát giới uposathasīla, để cho nhóm 16 đứa trẻ hành hạ Ngài và định giết để ăn thịt như vậy?

- Thưa Ngài trưởng giả Āḷāra, Trẫm xuất hiện lên cõi người, để thọ trì và giữ gìn bát giới uposathasīla, không phải mong muốn được nhiều của cải tài sản, cũng không phải muốn được sống lâu. Thật ra, Trẫm thọ trì và giữ gìn bát giới uposathasīla, vì có ý nguyện tha thiết muốn được tái sinh trở lại làm người. Do đó, Trẫm nhẫn nại chịu đựng bao nhiêu nỗi khổ, chỉ quyết tâm giữ gìn bát giới uposathasīla cho được hoàn toàn trong sạnh và trọn vẹn 8 điều giới mà thôi.

- Tâu Đức Long Vương, tái sinh làm người trong cõi người cao thượng như thế nào mà Ngài muốn được tái sinh làm người như vậy?

- Thưa Ngài trưởng giả Āḷāra, tái sinh làm người trong cõi người rất cao thượng, bởi vì chỉ có con người mới có cơ hội thực hành đầy đủ các pháp hạnh Ba-la-mật mà thôi. Chỉ có con người mới có khả năng trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, hoặc trở thành Đức Phật Độc Giác, hoặc trở thành bậc Thánh Tối Thượng Thanh Văn Giác, hoặc trở thành bậc Thánh Đại Thanh Văn Giác mà thôi.

Ngoài con người trong cõi người ra, chúng sinh trong các cõi khác không thể có được những địa vị cao cả ấy. Nếu Trẫm được tái sinh trở lại làm người, thì Trẫm sẽ thực hành các pháp hành Ba-la-mật cho sớm được đầy đủ.

- Tâu Đức Long Vương, tôi đã từ giã cõi người đến cõi long cung này được 1 năm rồi. Ngài đã ban cho tôi nhiều ân huệ, tôi đã hưởng được mọi sự an lạc trong cõi long cung này. Tôi chân thành cảm ơn Ngài, các Hoàng hậu, các cung phi, các hoàng tử, các công chúa cùng các long nam, long nữ đã tận tình lo lắng cho tôi rất chu đáo.Tôi thành kính tri ân quý vị. Bây giờ, tôi xin phép từ giã cõi long cung để trở lại cõi người.

Nghe tâu như vậy, Đức Long Vương hỏi tôi rằng:

- Thưa Ngài trưởng giả Āḷāra, các Hoàng hậu, các cung phi, các hoàng tử, các công chúa và các thuộc hạ của tôi, có ai đã hầu hạ phục vụ Ngài không tận tình, hoặc đã làm điều gì để cho Ngài phật ý hay không?

- Tâu Đức Long Vương, các Hoàng hậu, các cung phi, các hoàng tử, các công chúa và các thuộc hạ của Ngài đã tận tình lo lắng cho tôi rất chu đáo, họ xem tôi như người thân quyến, nhờ Ngài có lòng thương yêu tôi.

Biết không thể thỉnh mời tôi ở lâu được nữa, Đức Long Vương thưa rằng:

- Kính thưa Ngài trưởng giả Āḷāra, đây là viên ngọc maṇi, báu vật của Trẫm, nó có khả năng đặc biệt giúp Trẫm thành tựu được những thứ của cải như ý. Bây giờ Trẫm xin kính biếu viên ngọc maṇi này đến Ngài, người ân nhân, người bạn thân thiết nhất của Trẫm. Kính xin Ngài hoan hỷ thọ nhận viên ngọc maṇi nầy, nó sẽ giúp Ngài thành tựu được những thứ của cải như ý Ngài. Sau khi thành tựu của cải ấy xong, xin Ngài gìn giữ viên ngọc maṇi này bằng cách đặt vào trong bình nước trong nhà.

Khi nghe Đức Long Vương thưa như vậy, bần đạo tâu rằng:

- Tâu Đức Long Vương Saṅkhapāla, tôi chân thành cảm ơn Ngài, tôi không muốn các thứ của cải nào khác nữa, khi tôi trở về cõi người, tôi sẽ xuất gia trở thành đạo sĩ. Vậy, kính xin Ngài chỉ cần ban cho tôi những thứ vật dụng cần thiết của vị đạo sĩ mà thôi”.

Sau khi Đức Long Vương Saṅkhapāla, ban cho tôi những thứ vật dụng cần thiết của vị đạo sĩ, rồi Ngài cùng đoàn tùy tùng tiễn đưa tôi trở về cõi người.

- Tâu Đại Vương, bần đạo đã thuật lại cuộc đàm thoại giữa bần đạo với Đức Long Vương Saṅkhapāla như thế ấy.

Vị đạo sĩ Āḷāra tâu tiếp với Đức Vua Bārāṇasī rằng:

- Tâu Đại Vương, bần đạo nhận thức thấy rõ sự an lạc trong cõi người đều là vô thường, vì có sự sinh sự diệt là thường, luôn luôn biến đổi, bần đạo thấy rõ tội lỗi trong ngũ dục: sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, xúc dục, cho nên, bần đạo từ bỏ nhà, bỏ của cải, đi xuất gia trở thành đạo sĩ với đức tin nơi nghiệp và quả của nghiệp.

- Tâu Đại Vương, những trái cây già chín, những trái cây còn non đều rụng cả, cũng như người già lẫn những người trẻ cũng đều từ bỏ thân này (chết), rồi tái sinh kiếp sau như thế nào đều tùy thuộc vào nghiệp và quả của nghiệp của chúng sinh ấy. Bần đạo nhận thức thấy rõ quả báu tốt của sự xuất gia trở thành đạo sĩ. Cho nên, bần đạo bỏ nhà, bỏ của cải tài sản, đi xuất gia trở thành đạo sĩ.

Lắng nghe vị đạo sĩ Āḷāra thuật lại những sự thật trong cõi long cung, cuộc đàm thoại giữa trưởng giả Āḷāra (khi chưa trở thành đạo sĩ) với Đức Long Vương Saṅkhapāla tại cõi long cung như vậy, Đức Vua Bārāṇasī tán dương ca tụng rằng:

- Kính bạch đạo sĩ Āḷāra, Ngài là bậc thiện trí, bậc đa văn túc trí, bậc có trí tuệ sáng suốt, có đức tin nơi nghiệp và quả của nghiệp. Những người nào có duyên lành được gần gũi thân cận với bậc thiện trí, lắng nghe lời chỉ dạy của bậc thiện trí, những người ấy chắc chắn có được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài ngay trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai.

- Kính bạch Ngài đạo sĩ Āḷāra, Trẫm có được diễm phúc được gần gũi thân cận với Ngài, lắng nghe lời dạy của Ngài, và Ngài đã thuật lại những sự thật mà Ngài đã chứng kiến trong cõi long cung, đặc biệt cuộc đàm thoại giữa Ngài với Đức Long Vương Saṅkhapāla. Trẫm cảm thấy vô cùng hoan hỷ trong lời dạy của Ngài, Trẫm sẽ cố gắng tinh tấn thực hành mọi thiện nghiệp như bố thí, giữ giới, cho đến trọn đời.

Khi ấy, vị đạo sĩ Āḷāra tâu với Đức Vua Bārāṇasī rằng:

- Tâu Đại Vương, thật vậy, những người nào có duyên lành gần gũi thân cận với bậc thiện trí, bậc đa văn túc trí, lắng nghe lời dạy của bậc thiện trí, những người ấy chắc chắn sẽ được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài ngay trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai.

Vị đạo sĩ Āḷāra trú tại vườn thượng uyển của Đức Vua Bārāṇasī suốt 4 tháng mùa mưa xong, sau đó Ông trở lại rừng núi Himavanta, tinh tấn thực hành pháp hành thiền định đề mục tứ vô lượng tâm cho đến trọn đời. Sau khi vị đạo sĩ Āḷāra chết, sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sinh lên cõi trời sắc giới phạm thiên.

Đức Vua Bārāṇasī tinh tấn thực hành mọi thiện nghiệp như bố thí, giữ giới,… cho đến trọn đời. Sau khi Đức Vua băng hà, thiện nghiệp cho quả tái sinh trong cõi thiện giới: cõi người, cõi trời dục giới.

Đức Bồ Tát Long Vương Saṅkhapāla giữ gìn ngũ giới và thọ trì bát giới uposalasīla trong những ngày giới hằng tháng cho đến trọn đời. Đến khi Đức Bồ Tát Long Vương băng hà, thiện nghiệp cho quả tái sinh làm người trong cõi người như ý nguyện.

 

Đức Phật thuyết bài kệ:

 

“Sūlehi vijjhiyantopi,   koṭiyantopi sattīhi.

Bhojaputte na kuppāmi,  esā me sīlapāramī”.([1])

 

Ý nghĩa:

 

Đức Bồ Tát Long Vương Saṇkhapāla,

tiền kiếp của Như Lai,

dù bị nhóm con của những người thợ săn,

đâm bằng những lưỡi giáo vào thân mình,

dù bị xâu bằng những sợi dây mây khiêng đi,

Đức Bồ Tát vẫn không hề phát sinh tâm sân,

Để giữ gìn bát giới cho được trong sạch và trọn vẹn.

Đó là pháp hạnh giữ giới Ba-la-mật bậc thượng của tiền kiếp Như Lai.

 

Đức Phật thuyết tích Đức Bồ Tát Long Vương Saṇkhapāla, tiền kiếp của Ngài xong, các cận sự nam, cận sự nữ đang thọ trì giữ gìn bát giới uposalasīla vô cùng hoan hỷ, tinh tấn thực hành giữ bát giới uposalasīla trong những ngày giới hàng tháng cho đến trọn đời.

Tích Saṅkhapālajātaka Liên Quan Đến Kiếp Hiện Tại

 Tích Saṅkhapālajātaka này, Đức Bồ Tát Long Vương Saṇkhapāla, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, thực hành pháp hạnh giữ giới Ba-la-mật trong thơi quá khứ. Đến  khi Đức Phật Gotama đã xuất hiện trên thế gian, thì hậu kiếp của những nhân vật trong tích Saṅkhapālajātaka này liên quan đến kiếp hiện tại như sau:

-   Đức Phụ Vương đạo sĩ, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Trưởng Lão Mahākassapa.

-   Đức Vua Bārāṇasī, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Ānanda.

-   Vị Đạo sĩ Āḷāra, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Sāriputta.

-   Đức Bồ Tát Long Vương Saṇkhapāla, nay kiếp hiện tại là Đức Phật Gotama.

 

10 Pháp Hạnh Ba-la-mật

 Tóm lược tích Đức Bồ Tát Long Vương Saṇkhapāla, tiền kiếp của Đức Phật Gotama đã thực hành pháp hạnh giữ giới Ba-la-mật bậc thượng, ngoài ra, còn có 9 pháp hạnh Ba-la-mật khác cũng đồng thời thành tựu như sau:

- Đức Bồ Tát Long Vương Saṇkhapāla quyết định hy sinh thân mạng để giữ giới, đó là pháp hạnh bố thí Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát Long Vương Saṇkhapāla quyết định từ bỏ ngai vàng cõi long cung, lánh xa ngũ dục, đó là pháp hạnh xuất gia Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát Long Vương Saṇkhapāla suy xét đúng đắn, đó là pháp hạnh trí tuệ Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát Long Vương Saṇkhapāla có sự tinh tấn không ngừng, đó là pháp hạnh tinh tấn Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát Long Vương Saṇkhapāla có đức nhẫn nại chịu đựng khổ đau mà không phát sinh tâm sân, đó là pháp hạnh nhẫn nại Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát Long Vương Saṇkhapāla giữ gìn lời chân thật thọ trì bát giới, đó là pháp hạnh chân thật Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát Long Vương Saṇkhapāla phát nguyện: “người nào cần lấy da,…” đó là pháp hạnh phát nguyện Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát Long Vương Saṇkhapāla có tâm từ với nhóm 16 người con của những người thợ săn, đó là pháp hạnh tâm từ Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát Long Vương Saṇkhapāla giữ tâm bình thản trong sự khổ, và trong nhóm con của những người thợ săn, đó là pháp hạnh tâm xả Ba-la-mật.

Đó là 9 pháp hạnh Ba-la-mật phụ khác cũng đồng thời thành tựu cùng với pháp hạnh giữ giới Ba-la-mật bậc thượng ấy.

 

Nhận Xét Về Tích Đức Bồ Tát Long Vương Saṇkhapāla

 

Pháp hạnh giữ giới Ba-la-mật bậc thượng là 1 trong 10 pháp hạnh Ba-la-mật bậc thượng cũng là 1 trong 30 pháp hạnh Ba-la-mật mà Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác cần phải thực hành cho được đầy đủ để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác (Sammāsambuddha).

Giữ giới Ba-la-mật đó là tác ý thiện tâm và 3 tiết chế

tâm sở đồng sinh với đại thiện tâm giữ giới của mình được trong sạch, để cho thân và khẩu được thanh tịnh. Nếu Đức Bồ Tát gìn giữ giới của mình được trong sạch và trọn vẹn, dám hy sinh thân mạng chứ không để đứt giới thì gọi là pháp hạnh giữ giới Ba-la-mật bậc thượng.

Đức Long Vương hay còn gọi Rồng Chúa là loài chúng sinh đặc biệt có nhiều phép thần thông tự nhiên do quả của nghiệp (kammavipāka iddhi). Do đó, Đức Long Vương có thể biến hóa ra thành người, hoặc thành loài chúng sinh nào theo khả năng của mình. Long Vương có cõi riêng gọi là cõi long cung, có cung điện các lâu đài v.v… toàn bằng vàng bạc, các thứ ngọc quý báu… phát sinh do quả của thiện nghiệp kiếp trước.

Đức Bồ Tát Long Vương Saṇkhapāla trị vì cõi long cung, có 300 Hoàng hậu, có nhiều hoàng tử, công chúa, có các quan trong triều đình tại long cung.

Đức Bồ Tát Long Vương Saṇkhapāla rời khỏi cõi long cung, lánh xa sự an lạc của ngũ dục (sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, xúc dục), xuất hiện lên cõi người để thọ trì và giữ gìn bát giới uposalasīla cho được hoàn toàn trong sạch và trọn vẹn 8 điều giới, trong những ngày giới hằng tháng.

Một hôm, Đức Bồ Tát Long Vương Saṇkhapāla bị nhóm 16 người con của những người thợ săn, đâm mũi giáo vào thân mình, rồi xâu bằng sợi dây mây khiêng về xóm nhà, chúng có ý định giết Ngài để ăn thịt. Ngài có đức nhẫn nại chịu đựng bao nhiêu nỗi khổ cùng cực và chấp nhận hy sinh thân mạng, mà không hề phát sinh tâm sân hận, chỉ có thiện tâm trong sạch cốt để giữ gìn bát giới uposalasīla cho được hoàn toàn trong sạch và trọn vẹn, với ý nguyện tha thiết muốn tái sinh trở lại làm người.

 

Kiếp làm người cao quý như thế nào, mà Đức Bồ Tát Long Vương Saṇkhapāla có ý nguyện tha thiết muốn tái sinh trở lại làm người như vậy?

Trong Tam giới gồm có 31 cõi chúng sinh: 11 cõi dục giới, 16 cõi sắc giới và 4 cõi vô sắc giới. Trong 31 cõi chúng sinh, con người ở cõi người có nhiều điều thuận lợi hơn các chúng sinh trong các cõi khác như:

- Chư Đức Bồ Tát trong cõi người có khả năng thực hành đầy đủ trọn vẹn 10 pháp hạnh Ba-la-mật, hoặc 20 pháp hạnh Ba-la-mật hoặc 30 pháp hạnh Ba-la-mật, còn các cõi khác không có được thuận lợi như cõi người này.

- Người đàn ông có khả năng đặc biệt trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác hoặc Đức Phật Độc Giác hoặc Bậc Thánh A-ra-hán Tối Thượng Thanh Văn Giác hoặc Bậc Thánh A-ra-hán Đại Thanh Văn Giác hoặc Đức Vua Chuyển Luân Thánh Vương.

- Người đàn bà có khả năng đặc biệt trở thành Bậc Thánh Nữ A-ra-hán Tối Thượng Thanh Văn Giác.

Ngoài ra, con người còn có khả năng trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Bất Lai, bậc Thánh A-ra-hán bậc thường, cũng như chư thiên, chư phạm thiên cũng có khả năng trở thành 4 bậc Thánh Nhân bậc thường như vậy.

 Loài long có nhiều phép thần thông tự nhiên do quả của nghiệp (kammavipāka iddhi) (ví dụ như các loài chim đều biết bay), nên có khả năng biến hóa thành người, v.v… nhưng vốn là hạng chúng sinh vô nhân (không có 3 nhân: vô tham, vô sân, vô si) thuộc về loài súc sinh, nên không thể chứng đắc Thánh Đạo, Thánh Quả, không trở thành bậc Thánh Nhân được.

Dòng giống long (rồng) tuy có khả năng biến hóa ra thành người, hoặc thành các loài chúng sinh khác, nhưng khi có 1 trong 5 trường hợp này, tự nhiên trở lại kiếp con long của mình như trước.

 

5 trường hợp ([2]) như sau:

1- Thời kỳ tái sinh kiếp long.

2- Khi lột lớp da cũ thay bằng lớp da mới.

3- Khi hành dâm với loài long khác phái.

4- Khi nằm ngủ say.

5- Khi chuyển đổi kiếp long (chết).

Đó là 5 trường hợp của tất cả loài long.

Đức Phật dạy: “Được sinh làm người là điều khó…”

Nay, chúng ta hiện đang là kiếp người có những cơ hội tốt thuận lợi, để thực hành mọi thiện nghiệp, thực hành mọi pháp hạnh Ba-la-mật cho chúng ta. Vậy, chúng ta chớ nên dể duôi, cố gắng thực hành mọi thiện nghiệp, thực hành mọi pháp hạnh Ba-la-mật, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc không chỉ cho chúng ta mà còn cho tất cả chúng sinh nữa.

Hơn nữa, chúng ta nên cố gắng tinh tấn thực hành các pháp hạnh Ba-la-mật, bồi bổ, tích luỹ cho sớm được đầy đủ, để hầu mong hỗ trợ cho pháp hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý tứ Thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não, mọi tham ái, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

 

 (Xong pháp hạnh giữ giới Ba-la-mật bậc thượng)

 

3 - Pháp Hạnh Xuất Gia Ba-La-Mật có 3 bậc

      (Nekkhammapāramī)

3.1- Pháp Hạnh Xuất Gia Ba-La-Mật Bậc Hạ 

       (Nekkhammapāramī)

Tích  Bhisajātaka (Phi-xá-cha-tá-ká)

Trong tích Bhisajātaka,([1]) Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama sinh làm con gia đình Bà-la-môn phú hộ, có tâm nhàm chán trong ngũ dục, nên thực hành pháp hạnh xuất gia Ba-la-mật (nekkhammapāramī), trở thành Đạo sĩ ở trong rừng Himavanta. Tích này được bắt nguồn như sau:

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana, gần kinh thành Sāvatthi. Khi ấy, Đức Thế Tôn đề cập đến một vị Tỳ khưu phát sinh tâm tham muốn trong ngũ dục: sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, xúc dục. Đó là 5 đối tượng ràng buộc, nên Đức Thế Tôn cho truyền gọi vị Tỳ khưu ấy đến, truyền hỏi rằng:

- Này Tỳ khưu! Con phát sinh tâm tham muốn trong ngũ dục như vậy, có thật không?

Vị Tỳ khưu thú thật rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, có thật vậy. Bạch Ngài.

- Này Tỳ khưu! Do nguyên nhân nào mà con phát sinh tâm tham muốn như vậy?

- Kính bạch Đức Thế Tôn, do phiền não phát sinh.  Bạch Ngài.

 Đức Thế Tôn truyền dạy rằng:

- Này tỳ khưu! Con đã xuất gia trong giáo pháp của Như Lai, để diệt mọi phiền não, dẫn đến giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới. Sao con để phiền não phát sinh, rồi sinh tâm tham muốn ngũ dục như thế!  

Trong quá khứ, khi Đức Phật Chánh Đẳng Giác  chưa xuất hiện trên thế gian, chư bậc thiện trí xuất gia trở thành đạo sĩ, đem vật dục (vatthukāma) và phiền não dục (kilesakāma) làm đối tượng, để tự nguyền rủa mình.     

Tích Bhisajātaka

Đức Thế Tôn thuyết tích Bhisajātaka được tóm lược như sau:

Trong thời quá khứ, Đức Vua Brahmadatta ngự tại kinh thành Bārāṇasī. Khi ấy, Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama sinh trong gia đình Bà-la-môn phú hộ có của cải tài sản nhiều đến 800 triệu, cha mẹ đặt tên Ngài là Mahākañcanakumāra: Công tử Mahākañcana.

Về sau, cha mẹ của Ngài sinh đứa con thứ hai đặt tên là Upakañcanakumāra: Công tử Upakañcana, theo tuần tự sinh thêm 5 đứa con trai và đứa con gái út đặt tên là Kañcanadevī.

Đức Bồ Tát Mahākañcana trưởng thành sau khi học thành tài các bộ môn theo truyền thống Bà-la-môn từ kinh thành Takkasilā trở về, cha mẹ muốn cho Ngài lập gia đình, nên bảo rằng:

- Này Mahākañcana con yêu quý! Cha mẹ muốn chọn một người con gái cùng giai cấp đem về làm lễ cưới vợ cho con.

Nghe cha mẹ dạy bảo như vậy, Đức Bồ Tát Mahā-kañcana thưa với cha mẹ rằng:

- Kính thưa cha mẹ, con không muốn cưới ai làm vợ cả, bởi vì con nhận thức tam giới này như là nhà tù lớn giam hãm chúng sinh đáng kinh sợ, đầy tai hoạ đau khổ, như lửa đang cháy khắp mọi nơi.

Con cảm thấy nhàm chán trong ngũ dục (sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, xúc dục), thấy tội lỗi trong ngũ dục. Dù trong giấc mộng con cũng không từng thấy hành dâm, huống hồ gì con đang tỉnh.

Vậy, làm sao con có thể cưới ại làm vợ được!

 - Kính thưa cha mẹ, xin cha mẹ cưới vợ cho các em con. Riêng con chắc chắn không muốn cưới vợ. 

Nghe Đức Bồ Tát Mahākañcana khăng khăng không chịu cưới vợ. Cha mẹ đã khẩn khoản năn nỉ nhiều lần không được, nên nhờ các người bạn thân của Đức Bồ Tát Mahākañcana đến tha thiết năn nỉ nhưng cũng không làm cho Đức Bồ Tát thay đổi ý kiến. Các người bạn bèn hỏi Đức Bồ Tát rằng:

- Này bạn Mahākañcana thân mến! Bạn muốn gì mà không muốn cưới vợ?

Nghe các bạn hỏi như vậy, Đức Bồ Tát trả lời rằng:

- Này các bạn thân mến! Tôi muốn lánh xa ngũ dục (sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, xúc dục) trong đời, nên tôi không muốn cưới vợ.

Các bạn không thể thuyết phục được Đức Bồ Tát Mahākañcana, nên cha mẹ của Ngài đến khuyên bảo tuần tự 6 người con trai còn lại nên cưới vợ, nhưng không có người con trai nào chịu vâng lời theo cha mẹ.

Cả 6 người con trai đều khăng khăng không chịu cưới vợ, thậm chí người con gái út Kañcanadevī cũng không chịu lấy chồng.

Cha mẹ không thể khuyên bảo người con nào được.

Về sau, khi cha và mẹ tuần tự qua đời, Đức Bồ Tát Mahākañcana anh trưởng cùng với các người em làm lễ hoả táng cha và mẹ xong, tất cả 7 anh em đồng tâm nhất trí đem tất cả của cải khoảng 800 triệu làm phước thiện đại bố thí hết đến cho những người nghèo khổ, thiếu thốn, rồi 7 anh em dự định cùng dẫn nhau vào rừng núi Himavanta.





[ Ðầu trang][Trở về mục lục ][ Trở về trang Thư Viện ]

updated: 2024