Trung Tâm Hộ Tông - Trang Chủ


Ý Nghĩa Rằm Tháng Tư

Soạn giả: Hộ Pháp


 

ĐỨC BỒ THÁI THÁI TỬ SIDDHATTHA THÀNH ĐỨC PHẬT GOTAMA

Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha lên ngôi Vua năm 16 tuổi và thành hôn với Công chúa Yasodhara(1). Đức vua Siddhattha tấn phong Công chúa Yasodhara lên ngôi chánh cung Hoàng hậu. Đức vua trị vì đất nước thanh bình thịnh vượng, thần dân thiên hạ được an cư lạc nghiệp.

Đức vua Bồ Tát an hưởng sự an lạc trên ngai vàng trải qua thời gian 13 năm.

Đức vua Bồ Tát ngự đi du lãm ngoại thành 4 lần đến vườn thượng uyển(2), mỗi lần cách nhau 3 tháng, mỗi lần nhìn thấy một cảnh do chư thiên biến hóa để làm cho Đức Bồ Tát phát sinh động tâm mà đi xuất gia, để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

*               Lần thứ nhất: Vào ngày rằm tháng 6, Đức Bồ Tát nhìn thấy người già.

*               Lần thứ nhì: Vào ngày rằm tháng 10, Đức Bồ Tát nhìn thấy người bệnh.

*               Lần thứ ba: Vào ngày rằm tháng 2, Đức Bồ Tát nhìn thấy người chết.

*               Lần thứ tư: Vào ngày rằm tháng 6, Đức Bồ Tát nhìn thấy bậc xuất gia.

Trải qua 4 lần tròn đúng một năm; vào đêm rằm tháng 6 Đức vua Bồ Tát quyết định xuất gia, để tìm con đường giải thoát khổ già, khổ bệnh, khổ chết.

Đức Bồ Tát xuất gia năm 29 tuổi, Ngài tìm đến vị Đạo sư Ālāra Kālāmagotta xin thọ giáo. Vị Đạo sư hân hoan tiếp nhận Ngài, rồi dạy pháp hành thiền định. Trải qua một thời gian thực hành thiền định không lâu, Đức Bồ Tát đã chứng đắc 4 bậc thiền hữu sắc và đến đệ tam thiền vô sắc gọi là vô sở hữu xứ thiền, ngang bằng với bậc thiền mà vị Đạo sư Ālāra Kālāmagotta đã chứng đắc. Đức Bồ Tát suy xét rằng: “Bậc đệ tam thiền vô sắc, vô sở hữu xứ thiền này sẽ cho quả tái sinh lên cõi Phạm Thiên vô sắc giới, Vô Sở Hữu Xứ Thiên có tuổi thọ 60.000 đại kiếp, không phải là pháp dẫn đến sự nhàm chán ngũ uẩn, không diệt tận được tham ái, không đoạn diệt được phiền não, không chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, không tịch diệt Niết Bàn, không giải thoát được mọi cảnh khổ sinh-lão-bệnh-tử luân hồi trong tam giới”

Đức Bồ Tát không bằng lòng với sở đắc của mình, Ngài xin từ giã vị Đạo sư Ālāra Kālāmagotta khả kính, để đi tìm pháp môn khác hầu mong giải thoát khổ sinh - lão - bệnh - tử.

Sau khi từ giã vị Đạo sư Ālāra Kālāmagotta, Đức Bồ Tát tìm đến vị Đạo sư Udaka Rāmaputta xin thọ giáo. Vị Đạo sư hân hoan tiếp nhận Ngài, rồi truyền dạy pháp hành thiền định. Trải qua thời gian không lâu, Đức Bồ Tát đã chứng đắc 4 bậc thiền hữu sắc và 4 bậc thiền vô sắc, bậc đệ tứ thiền vô sắc tột đỉnh gọi là phi tưởng phi phi tưởng xứ thiền, ngang bằng với bậc thiền mà vị Đạo sư Udaka Rāmaputta đã chứng đắc.

Đức Bồ Tát suy xét rằng: “Bậc đệ tứ thiền vô sắc, phi tưởng phi phi tưởng xứ thiền này sẽ cho quả tái sinh lên cõi trời Phạm Thiên vô sắc giới. Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên có tuổi thọ 84.000 đại kiếp, không phải là pháp dẫn đến sự nhàm chán ngũ uẩn, không diệt tận được tham ái, không đoạn diệt được phiền não, không chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, không tịch diệt Niết Bàn, không giải thoát được mọi cảnh khổ sinh-lão-bệnh-tử luân hồi trong tam giới”.

Đức Bồ Tát xin từ giã vị Đạo sư Udaka Rāmaputta khả kính để đi tìm pháp môn khác, hầu mong giải thoát khổ sinh-lão-bệnh-tử.

Sau khi từ giã vị Đạo sư Udaka Rāmaputta, Đức Bồ Tát đi đến khu rừng Uruvela gần con sông Nerañjarā; tại nơi đây có nhóm 5 Tỳ khưu: Ngài Kondañña, Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma và Ngài Assaji xin theo hộ độ Ngài.

Đức Bồ Tát tinh tấn hành pháp khổ hạnh nín thở đến nỗi làm cho Ngài chết ngất; thấy không có kết quả, Ngài lại giảm vật thực dần dần, cho đến khi mỗi ngày chỉ ăn lượng vật thực còn bằng hạt sen. Do đó, kim thân của Ngài gầy ốm chỉ còn da bọc xương, ốm đến nỗi sờ da bụng thì đụng phải đường xương sống. Trước kia kim thân của Đức Bồ Tát có đầy đủ 32 tướng tốt của Bậc Đại Nhân và 80 tướng tốt phụ, có làn da màu vàng sáng ngời, đến nay các tướng tốt ấy đã biến mất, còn làn da đã trở thành màu đen sẫm.

Một hôm Đức Bồ Tát suy xét: Ta đã hành pháp khổ hạnh đến chỗ tột cùng rồi. Trong thời quá khứ, chưa từng có Sa-môn, Bà-la-môn nào đã hành pháp khổ hạnh đến mức như ta đang hành. Thời hiện tại và thời vị lai cũng sẽ không có Sa-môn, Bà-la-môn nào có thể hành pháp khổ hạnh như ta; thế mà, ta không thể chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Như vậy, chắc chắn phải còn có một pháp hành nào khác”.

Đức Bồ Tát hồi tưởng lại rằng: “Khi ta còn nhỏ, cùng Phụ vương ra đồng làm lễ hạ điền, Phụ vương để ta ngồi trong một chiếc lều vải dưới gốc cây mận (đào). Ta đã ngồi niệm đề mục hơi thở: hít vô - thở ra, và ta đã chứng đắc đệ nhất thiền hữu sắc. Vậy, chắc chắn pháp hành thiền định này làm nền tảng, để ta có thể chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác cũng nên”.

Đức Bồ Tát xét thấy rằng: “Bây giờ, thân thể của ta gầy ốm, sức khỏe yếu đuối, ta không thể thực hành thiền định đề mục niệm hơi thở được. Vậy, điều tốt hơn hết là ta nên thọ thực trở lại, cho có sức khỏe rồi ta mới có thể thực hành thiền định”.

Đức Bồ Tát đã hành pháp khổ hạnh suốt 6 năm trường ròng rã, mà không đạt đến mục đích chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, nên Ngài đã từ bỏ pháp hành khổ hạnh.

Đức Bồ Tát mang bát vào xóm Senā khất thực; sau một thời gian thọ thực bình thường trở lại, sức khỏe của Ngài được hồi phục. Trong thời kỳ hành pháp khổ hạnh, mọi tướng tốt của Ngài đã biến mất. Nay kim thân Ngài lại hiện rõ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân và 80 tướng tốt phụ, có làn da màu vàng sáng ngời như trước.

Năm Điều Đại Mộng (Mahāsupina)

Đêm 14 tháng tư âm lịch, vào cuối canh chót, lúc rạng đông, Đức Bồ Tát Sidhattha nằm thấy 5 điều đại mộng (mahāsupina)(3) như sau:

1-             Đức Bồ Tát nằm mộng thấy mặt đất làm chỗ nằm, dãy núi Himavanta (Hy Mã Lạp Sơn) là chiếc gối, cánh tay trái đặt xuống đại dương hướng Đông, cánh tay phải đặt xuống đại dương hướng Tây, hai chân duỗi thẳng đại dương hướng Nam.

Đó là điều đại mộng thứ nhất, điều này là pubba-nimitta hiện tượng báo trước Đức Bồ Tát chắc chắn chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác cao thượng, độc nhất vô nhị trong toàn cõi thế giới chúng sinh.

2-             Đức Bồ Tát nằm mộng thấy cây cỏ tranh (tiriyā) mọc lên từ lỗ rún của Ngài, cao từ 1 gang, 1 hắt tay, 1 sải tay,… 1 do tuần tay thẳng lên trên hư không.

Đó là điều đại mộng thứ nhì, điều này là pubba-nimitta hiện tượng báo trước Đức Phật Chánh Đẳng Giác sẽ thuyết pháp hành Trung đạo pháp hành Bát chánh đạo hợp đủ 8 chánh cao thượng để tế độ chúng sinh, nhân loại, chư thiên, phạm thiên cùng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

3-             Đức Bồ Tát nằm mộng thấy những con dòi, sâu (kimi) có thân mình trắng, đầu đen bò từ đôi bàn chân lên đầu gối của Ngài.

Đó là điều đại mộng thứ ba, điều này là pubba-nimitta hiện tượng báo trước phần đông người tại gia có đức tin trong sạch nơi Đức Phật, đến xin quy y nương nhờ nơi Tam Bảo trọn đời.

4-             Đức Bồ Tát nằm mộng thấy 4 loại chim đủ màu: Xanh, vàng, đỏ, xám từ bốn phương bay đến đậu dưới hai bàn chân của Ngài, 4 loại chim trở thành màu trắng trong.

Đó là điều đại mộng thứ tư, điều này là pubba-nimitta hiện tượng báo trước 4 giai cấp: Vua chúa, Bà-la-môn, thương gia, dân nghèo; 4 hạng người ấy là bậc thiện trí có đức tin trong sạch nơi Đức Phật, xin phép xuất gia trở thành Tỳ khưu trong giáo pháp của Đức Phật, rồi thực hành theo pháp hành Trung đạo là pháp hành Bát chánh đạo hợp đủ 8 chánh, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng.

5-             Đức Bồ Tát nằm mộng thấy, Ngài đi kinh hành qua lại trên dãy núi phân, nhưng chân không dính phân.

Đó là điều đại mộng thứ năm, điều này là pubba-nimitta hiện tượng báo trước khi đã trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, những thứ vật dụng như y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh phát sinh rất nhiều. Suy xét xong rồi mới sử dụng những thứ vật dụng ấy, cho nên Đức Phật không bao giờ dính mắc, say mê trong thứ vật dụng ấy.

Nguyên Nhân Nằm Mộng (Chiêm Bao)

Người nằm mộng (chiêm bao) do 4 nguyên nhân:

1-            Do tứ đại không điều hòa: Khi nằm không yên giấc bởi vì đất, nước, lửa, gió không điều hòa, cho nên nằm mộng (chiêm bao) như mình rơi từ trên núi cao xuống, hoặc bị voi, cọp đuổi theo, hoặc bị người đuổi theo v.v… thấy toàn những cảnh khủng khiếp, đáng sợ.

2-            Do những việc đã từng thấy, đã từng biết, đã từng sử dụng… từ trước, nay nằm mộng (chiêm bao) thấy cảnh ấy hiện ra đối với người ấy.

3-            Do chư thiên báo mộng: Do chư thiên có năng lực báo mộng cho biết trước những sự việc sẽ xảy ra đến cho người ấy. Điều mộng này có khi chư thiên báo mộng đúng, cũng có khi chư thiên có tác ý báo mộng sai.

4-            Do hiện tượng báo trước (pubbanimitta): Do năng lực của nghiệp thiện hoặc nghiệp ác phát sinh hiện tượng báo mộng trước những quả tốt của nghiệp thiện, hoặc những quả xấu của nghiệp ác đối với người ấy.

Ví dụ:

Chánh cung Hoàng hậu Mahāmāyā nằm mộng (chiêm bao) thấy những cảnh tượng xảy ra trước khi Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha đầu thai kiếp chót. Đức vua Kosala nằm mộng thấy 16 điều mộng. Đức Bồ Tát Siddhattha nằm mộng thấy 5 đại mộng…

Trong 4 trường hợp nằm mộng, trường hợp thứ nhất do tứ đại không điều hòa, và trường hợp thứ nhì do những sự việc đã từng thấy, đã từng biết, đã từng sử dụng… từ trước, những điều mộng này không có thật, không đúng theo sự thật.

Trường hợp thứ ba do chư thiên báo mộng có khi thật, có khi không có thật.

Trường hợp thứ tư do nghiệp thiện hoặc nghiệp ác phát sinh hiện tượng báo trước (pubbanimitta) thì lúc nào cũng thật, cũng đúng, chắc chắn kết quả sẽ xảy ra như nằm mộng (chiêm bao).

*               Hạng người nào nằm mộng?

Những hạng phàm nhân, bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai và bậc Thánh Bất Lai có thể nằm mộng, bởi vì những người ấy còn có các pháp đảo điên (vipallāsadhamma).

Bậc Thánh A-ra-hán hoàn toàn không còn nằm mộng, bởi vì quý Ngài đã diệt đoạn tuyệt các pháp đảo điên không còn dư sót nữa.

*               Lúc nào nằm mộng?

Lúc người ngủ say yên giấc không nằm mộng. Lúc người tỉnh giấc cũng không nằm mộng. Người nằm mộng khi không phải lúc ngủ say và cũng không phải lúc tỉnh giấc.

*               Nằm mộng lúc nào mới có thật?

Người nằm mộng ban ngày, canh đầu đêm, canh giữa đêm, canh chót đêm đều không có thật. Chỉ có cuối canh chót lúc rạng đông (bình minh) người nằm mộng mới có thật mà thôi.

*               Tính chất của giấc mộng như thế nào?

Giấc mộng có 3 tính chất:

a)             Ác mộng: Nằm mộng thấy cảnh tượng đáng ghê sợ, hồi hộp,… như bị thú dữ đuổi theo,…

b)             Mộng lành: Nằm mộng thấy cảnh tượng đáng hài lòng,… như đảnh lễ ngôi Tháp Bảo, nghe pháp, thuyết pháp,…

c)             Mộng không dữ, không lành: Nằm mộng thấy cảnh tượng bình thường.

*               Nằm mộng có thành nghiệp hay không?

Khi nào người nằm ngủ say yên giấc, khi ấy tâm quả làm phận sự hộ kiếp (bhavaṅga) có đối tượng cũ lộ trình tâm chưa phát sinh, nên không nằm mộng.

Khi nào người nằm mộng, khi ấy lộ trình tâm đã phát sinh, trong lộ trình ấy có tâm tác hành tạo nghiệp thiện hoặc nghiệp ác, nhưng tâm sở tác ý trong tác hành tâm có năng lực rất yếu, không đáng kể. Cho nên, tuy có nghiệp thiện hoặc nghiệp ác nhưng không có khả năng có quả tái sinh kiếp sau. Nếu có cơ hội thì nghiệp thiện hoặc nghiệp ác ấy cho quả rất yếu, sau khi đã tái sinh.

Các giấc mộng, những người khác có thể nằm mộng thấy được. Song 5 điều đại mộng thì chỉ có duy nhất Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót, trước một đêm chắc chắn sẽ chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, mới có khả năng nằm mộng thấy 5 điều đại mộng này mà thôi.

Đêm 14 tháng tư âm lịch, vào cuối canh chót rạng đông, Đức Bồ Tát Siddhattha nằm thấy 5 điều đại mộng (mahāsupina). Qua 5 điều đại mộng này, Ngài đoán biết rằng: “Ngài chắc chắn sẽ chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác”.

Sáng ngày rằm tháng tư âm lịch, Đức Bồ Tát đi đến ngồi dưới gốc cây da để chờ đến giờ đi vào xóm khất thực. Tại nơi đây, hằng năm, vào ngày rằm tháng tư này, nàng Sujātā thường đem lễ vật đến cúng dường, để tạ ơn thiên thần đã giúp cho nàng toại nguyện.

Như thường lệ, sáng ngày rằm tháng tư âm lịch, nàng Sujātā trang điểm bằng những đồ trang sức quý giá rồi đi đến cội cây da, trên đầu đội một chiếc mâm vàng đựng 49 vắt cơm nấu bằng sữa tươi tinh khiết, bổ dưỡng, có chư thiên bỏ thêm hương vị trời. Khi đến nơi, nhìn thấy Đức Bồ Tát có 32 tướng tốt của Bậc Đại Nhân và 80 tướng tốt phụ, có làn da màu vàng sáng ngời, có hào quang tỏa ra xung quanh, nàng tưởng rằng: “Ngài là vị thiên thần hiện xuống thọ nhận phẩm vật cúng dường tạ ơn của nàng”. Nàng Sujātā vô cùng hoan hỷ đến gần Đức Bồ Tát cung kính dâng Ngài chiếc mâm vàng đầy 49 vắt cơm sữa cùng bình nước, hoa quả… Khi ấy, cái bát của Ngài bỗng nhiên biến mất, Ngài nhìn nàng Sujātā.

Nàng Sujātā liền bạch rằng:

-               Kính bạch Đức Thiên Thần, con thành kính dâng Ngài chiếc mâm vàng đầy những phẩm vật này. Kính xin Ngài từ bi hoan hỷ thọ nhận, để cho con được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài.

Đức Bồ Tát đưa hai tay ra thọ nhận chiếc mâm vàng đầy các phẩm vật quý giá ấy.

Sau khi thọ nhận chiếc mâm vàng đầy cơm sữa xong, Đức Bồ Tát đứng dậy rời khỏi gốc cây da, tay bưng chiếc mâm vàng đầy cơm sữa đi đến bến sông Nerañjarā, nơi mà chư Bồ Tát Chánh Đẳng Giác quá khứ, trước khi chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, cũng đều ngự đến đây để tắm, nên bến sông này gọi là bến Supaṭitthita. Ngài đặt mâm ở bến Supaṭitthita, rồi xuống dòng sông Nerañjarā tắm. Khi tắm xong, Ngài mặc y cà sa màu lõi mít tượng trưng cho lá cờ chiến thắng của chư Thánh A-ra-hán, đoạn Ngài ngồi quay mặt về hướng Đông, độ hết 49 vắt cơm sữa, rồi uống hết bình nước (từ đó về sau suốt 7 tuần lễ (49 ngày), Đức Phật không độ vật thực và nước, chỉ an hưởng vị giải thoát Niết Bàn).

Sau khi độ cơm xong, Ngài cầm chiếc mâm vàng phát nguyện rằng:

-               Nếu hôm nay ta được chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thì xin cho chiếc mâm vàng này sẽ trôi ngược dòng nước; nếu không, thì chiếc mâm vàng này sẽ trôi xuôi theo dòng nước.

Nguyện xong, Ngài ném chiếc mâm vàng xuống dòng sông. Thật phi thường thay! Chiếc mâm vàng cắt ngang dòng nước đang chảy, trôi ra giữa sông, rồi từ đó trôi ngược dòng nước một cách vô cùng mau lẹ. Trôi khoảng một đoạn khá xa, chiếc mâm vàng chìm sâu xuống đáy nước, đụng phải ba chiếc mâm vàng của ba Đức Phật quá khứ là Đức Phật Kakusandha, Đức Phật Koṇāgamana Đức Phật Kassapa, phát ra một âm thanh vang dội, làm cho Long vương Kālanāga tỉnh giấc nghĩ rằng:

Hôm qua một Đức Phật đã xuất hiện, hôm nay sẽ có một Đức Phật nữa xuất hiện”, rồi thức dậy tán dương ca tụng hằng trăm bài kệ.

Trưa hôm ấy, Đức Bồ Tát nghỉ trong một khu rừng Sālā, bên bờ sông Nerañjarā, những cây Sālā tự nhiên đua nhau nở hoa khắp cả khu rừng. Chiều hôm ấy, Ngài ngự đến cội cây Assattha, dọc theo hai bên đường, chư thiên trang hoàng những đóa hoa trời rất xinh đẹp, chư thiên ở các cõi trời đua nhau cúng dường hương thơm cùng với thiên nhạc vang rền khắp 10 ngàn thế giới chúng sinh. Cùng lúc ấy, một người cắt cỏ tên Sotthiya, trên đường đi ngược chiều lại phía Đức Bồ Tát, nhìn thấy Ngài, liền phát sinh đức tin trong sạch, nên dâng cúng Ngài tám nắm cỏ. Đức Bồ Tát cầm tám nắm cỏ ngự thẳng đến cội cây Assattha.

Khi đứng hướng Nam của cội cây, Ngài nhìn thẳng về hướng Bắc, Ngài có cảm giác mất thăng bằng, như toàn cõi thế giới hướng Nam bị chìm sâu xuống cõi địa ngục Avīci, còn toàn cõi thế giới hướng Bắc được nổi lên đến cõi trời sắc giới phạm thiên tột đỉnh. Ngài nghĩ rằng:

Đây không phải là chỗ ngồi để ta có thể chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác”.

Ngài ngự đi sang hướng khác.

Khi đứng hướng Tây của cội cây, Ngài nhìn về hướng Đông; rồi đứng hướng Bắc, Ngài nhìn về hướng Nam cũng có cảm giác mất thăng bằng như vậy.

Sau cùng, đứng hướng Đông của cội cây, Ngài nhìn thẳng về hướng Tây, Ngài có cảm giác toàn cõi thế giới thăng bằng.

Ngài nghĩ rằng: Chính đây là chỗ ngồi để ta có thể chứng đắc thành Bậc Chánh Đẳng Giác”.

Ngài trải tám nắm cỏ tại hướng Đông của cội Assattha. Thật phi thường thay! Tại ngay chỗ ngồi ấy bỗng nhiên trở thành ngôi Bồ đoàn quý báu, có chiều cao 14 hắc tay thật nguy nga lộng lẫy, mà không có một nhà kiến trúc mỹ thuật nào có thể tạo nên một Bồ đoàn tuyệt đẹp như vậy! Bởi vì, ngôi Bồ đoàn quý báu này phát sinh do phước báu ba-la-mật tròn đủ của Đức Bồ Tát sắp trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

Ngài ngồi kiết già vững vàng trên ngôi Bồ đoàn quý báu, quay mặt về hướng Đông rồi phát nguyện rằng:

-               Dù cho thịt và máu trong thân ta khô cạn hết, dù sắc thân này chỉ còn da bọc xương đi nữa, nếu ta chưa chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, ta quyết không bao giờ rời khỏi Bồ đoàn này.

Lúc ấy, từ cung trời Tha Hóa Tự Tại Thiên, Ác Ma Thiên hóa ra hàng ngàn cánh tay cầm khí giới, cỡi voi Girimekhala cầm đầu đoàn thiên ma binh, thiên ma tướng rầm rộ hiện xuống vây quanh cội Assattha, kéo dài 12 do tuần. Bên trên hư không, chúng thiên ma dày đặc 9 do tuần, chúng la hét âm thanh vang dội kinh khủng làm chấn động khắp mọi nơi, quyết tranh giành ngôi Bồ đoàn của Đức Bồ Tát. Mới đây, chư thiên, chư phạm thiên từ 10 ngàn thế giới đến cung kính cúng dường, tán dương ca tụng Đức Bồ Tát, khi thoáng nhìn thấy Ác Ma Thiên cùng với thiên ma binh, thiên ma tướng trùng trùng điệp điệp từng đoàn, từng lớp hiện xuống; tất cả chư thiên, phạm thiên đều bay xa lánh mặt, trở về chỗ ở của mình, chỉ còn một mình Đức Bồ Tát đang điềm nhiên ngự trên ngôi Bồ đoàn.

Ác Ma Thiên đã sử dụng đủ mọi loại vũ khí và phép thuật cực kỳ nguy hiểm, quyết sát hại Đức Bồ Tát, để chiếm đoạt ngôi Bồ đoàn, với mục đích ngăn cản không cho Đức Bồ Tát chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Nhưng do oai lực 30 pháp hạnh ba-la-mật đầy đủ trọn vẹn của Đức Bồ Tát sắp chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, nên không có một loại phép thuật hay vũ khí nguy hiểm nào có thể sát hại được Ngài.

Quả thật như thế! Do oai lực pháp hạnh ba-la-mật của Đức Bồ Tát, các loại vũ khí và phép thuật của Ác Ma Thiên đều hóa thành những vật cúng dường Ngài.

Ngồi trên lưng voi Girimekhala, Ác Ma Thiên vô cùng căm uất, chỉ tay về Đức Bồ Tát nói như ra lệnh:

-               Này Sa-môn Gotama, nhà ngươi hãy mau mau rời khỏi ngôi Bồ đoàn ấy, vì ngôi Bồ đoàn ấy là của ta, không phải của ngươi!

Đức Bồ Tát từ tốn đáp lại:

-               Này Ác Ma Thiên, ngôi Bồ đoàn quý báu này phát sinh do phước thiện của 30 pháp hạnh ba-la-mật, 5 hạnh đại thí, 3 pháp hành mà Như Lai đã tạo từ vô số kiếp. Do đó, ngôi Bồ đoàn này thuộc về của Như Lai, không phải của ngươi.

Khi ấy, chỉ một mình Đức Bồ Tát ngự trên Bồ đoàn, ngoài ra, không còn có một ai bên cạnh Đức Bồ Tát cả, nên Ác Ma Thiên đặt câu hỏi bắt bí Đức Bồ Tát rằng:

-               Thưa Sa-môn Gotama, Ngài nói rằng: “Ngôi Bồ đoàn quý báu ấy thuộc về của Ngài. Vậy ai làm chứng cho Ngài!

Nhìn xung quanh đều không có một chư thiên, phạm thiên nào cả, Đức Bồ Tát bèn đưa bàn tay phải ra, rồi dùng ngón trỏ chỉ xuống mặt đất, truyền dạy bằng lời chân thật rằng:

Trong những tiền kiếp, Như Lai đã từng tạo 30 pháp hạnh ba-la-mật, 5 hạnh đại thí, 3 pháp hành. Bây giờ, tại nơi đây không có chúng sinh nào đứng ra làm chứng cho Như Lai, chỉ có mặt đất, mặt đất không có tâm thức này có thể làm chứng cho Như Lai được không?”.

Thật phi thường thay! Lời chân thật của Đức Bồ Tát vừa chấm dứt, ngay tức khắc, mặt đất chuyển mình, rung động, phát ra những tiếng sấm sét long trời lở đất, làm cho Ác Ma Thiên kinh hoàng khiếp đảm, giục voi Girimekhala bỏ chạy trở về cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên; còn đám ma binh thì hỗn quân, hỗn quan vô cùng khiếp sợ, cũng hốt hoảng chạy tán loạn theo chủ soái để thoát thân.

Đức Bồ Tát ngự trên Bồ đoàn quý báu dưới cội cây Assattha toàn thắng Ác Ma Thiên, vừa đúng lúc mặt trời sắp lặn hướng Tây, mặt trăng ló dạng hướng Đông. Khi ấy, mười ngàn thế giới, chư thiên cõi trời dục giới, phạm thiên cõi trời sắc giới, Long vương dưới thủy cung… vui mừng reo hò vang dội khắp các tầng trời, tán dương ca tụng oai lực ba-la-mật của Đức Bồ Tát rằng:

Đức Bồ Tát Siddhattha đã toàn thắng rồi!

Ác Ma Thiên đã hoàn toàn thất bại rồi!

Do đó, ngôi Bồ đoàn quý báu này gọi là Aparā-jitapallaṇka” nghĩa là ngôi Bồ đoàn quý báu nơi toàn thắng Ác Ma Thiên.

Chư thiên, phạm thiên đem những đoá hoa trời xinh đẹp, những hương thơm đến cúng dường, tán dương ca tụng ba-la-mật của Đức Bồ Tát.

Sau khi Đức Bồ Tát đã toàn thắng Ác Ma Thiên, vào canh đầu đêm rằm tháng tư âm lịch, Ngài thực hành thiền định (samathabhāvanā) với đề mục niệm hơi thở vô - hơi thở ra (ānāpānassati) tuần tự chứng đắc 4 bậc thiền hữu sắc như sau:

-               Đệ nhất thiền hữu sắc: Có 5 chi thiền: Hướng tâm, quan sát, hỷ, lạc, định, do chế ngự được 5 pháp chướng ngại tham dục, sân hận, buồn chán - buồn ngủ, phóng tâm - hối hận, hoài nghi.

-               Đệ nhị thiền hữu sắc: Có 3 chi thiền: Hỷ, lạc, định, do chế ngự được 2 chi thiền hướng tâm, quan sát.

-               Đệ tam thiền hữu sắc: Có 2 chi thiền: Lạc, định, do chế ngự được 1 chi thiền hỷ.

-               Đệ tứ thiền hữu sắc: Có 2 chi thiền: Xả, định, do chế ngự được 1 chi thiền lạc, thay bằng chi thiền xả.

Đó là 4 bậc thiền hữu sắc làm nền tảng để chứng đắc Tam Minh.

 TAM MINH (TEVIJJA)

1-            Túc mạng minh (Pubbenivāsānussatinñāṇa)

Đức Bồ Tát có đệ tứ thiền hữu sắc, định tâm trong sáng thanh tịnh, thiền tâm không lay động làm nền tảng, Ngài hướng tâm đến chứng đắc túc mạng minh: Trí tuệ nhớ rõ lại tiền kiếp, từ 1 kiếp đến hàng trăm kiếp, hàng ngàn kiếp, hàng vạn kiếp, hàng triệu kiếp, hàng triệu triệu kiếp… cho đến vô lượng kiếp không giới hạn(4).

Túc mạng minh là trí tuệ nhớ rõ tiền kiếp thuộc loại chúng sinh nào, tên gì, thuộc dòng dõi nào, đã tạo nghiệp thiện , nghiệp bất thiện, tạo ba-la-mật, thọ lạc, thọ khổ, tuổi thọ như thế nào… đều nhớ rõ ràng mọi chi tiết.

Túc mạng minhminh thứ nhất mà Đức Bồ Tát đã chứng đắc vào canh đầu đêm rằm tháng tư (âm lịch).

2-            Thiên nhãn minh (Dibbacakkhunñāṇa)

Đức Bồ Tát có đệ tứ thiền hữu sắc, định tâm trong sáng thanh tịnh, thiền tâm không lay động làm nền tảng, Ngài hướng tâm đến chứng đắc thiên nhãn minh: Trí tuệ thấy rõ, biết rõ kiếp quá khứ, kiếp vị lai của tất cả chúng sinh như mắt của chư thiên, phạm thiên.

Thiên nhãn minh có 2 loại:

-               Tử sanh minh (cutūpapātañāṇa): Trí tuệ thấy rõ biết rõ sự tử, sự tái sinh của tất cả chúng sinh. Sau khi chết, do nghiệp nào cho quả tái sinh cảnh giới nào, thọ khổ, thọ lạc như thế nào…

-               Vị lai kiến minh (anāgataṃsañāṇa): Trí tuệ thấy rõ những kiếp vị lai của tất cả chúng sinh.

Chư Phật dùng vị lai kiến minh này để thọ ký chúng sinh trong những kiếp vị lai xa xăm, còn thời gian bao nhiêu đại kiếp trái đất nữa sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, hoặc Đức Phật Độc Giác, hoặc bậc Thánh Thanh Văn Giác...

Thiên nhãn minhminh thứ nhì mà Đức Bồ Tát đã chứng đắc vào lúc canh giữa đêm rằm tháng tư (âm lịch).

3-            Lậu tận minh (Āsavakkhayañāṇa)

Đức Bồ Tát dùng đệ tứ thiền hữu sắc làm nền tảng, để thực hành thiền tuệ, quán xét Thập Nhị Duyên Sanh (Paṭiccasamuppāda) là đối tượng thiền tuệ của Chư Bồ Tát. Ngài quán xét để chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

Đức Bồ Tát quán xét Thập Nhị Duyên Sanh theo chiều thuận, chiều sinh như sau:

-               Do vô minh làm duyên, nên hành sanh.

          (Avijjāpaccayā saṅkhārā)

-               Do hành làm duyên, nên thức sanh.

          (Saṅkhārapaccayā viññāṇaṃ)

-               Do thức làm duyên, nên danh sắc sanh.

          (Viññāṇapaccayā nāmarūpaṃ)

-               Do danh sắc làm duyên, nên lục nhập sanh.

          (Nāmarūpapaccayā saḷāyatanaṃ)

-               Do lục nhập làm duyên, nên lục xúc sanh.

          (Saḷāyatanapaccayā phasso)

-               Do lục xúc làm duyên, nên lục thọ sanh.

          (Phassapaccayā vedanā)

-               Do lục thọ làm duyên, nên lục ái sanh.

          (Vedanāpaccayā taṇhā)

-               Do lục ái làm duyên, nên tứ thủ sanh.

          (Taṇhāpaccayā upādānaṃ)

-               Do tứ thủ làm duyên, nên nhị hữu sanh.

          (Upādānapaccayā bhavo)

-               Do nhị hữu làm duyên, nên tái sinh sanh.

          (Bhavapaccayā jāti)

-               Do tái sinh làm duyên, nên lão tử… sanh.

          (Jātipaccayā jarāmaraṇaṃ…)  

Đức Bồ Tát quán xét Thập Nhị Duyên Sanh theo chiều thuận, chiều sinh, để trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh của mỗi pháp, trí tuệ thiền tuệ chứng ngộ chân lý Khổ Thánh ĐếNhân sanh Khổ Thánh Đế hay Tập Thánh Đế.

Đức Bồ Tát quán xét Thập Nhị Nhân Diệt theo chiều nghịch, chiều diệt như sau:

-               Do diệt tận vô minh, nên diệt hành.

(Avijjāyatveva asesavirāganirodhā saṅkhāranirodho)

-               Do diệt hành, nên diệt thức.

(Saṅkhāranirodhā viññaṇanirodho)

-               Do diệt thức, nên diệt danh sắc.

(Viññāṇanirodhā nāmarūpanirodho)

-               Do diệt danh sắc, nên diệt lục nhập.

(Nāmarūpanirodhā saḷāyatananirodho)

-               Do diệt lục nhập, nên diệt lục xúc.

(Saḷāyatananirodhā phassanirodho)

-               Do diệt lục xúc, nên diệt lục thọ.

(Phassanirodhā vedanānirodho)

-               Do diệt lục thọ, nên diệt lục ái.

(Vedanānirodhā taṇhānirodho)

-               Do diệt lục ái, nên diệt tứ thủ.

(Taṇhānirodhā upādānanirodho)

-               Do diệt tứ thủ, nên diệt nhị hữu.

(Upādānanirodhā bhavanirodho)

-               Do diệt nhị hữu, nên diệt tái sinh.

(Bhavanirodhā jātinirodho)

-               Do diệt tái sinh, nên diệt lão tử….

(Jātinirodhā jarāmaraṇa… nirodho)

Đức Bồ Tát quán xét Thập Nhị Nhân Diệt theo chiều nghịch, chiều diệt, để trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ sự diệt của mỗi pháp, trí tuệ thiền tuệ chứng ngộ chân lý: Diệt Khổ Thánh ĐếPháp hành diệt Khổ Thánh Đế hay Đạo Thánh Đế.

Đức Bồ Tát quán xét Thập Nhị Duyên Sanh - Thập Nhị Nhân Diệt theo chiều thuận - chiều nghịch, chiều sanh - chiều diệt, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh - sự diệt của mỗi pháp, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt 4 pháp trầm luân (āsava) bằng 4 Thánh Đạo Tuệ tuần tự như sau:

-               Nhập Lưu Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được 1 pháp là tà kiến trầm luân (diṭṭhāsava), cùng với các tà kiến khác.

-               Nhất Lai Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được 1 pháp là tham dục trầm luân (kāmāsava) trong ngũ trần loại thô (còn loại vi tế chưa diệt được), cùng với các tâm tham loại thô khác.

-               Bất Lai Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được 1 pháp là tham dục trầm luân (kāmāsava) trong ngũ trần loại vi tế không còn dư sót, cùng với các tâm tham loại vi tế khác.

-               A-ra-hán Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được 2 pháp là kiếp trầm luân (bhavāsava) vô minh trầm luân (avijjāsava), đồng thời diệt đoạn tuyệt được hoàn toàn mọi tham ái, phiền não, và các ác pháp không còn dư sót.

Như vậy, Đức Bồ Tát đã tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn đầu tiên, diệt đoạn tuyệt mọi tham ái, mọi phiền não, mọi ác pháp không còn dư sót; đặc biệt diệt được mọi tiền khiên tật (5)(vāsanā) do đã tích lũy từ nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ, trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác có danh hiệu Đức Phật Gotama, độc nhất vô nhị trong toàn cõi thế giới chúng sinh.

Đức Phật Gotama có đầy đủ trọn vẹn 73 loại trí tuệ(6). Trong 73 loại trí tuệ này, có những loại trí tuệ mà Chư Phật Độc Giác, Chư Thanh Văn Giác không thể có, đó là 6 Asādhāraṇañāna: 6 trí tuệ không có chung với Chư Phật Độc Giác, Chư Thánh Thanh Văn Giác; 10 Dasabalañāna: 10 tuệ lực; v.v…

Đức Phật Gotama có những Ân đức riêng biệt như:

*               18 āveṇikāguṇa: 18 Ân đức riêng biệt của Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Những Ân đức này chỉ có ở Đức Phật Chánh Đẳng Giác mà thôi, hoàn toàn không có ở Chư Phật Độc Giác, Chư Thánh Thanh Văn Giác.

*               4 anantarāyikaguṇa: 4 Ân đức an toàn vô hại, không có một ai có khả năng sát hại Đức Phật, làm hư hỏng các thứ vật dụng của Đức Phật, gây tai hại tướng tốt của Đức Phật, hoặc làm mất ánh hào quang của Đức Phật.

Lậu tận minhminh thứ 3 mà Đức Bồ Tát đã chứng đắc vào canh chót của đêm rằm tháng tư (âm lịch), vào lúc rạng đông. Ngài đã trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác cao thượng trong toàn cõi thế giới chúng sinh, tại cội cây Assattha. Do đó, cây Assattha này gọi là Bodhirukkha(7): Cây Bồ Đề, đối với Đức Phật Gotama của chúng ta.

Như vậy, Đức Phật Gotama là Đức Chánh Đẳng Giác Vô Thượng trong toàn thế giới chúng sinh. Khi ấy, Ngài đúng 35 tuổi.

Mười ngàn thế giới chúng sinh từ mặt đất lên đến cõi sắc giới phạm thiên tột đỉnh, chư thiên, phạm thiên vô cùng vui mừng, hoan hỷ thốt lên lời:

-               Sādhu! Sādhu!

(Lành thay! Lành thay!)

-               Buddho uppanno!

(Đức Phật xuất hiện trên thế gian rồi!)

-               Dhammo uppanno!

(Đức Pháp xuất hiện trên thế gian rồi!)

-               Saṃgho uppanno!

(Đức Tăng cũng sẽ xuất hiện trên thế gian này!)

Tiếng hoan hô vang dội khắp toàn cõi 10 ngàn thế giới chúng sinh.

Những điều phi thường chưa từng có trên thế gian này là:

*               Tất cả các loài hoa đều đua nhau nở để cúng dường đến Đức Phật.

*               Tất cả các loại cây ăn trái đều cho quả ngon ngọt.

*               Tất cả những người mù từ lúc đầu thai, khi sinh ra không thấy được gì, thì nay có đôi mắt sáng, có thể nhìn thấy mọi vật trên đời.

*               Tất cả những người điếc từ lúc đầu thai, khi sinh ra không nghe được âm thanh gì, thì nay hai tai có thể nghe rõ mọi thứ âm thanh.

*               Tất cả những người què, bại liệt từ lúc đầu thai, khi sinh ra không đi lại được, thì nay có thể đi lại dễ dàng.

*               Đặc biệt nhất, ở địa ngục Lokantarika rộng lớn tối tăm, nơi giáp ranh với 3 thế giới, dành cho những chúng sinh có tà kiến cố định (niyatamicchādiṭṭhi) hoàn toàn không tin nghiệp - quả. Trong địa ngục rất tối tăm ấy, dầu ánh sáng của 7 mặt trời mọc lên cùng một lúc, cũng không thể chiếu thấu đến tận nơi; nhưng ánh sáng hào quang của Đức Phật tỏa khắp 10 ngàn thế giới, chiếu sáng đến tận địa ngục Lokantarika. Cho nên, những chúng sinh ở trong địa ngục có thể nhìn thấy lẫn nhau.

Toàn thể mười ngàn thế giới, chư thiên, phạm thiên đem những phẩm vật cao quý và những đóa hoa xinh đẹp cúng dường đến Đức Phật và tán dương ca tụng Đức Phật bằng hàng ngàn bài kệ.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tự thuyết ở trong tâm bằng 2 bài kệ rằng:

153- Anekajātisaṃsāraṃ,            

Sandhāvissaṃ anibbisaṃ.

Gahakāraṃ gavesanto,   

Dukkhājāti punappunaṃ.  

154- Gahakāraka! diṭṭho’si,

Puna gehaṃ na kāhasi.

Sabbā te phāsukā bhaggā,       

Gahakūtaṃ visaṅkhataṃ.

Visaṅkhāraṃ gataṃ cittaṃ,

Taṇhānaṃ khayamajjhagā”.(8)  

153- Này người thợ “tham ái” xây nhà “thân”,

Như Lai cố tìm ngươi mà chưa gặp,

Nên tử sinh luân hồi vô số kiếp,

Tái sinh mãi trong tam giới là khổ.

154-  Này “tham ái”, người thợ xây nhà “thân”!

Bây giờ Như Lai đã gặp ngươi rồi!

Tất cả sườn nhà, “phiền não”(9) của ngươi,

Như Lai đã hủy hoại sạch cả rồi,

Đỉnh nhà “vô minh”, cũng bị tiêu diệt,

Ngươi không còn xây nhà Như Lai nữa,

Tâm Như Lai đã chứng ngộ Niết Bàn,

Diệt đoạn tuyệt tất cả mọi “tham ái”(10),

Như Lai đã chứng đắc A-ra-hán.

Hai bài kệ cảm ứng tự thuyết ở trong tâm, đó là Phật ngôn đầu tiên của Đức Phật  (Paṭhama-buddhavacana).

Đức Phật Chánh Đẳng Giác là kết quả của sự chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế theo Tam Tuệ Luân, như trong bài kinh Chuyển Pháp Luân Đức Thế Tôn đã khẳng định, truyền dạy rằng:

                Này chư Tỳ khưu, khi nào trí tuệ thiền tuệ đã thấy rõ, biết rõ đúng thực tánh của Tứ Thánh Đế theo Tam Tuệ Luân, thành 12 loại trí tuệ trong sáng thanh tịnh, đã phát sinh đến với Như Lai.

 Này chư Tỳ khưu, khi ấy, Như Lai khẳng định, truyền dạy rằng: Như Lai đã chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác Vô Thượng trong toàn thế giới chúng sinh: Nhân loại, Vua chúa, Sa-môn, Bà-la-môn, Chư thiên, Ma Vương và Phạm thiên cả thảy”.

Đức Thế Tôn xuất hiện trên thế gian để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài cho tất cả chúng sinh. Như Ngài đã dạy:

Này chư Tỳ khưu, Bậc cao thượng độc nhất xuất hiện trên thế gian, để đem lại sự tiến hóa cho nhiều chúng sinh, để đem lại sự an lạc cho nhiều chúng sinh, để tế độ thế gian, để có sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc cho chư thiên, chư phạm thiên và nhân loại.

Bậc cao thượng độc nhất ấy là ai?

Bậc cao thượng độc nhất ấy chính là Như Lai, Đức A-ra-hán, Đức Chánh Đẳng Giác.

Này chư Tỳ khưu, Như Lai là Bậc cao thượng độc nhất xuất hiện trên thế gian, để đem lại sự tiến hóa cho nhiều chúng sinh, để đem lại sự an lạc cho nhiều chúng sinh, để tế độ thế gian, để có sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc cho chư thiên, chư phạm thiên và nhân loại(11).



1 Công chúa Yasodhara là hậu thân của nữ Bà-la-môn Sumittā từ thời Đức Phật Dīpaṅkara, cô dâng cho vị Đạo sĩ Sumedha 5 đóa hoa sen và phát nguyện cho đến kiếp chót.

2 Tìm hiểu rộng trong Nền Tảng Phật Giáo quyển I Tam Bảo cùng một soạn giả (trang 111-115).

3 Tóm lược theo bài kinh Mahāsupinasutta trong Aṅg. Pañcakanipāta.

4 Đối với Đức Phật Độc Giác, bậc Thánh Thanh Văn Giác thì Túc mạng minh có giới hạn.

5 Tiền khiên tật: Những tật xấu còn dư sót lại từ những kiếp trước.

6 Bộ Paṭisambhidāmagga phần Ñāṇakathā.

7 Dưới cội cây nào mỗi Đức Bồ Tát chứng đắc thành Bậc Chánh Đẳng Giác, cây ấy đều được gọi là Bodhirukkha. Mỗi Đức Phật có mỗi cây Bồ Đề khác nhau.  

8 Dhammapadagàthà số 153, 154.

9 Phiền não có tất cả 1.500 loại.

10 Tham ái có tất cả 108 loại.

11 Aṅguttaranikāya, phần Ekanipāta, Ekapuggalavagga.

Tiếp theo


[Ðầu trang][Trở về trang Mục Lục][Trở về trang Thư Viện]