Trung Tâm Hộ Tông  Trang Chủ



Tìm Hiểu

Phước Bố Thí

Soạn giả: Tỳ khưu Hộ Pháp


BỐ THÍ VÀ HỒI HƯỚNG

Thí chủ làm phước thiện bố thí xong, thường hồi hướng phần phước thiện bố thí ấy đến người thân yêu đã quá vãng nào đó.

Ví dụ:

"Con xin hồi hướng phần phước thiện bố thí thanh cao này đến cho cha con là Nguyễn Văn A. Cầu mong cha con hoan hỉ phần phước thiện thanh cao này, được thoát khỏi cảnh khổ, được an lạc lâu dài...".

Như vậy, thử hỏi ông "A" có thọ hưởng phần phước thiện, mà người con hồi hướng đến cho ông được hay không?

Ðể trả lời câu hỏi này, trước hết nên tìm hiểu 3 vấn đề:

1- Dānakusala: phước thiện phát sanh do bố thí: thí chủ sử dụng của cải của mình đem bố thí đến cho người khác, để tạo được phước thiện bố thí của mình.

2- Pattidānakusala: phước thiện phát sanh do hồi hướng: sau khi thí chủ đã tạo được phước thiện bố thí xong rồi, đem phần phước thiện ấy xin hồi hướng đến người đã quá vãng nào đó (ví như ông, bà, cha, mẹ,v.v...).

3- Pattānumodanākusala: phước thiện phát sanh do hoan hỉ phần phước thiện mà người thí chủ hồi hướng: những chúng sinh hay biết, hoan hỉ phần phước thiện của thân quyến hồi hướng đến họ.

Trường hợp ông A không phải là bậc Thánh A-ra-hán [*], nên còn phiền não, tham ái vẫn còn tái sanh kiếp sau như thế nào, hoàn toàn tùy theo thiện nghiệp hoặc ác nghiệp của ông A cho quả tái sanh. Như vậy, ông A có thọ hưởng được phần phước thiện bố thí của thân quyến hồi hướng đến cho ông hay không?

[*] Theo Phật giáo, bậc Thánh A-ra-hán khi tịch diệt Niết Bàn rồi, chắc chắn không còn tái sanh kiếp nào nữa.

Muốn biết vấn đề phước thiện bố thíhồi hướng phần phước thiện đến cho người quá vãng, họ có thọ hưởng được hay không? Chúng ta cùng tìm hiểu bài kinh "Jāṇusasoṇīsutta" [Aṅguttaranikāya, phần Dasakanipāta, kinh Jānusasoṇīsutta]. Trong bài kinh này, có đoạn ông Bà la môn Jāṇusasoṇī đến hầu đảnh lễ Ðức Thế Tôn, bèn bạch rằng:

- Kính bạch Ðức Sa môn Gotama, chúng con là Bà la môn thường bố thí rồi hồi hướng đến những người quá vãng rằng: "phần phước thiện bố thí này, cầu mong cho được thành tựu đến thân quyến đã quá vãng, mong thân quyến quá vãng ấy hoan hỉ thọ hưởng phần phước thiện bố thí này".

Kính bạch Ðức Sa môn Gotama, phần phước thiện bố thí này, có thể thành tựu đến thân quyến đã quá vãng của chúng con được hay không?

Thân quyến đã quá vãng của chúng con có hoan hỉ thọ hưởng phần phước thiện bố thí của chúng con được hay không? Bạch Ngài.

Ðức Phật giải đáp rằng:

- Này Bà la môn, phần phước thiện bố thí được thành tựu tùy theo loại chúng sinh này; không được thành tựu tùy theo loại chúng sinh khác.

Kính bạch Ðức Sa môn Gotama, loại chúng sinh nào được thành tựu? Loại chúng sinh nào không thành tựu? Bạch Ngài.

Này Bà la môn, có số người trong đời này, là người không có giới, thường sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời đâm thọc chia rẽ, nói lời thô tục, nói lời vô ích, có tánh tham lam của người khác, có tánh thù hận, có tà kiến; người ấy sau khi chết, do ác nghiệp cho quả tái sanh làm chúng sinh trong cõi địa ngục, chúng sinh trong cõi địa ngục sống tồn tại bằng vật thực ở địa ngục.

Này Bà la môn, phần phước thiện bố thí không thành tựu đến chúng sinh ở địa ngục.

Này Bà la môn, có số người trong đời này, là người sát sanh, trộm cắp, tà dâm... có tà kiến; người ấy sau khi chết, do ác nghiệp cho quả tái sanh làm súc sanh, loài súc sanh sống tồn tại bằng vật thực riêng của mỗi loài.

Này Bà la môn, phần phước thiện bố thí không thành tựu đến loài súc sanh.

Này Bà la môn, có số người trong đời này là người có giới, tránh xa sự sát sanh, tránh xa sự trộm cắp, tránh xa sự tà dâm, tránh xa sự nói dối, tránh xa sự nói lời đâm thọc, tránh xa sự nói lời thô tục, tránh xa sự nói lời vô ích, tâm không tham lam của người khác, tâm không thù hận, có chánh kiến; người ấy sau khi chết, do thiện nghiệp cho quả tái sanh trở lại làm người, con người sống tồn tại bằng vật thực của cõi người.

Này Bà la môn, phần phước thiện bố thí không thành tựu đến chúng sinh tái sanh trở lại làm người.

Này Bà la môn, có số người trong đời này là người có giới, tránh xa sự sát sanh, tránh xa sự trộm cắp..., có chánh kiến; người ấy sau khi chết, do thiện nghiệp cho quả tái sanh làm chư thiên, chư thiên trong cõi trời, sống tồn tại bằng vật thực trong cõi trời.

Này Bà la môn, phần phước thiện bố thí cũng không thành tựu đến chư thiên trong cõi trời.

Này Bà la môn, có số người trong đời này, là người không có giới, thường sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời đâm thọc chia rẽ, nói lời thô tục, nói lời vô ích, có tánh tham lam, có tánh thù hận, có tà kiến; người này sau khi chết, do ác nghiệp cho quả tái sanh làm loài ngạ quỷ, ngạ quỷ sống tồn tại bằng vật thực của hàng ngạ quỷ. Hàng ngạ quỷ này thường trông ngóng thân quyến trong cõi người hồi hướng phước thiện đến cho họ, khi họ hay biết hoan hỉ phần phước thiện ấy, họ thọ hưởng được, chắc chắn họ thoát khỏi cảnh khổ, tái sanh cõi thiện giới hưởng được mọi sự an lạc.

Này Bà la môn, phần phước thiện bố thí chỉ có thể thành tựu đến cho loài ngạ quỷ mà thôi.

Khi lắng nghe Ðức Phật giải đáp như vậy, ông Bà la môn bạch tiếp rằng:

Kính bạch Sa môn Gotama, nếu thân quyến đã quá vãng ấy không thọ hưởng được phần phước thiện bố thí hồi hướng ấy, vậy ai thọ hưởng phần phước thiện ấy? Bạch Ngài.

Này Bà la môn, hàng ngạ quỷ thân quyến khác của thí chủ, thọ hưởng được phần phước thiện hồi hướng ấy.

Kính bạch Sa môn Gotama, nếu thân quyến đã quá vãng không có trong hàng ngạ quỷ, thì ai là người thọ hưởng phần phước thiện hồi hướng ấy? Bạch Ngài.

Này Bà la môn, trong vòng tử sanh luân hồi trải qua vô số kiếp của mỗi chúng sinh trong quá khứ, không có người thân quyến tái sanh làm ngạ quỷ, đó là điều không thể có được, (chắc chắn có thân quyến sanh làm ngạ quỷ).

Ðiều chắc chắn thí chủ là người được phần phước thiện bố thí ấy và thọ hưởng quả báu của phước thiện bố thí ấy.

Kính bạch Sa môn Gotama, Ngài có hạn chế những chúng sinh không thọ hưởng được phước thiện bố thí hay không?

Này Bà la môn, Như Lai có hạn chế chúng sinh.

Này Bà la môn có số người trong đời này, là người không có giới, thường sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời đâm thọc chia rẽ, nói lời thô tục, nói lời vô ích, có tánh tham lam, có tánh thù hận, có tà kiến; nhưng người ấy thường bố thí cơm, nước, vải, xe cộ, hoa quả, vật thơm, vật thoa, chỗ nằm, chỗ ở, đèn đến Sa môn, Bà la môn; người ấy sau khi chết, do ác nghiệp cho quả dầu tái sanh làm con voi; trong kiếp voi ấy, được nuôi nấng chăm sóc chu đáo, có đầy đủ vật thực, nước uống ngon lành, có chỗ ở sạch sẽ, đồ trang sức đẹp đẽ... do quả của phước thiện bố thí trong kiếp trước.

Này Bà la môn, có số người trong đời này là người không có giới, thường sát sanh, trộm cắp... có tà kiến, nhưng người ấy thường bố thí cơm, nước, vải, xe cộ, hoa quả, vật thơm, vật thoa, chỗ nằm, chỗ ở, đèn đến Sa môn, Bà la môn; người ấy sau khi chết, do ác nghiệp cho quả dầu tái sanh làm chó; trong kiếp chó ấy, được nuôi nấng làm chu đáo, có đầy đủ vật thực, nước uống ngon lành, có chỗ ở sạch sẽ, đồ trang sức đẹp đẽ... do quả của phước thiện bố thí trong kiếp trước.

(Tái sanh làm con ngựa, con bò.... v.v...).

Này Bà la môn, có số người trong đời này là người có giới, tránh xa sự sát sanh, tránh xa sự trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời đâm thọc chia rẽ, nói lời thô tục, nói lời vô ích, có tánh tham lam, có tánh thù hận, có chánh kiến; người ấy thường bố thí cơm, nước, vải, xe cộ, hoa quả, vật thơm, vật thoa, chỗ nằm, chỗ ở, đèn đến Sa môn, Bà la môn. Người ấy sau khi chết, do thiện nghiệp cho quả tái sanh trở lại làm người; trong kiếp người, là người giàu sang, phú quý, có chức cao, quyền lớn, sung túc đầy đủ ngũ trần trong đời, phát sanh do quả báu của phước thiện bố thí trong kiếp quá khứ.

Này Bà la môn, có số người trong đời này, là người có giới, tránh xa sự sát sanh, tránh xa sự trộm cắp... có chánh kiến; người ấy thường bố thí cơm, nước, vải, xe cộ, hoa quả, vật thơm, vật thoa, chỗ nằm, chỗ ở, đèn đến Sa môn, Bà la môn. Người ấy sau khi chết, do thiện nghiệp cho quả tái sanh làm chư thiên; trong kiếp chư thiên trong cõi trời, là chư thiên có nhiều oai lực, hưởng mọi sự an lạc cao quý trong cõi trời ấy, do phước thiện bố thí, đã tạo trong kiếp quá khứ.

Này Bà la môn, chính thí chủ là người có phước thiện bố thí và hưởng quả báu của phước thiện bố thí ấy.

Kính bạch Sa môn Gotama, thật phi thường! Chưa từng nghe bao giờ!

Kính bạch Sa môn Gotama, như vậy, thật ra nên bố thí bằng đức tin trong sạch, phước thiện bố thí không chỉ có quả báu cho chính mình, mà còn hồi hướng đến người khác, khi biết hoan hỉ họ cũng thọ hưởng được quả báu của phước thiện này nữa.

Kính bạch Sa môn Gotama, lời dạy của Ngài rõ ràng quá!......".

Qua bài kinh này, chúng ta hiểu được rằng: thí chủ làm phước thiện bố thí rồi hồi hướng riêng đến thân quyến đã quá vãng nói riêng, có ý chỉ định đến một chúng sinh nào đó, thì điều ấy không chắc chắn, bởi vì, chúng sinh ấy có hay biết được thân quyến hồi hướng phần phước thiện bố thí đến cho mình hay không?

Nếu chúng sinh ấy biết được mà hoan hỉ thì thọ hưởng được phần phước thiện ấy.

Nếu chúng sinh ấy không hay biết, không hoan hỉ, thì không thọ hưởng được phần phước thiện ấy.

Còn thí chủ làm phước thiện bố thí rồi, xin hồi hướng chung đến những thân quyến đã quá vãng nói chung, không có ý định chỉ định đến chúng sinh nào, điều ấy chắc chắn thân quyến của thí chủ thọ hưởng được phần phước thiện bố thí ấy. Bởi vì, trong vòng tử sanh luân hồi vô số kiếp của mỗi chúng sinh, chắc chắn có thân quyến tái sanh trong hàng ngạ quỷ. Nếu họ hoan hỉ thọ hưởng được phần phước thiện của thí chủ hồi hướng, thì họ thoát khỏi cảnh khổ, được tái sanh cõi thiện giới an lành, hưởng được mọi sự an lạc.

Ngoài ra, các chúng sinh khác không hay biết, không hoan hỉ phần phước thiện bố thí của thí chủ hồi hướng, thì không thọ hưởng được phần phước thiện bố thí ấy.

Tích thân quyến ngạ quỷ của đức vua Bimbisāra

Những thân quyến của đức vua Bimbisāra từ thời kỳ Ðức Phật Phussa, cách Ðức Phật Gotama trải qua 6 Ðức Phật xuất hiện trên thế gian, thời gian khoảng cách 92 đại kiếp trái đất. Họ đã tạo nghiệp ác, nên cho quả bị tái sanh làm chúng sinh trong cõi địa ngục, từ địa ngục này sang địa ngục khác, mãi cho đến thời kỳ Ðức Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian, họ mới thoát khỏi địa ngục, tái sanh làm ngạ quỷ.

Một hôm, nhóm ngạ quỷ này đến hầu Ðức Phật Kassapa, bèn bạch rằng:

Kính bạch Ðức Thế Tôn, đến bao giờ, mới có thân quyến hồi hướng phước thiện bố thí đến nhóm ngạ quỷ chúng con, để chúng con thoát khỏi cảnh khổ, được hưởng sự an lạc? Bạch Ngài.

Ðức Phật Kassapa dạy rằng:

Này các ngạ quỷ, bây giờ các con chưa được gì đâu! Các con hãy chờ trong vị lai đến thời kỳ Ðức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, thuở ấy có Ðức Vua gọi là Bimbisāra đã từng là thân quyến của các con, trước đây cách 92 đại kiếp trái đất. Ðức vua Bimbisāra làm phước cúng dường đến Ðức Phật Gotama cùng chư Ðại Ðức Tăng, rồi hồi hướng phước thiện bố thí ấy đến cho các con.

Nhóm ngạ quỷ nghe lời thọ ký của Ðức Phật Kassapa [Ðức Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian vào thời đại tuổi thọ con người khoảng 20.000 năm], tâm cảm thấy vô cùng hoan hỉ trông ngóng như sắp được hoan hỉ phần phước thiện vào ngày mai.

Thời kỳ Ðức Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian, tuổi thọ con người khoảng 20.000 năm, khi Ðức Phật Kassapa tịch diệt Niết Bàn và giáo pháp của Ngài cũng hoàn toàn tiêu hoại; con người làm cho mọi ác pháp dần dần tăng trưởng, còn thiện pháp từ từ suy thoái; cho nên, tuổi thọ con người giảm dần, giảm dần từ 20.000 năm xuống còn khoảng 10 năm. Từ đó, con người kinh sợ tội lỗi, tránh xa ác pháp; cố gắng tạo thiện pháp; mọi thiện pháp dần dần tăng trưởng, còn ác pháp từ từ suy thoái; cho nên, tuổi thọ con người tăng dần, tăng dần từ 10 năm lên đến tột cùng a tăng kỳ năm (A tăng kỳ (asaṅkheyya): được tính theo số lượng là số 1 đứng đầu, theo sau là 140 con số không, 10140). Từ đó, con người bắt đầu dể duôi, ác pháp phát sanh, làm cho tuổi thọ con người lại giảm dần, giảm dần cho đến khi tuổi thọ khoảng 100 năm. Khi ấy, Ðức Phật Gotama hiện tại của chúng ta xuất hiện trên thế gian, tại xứ Māgadha có đức vua Bimbisāra trị vì, đóng đô tại kinh thành Rājagaha.

Ðức vua Bimbisāra có đức tin trong sạch nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng, Tam bảo, xây dựng ngôi chùa Veḷuvana dâng đến chư Ðại Ðức Tăng tứ phương có Ðức Phật chủ trì chứng minh, nhóm ngạ quỷ thân quyến đang trông chờ Ðức Vua hồi hướng phần phước thiện đến cho họ; nhưng trong dịp ấy, Ðức Vua không hồi hướng phước thiện bố thí đến cho chúng. Nhóm ngạ quỷ thân quyến thất vọng đêm khuya đến kêu la than khóc âm thanh đáng kinh sợ.

Sáng ngày, Ðức Vua đến hầu Ðức Phật, bạch hỏi do nhân nào có hiện tượng như vậy.

Ðức Phật dạy:

- Này Ðại Vương, không có gì đáng kinh sợ, đó là tiếng kêu la than khóc của nhóm ngạ quỷ thân quyến của Ðại Vương trong quá khứ. Nhóm ngạ quỷ này trông ngóng Ðại Vương làm phước thiện bố thí, rồi hồi hướng phần phước thiện cho chúng, để chúng thoát khỏi cảnh khổ, được tái sanh nơi cảnh giới an lạc.

Lắng nghe Ðức Phật dạy như vậy, Ðức Vua liền bạch:

- Kính bạch Ðức Thế Tôn, ngày mai con kính thỉnh Ðức Thế Tôn cùng chư Ðại Ðức Tăng ngự đến cung điện của con, để con làm phước thiện bố thí một lần nữa, lần này con sẽ hồi hướng phước thiện đến nhóm ngạ quỷ thân quyến của con. Ðức Phật làm thinh nhận lời thỉnh mời của Ðức Vua.

Ðức Vua Bimbisāra đảnh lễ Ðức Thế Tôn trở về cung điện, sửa soạn vật thực làm phước thiện bố thí cho ngày mai.

Sáng hôm sau, Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng ngự đến cung điện của Ðức Vua. Chính tự tay Ðức Vua cúng dường vật thực đến Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng xong, Ðức Phật thuyết bài kinh "Tirokuṇṇapetavtthu" [Khuddakanikāya, bộ Petavatthu, Tirokuṇṇapetavtthu] tế độ nhóm ngạ quỷ, đồng thời đức vua Bimbisāra hồi hướng phần phước thiện bố thí ấy đến nhóm ngạ quỷ thân quyến, chúng hoan hỉ thọ hưởng phần phước thiện cấy, nên tất cả đều thoát khỏi kiếp ngạ quỷ đói khát, ngay khi ấy, do nhờ năng lực phước thiện cho quả, được tái sanh làm chư thiên hưởng mọi sự an lạc cõi trời dục giới.

Chúng ta được sanh làm người, có cơ hội làm phước thiện bố thí, còn các chúng sinh khác khó có cơ hội bố thí. Cho nên, chúng ta nên tìm cơ hội tốt để làm phước thiện bố thí, rồi hồi hướng phần phước thiện ấy đến cho thân quyến của chúng ta chịu đói khát, khổ cực trong hàng ngạ quỷ; họ lúc nào cũng trông ngóng đến sự hồi hướng phước thiện của thân quyến. Khi họ hay biết, hoan hỉ phần phước thiện mà chúng ta hồi hướng đến cho họ, chắc chắn họ thoát ra khỏi kiếp ngạ quỷ đói khát, do nhờ phước thiện ấy cho quả được tái sanh cõi thiện giới: cõi trời, cõi người.

Cho nên, khi thí chủ tạo được phước thiện nào xong rồi, nên đọc câu hồi hướng rằng:

"Idaṃ no ñātīnaṃ hotu,
Sukhitā hontu ñātayo...".

[Khuddakanikāya, bộ Petavatthu, Tirokuṇṇapetavtthu]

"Cầu mong phước thiện này,
Thành tựu đến tất cả,
Thân quyến của chúng tôi.
Cầu mong họ hoan hỉ,
Ðược an lạc lâu dài".

Như vậy, thân quyến ngạ quỷ đang đứng trông chờ hoan hỉ phần phước thiện mà thân quyến đã hồi hướng, ngay khi ấy, do năng lực phước thiện cho quả, họ được thoát khỏi kiếp sống ngạ quỷ đói khát, được chuyển kiếp tái sanh làm chư thiên, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời.

Lời Hồi Hướng

Tất cả chúng sinh trong ba giới bốn loài, chỉ có loài người trong cõi Nam thiện bộ châu này có được thuận lợi tạo mọi phước thiện, nhất là phước thiện bố thí. Ngoài ra, các chúng sinh còn lại và các cõi khác, khó có cơ hội tạo phước thiện bố thí. Chư thiên muốn tạo phước thiện bố thí cần phải hiện xuống cõi người, biến hóa thành con người mới có thể tạo phước thiện bố thí.

Như vậy, chúng ta đã là con người trong cõi Nam thiện bộ châu này, có điều kiện và cơ hội tạo nên được phước thiện bố thí, thì chúng ta nên có tâm từ, tâm bi quan tâm đến những chúng sinh khác, họ không phải ai xa lạ, họ chính là những người thân bằng quyến thuộc của chúng ta từ nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ và kiếp hiện tại.

Ðức Phật dạy:

"Không thấy một chúng sinh nào không từng là thầy, tổ, ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, em, chú, bác, cô, dì, bà con thân bằng quyến thuộc... của chúng ta".

Như vậy, tất cả chúng sinh đều là những người thân quyến của chúng ta gần kiếp này, hoặc xa trong những kiếp quá khứ. Nay chúng ta có điều kiện, có cơ hội tạo nên phước thiện bố thí, thì ta nên hồi hướng, ban bố, phân phát... phần phước thiện bố thí này đến cho tất cả chúng sinh, thân bằng quyến thuộc của chúng ta. Có số chúng sinh đang sống trong cảnh khổ, đang khao khát, trông ngóng, chờ đợi phần phước thiện của thân quyến hồi hướng, nếu họ hay biết mà hoan hỉ phần phước thiện ấy, ngay tức khắc, họ thoát khỏi cảnh khổ, được tái sanh lên cõi thiện giới, hưởng mọi sự an lạc trong cõi ấy.

Muốn vậy, chúng ta cần phải thành tâm hồi hướng và có lời hồi hướng như sau:

Ðọc câu Pāḷi: "Idaṃ no ñātīnaṃ hotu, Sukhitā hontu ñātayo..."

Hoặc bằng tiếng Việt:

Hôm nay, chúng tôi đã tạo mọi phước thiện như bố thí, thọ trì Tam quy, giữ giới, nghe pháp, hành thiền.... Chúng tôi thành tâm hồi hướng phần phước thiện này đến tất cả chư thiên, nhất là chư thiên hộ trì mỗi người chúng tôi, chư thiên ở tại nơi đây, chư thiên ở trong nhà, chư thiên ở trong tỉnh, thành, chư thiên ở trong nước, chư thiên ở ngoài nước và toàn thế giới, chư thiên ở trên mặt đất, chư thiên ở cội cây, chư thiên ở trên hư không;

Tứ Ðại Thiên Vương: đức vua Dhataraṭṭha, đức vua Viruḷhaka, đức vua Virūpakkha, đức vua Kuvera cùng tất cả chư thiên trong cõi Tứ đại thiên vương thiên.

Ðức vua trời Sakka cùng tất cả chư thiên trong cõi Tam thập tam thiên.

Ðức vua trời Suyāma cùng tất cả chư thiên trong cõi Dạ ma thiên.

Ðức vua trời Santussita cùng tất cả chư thiên trong cõi Ðâu xuất đà thiên.

Ðức vua trời Sunimmita cùng tất cả chư thiên trong cõi Hoá lạc thiên.

Ðức vua trời Paranimmita cùng tất cả chư thiên trong cõi Tha hóa tự tại thiên. v.v....

Xin quý vị chư thiên hoan hỉ thọ hưởng phần phước thiện thanh cao này của chúng tôi đồng nhau cả thảy, làm cho tăng thêm sự an lạc lâu dài. – Sàdhu! Sàdhu! Lành thay! Lành thay!

Chúng tôi thành tâm hồi hướng đến những ân nhân đã quá vãng như tổ tiên, thầy tổ, ông bà, cha mẹ, thân bằng quyến thuộc, bè bạn... từ kiếp hiện tại cho đến vô lượng kiếp trong quá khứ, nhất là ... [tên người vừa quá vãng hoặc người đang nhớ đến trong ngày làm phước thiện này ...] đã quá vãng. Xin quý vị hoan hỉ thọ hưởng phần phước thiện thanh cao này của chúng tôi đồng nhau cả thảy. Cầu mong quý vị giải thoát mọi cảnh khổ, được an lạc lâu dài. – Sàdhu! Sàdhu! Lành thay! Lành thay!

Chúng tôi thành tâm chia phần phước thiện thanh cao này đến những ân nhân còn sống như: ông bà, cha mẹ, thầy tổ, anh chị em, con cháu, bà con thân bằng quyến thuộc, bè bạn.... Mong quý vị hoan hỉ thọ hưởng phần phước thiện thanh cao này của chúng tôi đồng nhau cả thảy, cầu mong quý vị thân tâm thường được an lạc, tiến hóa trong mọi thiện pháp. – Sàdhu! Sàdhu! Lành thay! Lành thay!

Chúng tôi thành tâm hồi hướng phần phước thiện thanh cao này đến chúng sinh trong địa ngục, các hàng atula, các hàng ngạ quỷ, các loại súc sanh, đặc biệt đến chúa địa ngục Yāma. Mong quý vị hoan hỉ, thọ hưởng phần phước thiện thanh cao này của chúng tôi đồng nhau cả thảy, cầu mong quý vị thoát khỏi cảnh khổ, được tái sanh nơi cõi thiện giới cho được an lạc. – Sàdhu! Sàdhu! Lành thay! Lành thay!

Nói chung, chúng tôi thành tâm hồi hướng đến tất cả 4 loài chúng sinh, trong tam giới gồm có 31 cõi. Cầu mong tất cả chúng sinh hoan hỉ thọ hưởng phần phước thiện thanh cao này của chúng tôi đồng nhau cả thảy, cầu mong tất cả chúng sinh giải thoát mọi cảnh khổ, được an lạc lâu dài, tiến hóa trong mọi thiện pháp làm duyên lành trên con đường giải thoát khỏi khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài. – Sàdhu! Sàdhu! Lành thay! Lành thay!

Bố Thí – Hồi Hướng

Phước thiện bố thí và hồi hướng phần phước thiện bố thí ấy là một việc rất cần thiết đối với hàng ngạ quỷ. Kiếp ngạ quỷ chịu bao nhiêu nỗi khổ vì đói khát, lạnh lẽo. Họ chỉ còn biết trông ngóng, chờ đợi phước thiện mà thân bằng quyến thuộc hồi hướng đến cho họ mà thôi. Nếu họ không được hoan hỉ phần phước thiện nào của thân bằng quyến thuộc hồi hướng, thì họ phải chịu kiếp sống ngạ quỷ đói khát, khổ cực, không biết bao giờ mới thoát khỏi kiếp ngạ quỷ.

Như tích Sāriputtattheramātupeta [Khuddakanikāya, Petavatthu, truyện Sāriputtattheramātupeta]: Ngạ quỷ thân mẫu của Ngài Ðại Ðức Sāriputta, được tóm lược như sau:

Nữ ngạ quỷ tiền thân đã từng là thân mẫu của Ngài Ðại Ðức Sāriputta kiếp thứ 5 trong quá khứ, kể từ kiếp hiện tại.

Tiền thân của nữ ngạ quỷ là vợ của ông Bà la môn giàu có nhiều của cải. Ông Bà la môn có đức tin trong sạch, có tác ý thiện tâm, thường làm phước thiện bố thí cúng dường vật thực, đồ uống, y phục... đến Sa môn, Bà la môn. Bố thí ban bố, phân phát đến những người nghèo khổ, người qua đường....

Một hôm, ông Bà la môn có công việc phải đi nơi khác, ông dạy bảo vợ ở nhà thay ông gìn giữ phong tục tập quán, lo công việc làm phước thiện bố thí cúng dường đến Sa môn, Bà la môn, phân phát vật thực, đồ dùng đến những người nghèo khổ đói khát.... Người vợ ở nhà không làm theo sự dạy bảo của chồng. Hễ có ai đến nương nhờ, bà ta buông lời mắng nhiếc, ăn phẩn, uống nước tiểu, liếm máu mủ, nước miếng....

Sau khi bà ta chết, do ác nghiệp ấy cho quả tái sanh vào hàng ngạ quỷ đói khát, ăn đồ dơ bẩn, ăn phẩn, uống nước tiểu, mủ, nước miếng... chịu bao nỗi khổ cực đói khát, lạnh lẽo do ác nghiệp của mình đã tạo. Nữ ngạ quỷ nhớ lại tiền kiếp đã từng là thân mẫu của Ngài Ðại Ðức Sāriputta, muốn đến nương nhờ Ngài, chư thiên giữ cổng ngăn cản không cho nữ ngạ quỷ vào. Nữ ngạ quỷ thưa với vị chư thiên rằng:

- Thưa chư thiên, tiền kiếp tôi đã từng là thân mẫu của Ngài Ðại Ðức Sāriputta, xin chư thiên cho tôi vào thăm Ngài.

Nữ ngạ quỷ được vào đứng khép nép, Ngài Ðại Ðức Sāriputta nhìn thấy nữ ngạ quỷ, với tâm bi mẫn bèn hỏi rằng:

- Này ngạ quỷ! Thân trần truồng, hình dáng đáng thương hại, ốm yếu da bọc xương, thân mình run rẩy. Ngươi là ai mà đến đứng nơi này?

Nghe Ngài hỏi, nữ ngạ quỷ thưa rằng:

- Kính bạch Ngài Ðại Ðức, tiền kiếp của con đã từng là thân mẫu của Ngài, do nghiệp ác cho quả tái sanh làm ngạ quỷ chịu cảnh đói khát, đành phải ăn những đồ dơ dáy như nước miếng, nước mũi, đàm người ta nhổ bỏ, uống nước vàng chảy từ xác chết, uống máu của đàn bà đẻ, uống máu mủ của đàn ông bị chặt tay chân, ăn máu mủ các loài động vật, sống không có nương tựa, các nơi nghĩa địa, bãi tha ma.

Kính bạch Ngài, xin Ngài làm phước thiện bố thí, rồi hồi hướng phần phước thiện ấy đến cho mẹ với. Nhờ phước thiện ấy, may ra mẹ mới thoát khỏi cảnh khổ ngạ quỷ như thế này.

Ngài Ðại Ðức Sāriputta lắng nghe lời nữ ngạ quỷ đã từng là thân mẫu trong tiền kiếp, phát sanh tâm bi mẫn, nên tìm cách cứu khổ nữ ngạ quỷ, Ngài bàn tính với Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna, Ngài Ðại Ðức Anuruddha và Ngài Ðại Ðức Mahākappina. Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna đi khất thực vào cung điện gặp đức vua Bimbisāra, Ðức vua thỉnh mời yêu cầu Ngài cần thứ vật dụng nào để Ðức vua dâng cúng. Nhân dịp ấy, Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna thưa cho Ðức Vua biết chuyện nữ ngạ quỷ đã từng là thân mẫu của Ngài Ðại Ðức Sāriputta sống trong cảnh khổ không có nơi nương nhờ.

Nghe vậy, Ðức Vua truyền lệnh xây cất 4 cái cốc, chỗ ở của chư Tỳ khưu Tăng. Khi xây cất xong, Ðức Vua làm lễ dâng đặc biệt đến Ngài Ðại Ðức Sāriputta 4 cái cốc ấy.

Một lần nữa, Ngài Ðại Ðức Sāriputta làm lễ dâng những cốc này đến chư Tỳ khưu Tăng từ bốn phương, có Ðức Phật chủ trì, xin hồi hướng phần phước thiện này đến cho nữ ngạ quỷ đã từng là thân mẫu trong tiền kiếp. Nữ ngạ quỷ hoan hỉ phần phước thiện bố thí mà Ngài Ðại Ðức Sāriputta hồi hướng. Ngay sau khi hoan hỉ phần phước thiện bố thí ấy, liền thoát khỏi kiếp ngạ quỷ, tái sanh lên làm thiên nữ có hào quang sáng ngời, có thân hình xinh đẹp, y phục lộng lẫy, có lâu đài nguy nga tráng lệ, có đầy đủ của cải của chư thiên, hưởng sự an lạc cao quý trong cõi trời.

Hôm sau, vị thiên nữ ấy hiện xuống đảnh lễ Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna, Ngài hỏi thiên nữ rằng:

- Này thiên nữ, ngươi có sắc đẹp tuyệt trần, có hào quang sáng chói khắp mọi nơi, như vầng trăng sáng.

- Do phước thiện gì mà ngươi có được như vậy?
- Do phước thiện gì mà ngươi được sanh trong lâu đài nguy nga tráng lệ như thế ấy?
- Do phước thiện gì mà ngươi có đầy đủ mọi thứ trong cõi trời đáng hài lòng như vậy?

Này thiên nữ, ngươi có nhiều oai lực đặc biệt, vậy, khi sống cõi người, ngươi tạo phước thiện gì, mà nay có được những quả báu đáng hài lòng như vậy?

Vị thiên nữ bạch với Ngài Ðại Ðức Mahā-moggallāna rằng:

- Kính bạch Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna, con là thân mẫu của Ngài Ðại Ðức Sāriputta trong tiền kiếp, do ác nghiệp cho quả tái sanh làm nữ ngạ quỷ chịu cảnh khổ đói khát đành phải ăn đồ dơ dáy như máu, mủ.... Vừa qua, con đã đến hầu Ngài Ðại Ðức Sāriputta cầu xin Ngài có lòng bi mẫn cứu khổ con, Ngài đã làm phước thiện bố thí xong hồi hướng đến cho con; con đã hoan hỉ phần phước thiện ấy, nên con thoát khỏi kiếp ngạ quỷ, được tái sanh làm thiên nữ có được tất cả như Ngài đã thấy.

Kính bạch Ngài Ðại Ðức, con hiện xuống đây để đảnh lễ dưới chân Ngài và Ngài Ðại Ðức Sāriputta là bậc Thánh thiện trí, có tâm bi mẫn cứu khổ chúng sinh trong đời.

Những câu truyện như trên có rất nhiều trong bộ Peṭavaṭṭhu và trong Kinh tạng.

BỐ THÍ - PHÁT NGUYỆN

Ở đời, người ta có nhiều tiền bạc, người ta có thể mua sắm các đồ dùng mà người ta muốn. Cũng như vậy, khi người ta tạo nên phước thiện rồi, người ta có thể phát nguyện theo nguyện vọng của mình. Sự thành tựu theo nguyện vọng của mình còn tùy theo năng lực của phước thiện và thời gian sớm hoặc muộn, cũng sẽ thành tựu như ý nguyện.

Nguyện vọng của mỗi người có phần khác nhau, cho nên khi tạo nên phước thiện cũng khác nhau. Có hai loại phước thiện:

- Phước thiện dẫn dắt trong vòng tử sanh luân hồi trong tam giới (vaṭṭagāmikusala).
-
Phước thiện làm duyên lành để giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong tam giới (vivaṭṭupanissitakusala).

Phước thiện dẫn dắt trong vòng tử sanh luân hồi trong tam giới như thế nào?

Một số người có tâm tham muốn ở trong đời, tạo nên phước thiện như bố thí, giữ giới, hành thiền định,... cầu mong được rằng:

Xin cho tôi được tái sanh làm người giàu sang phú quý, có danh, có phận, có chức, có quyền; làm Ðức Vua trị vì một nước, hoặc làm Ðức Chuyển luân thánh vương trị vì bốn châu thiên hạ.

Xin cho tôi được tái sanh lên cõi trời, sẽ là chư thiên có nhiều oai lực, hoặc là Ðức Vua trong cõi trời ấy,...

Tùy theo mỗi phước thiện mà cho quả báu được thành tựu trong cõi người, cõi trời dục giới, cõi trời sắc giới và cõi trời vô sắc giới. Ðến khi hết tuổi thọ trong cõi nào rồi, do nghiệp cho quả tái sanh trở lại kiếp sau, tùy theo thiện nghiệp hoặc ác nghiệp của mình đã tạo, cứ quanh quẩn trong vòng tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Như vậy, gọi là phước thiện dẫn dắt trong vòng tử sanh luân hồi trong tam giới.

Phước thiện này không trở thành pháp hạnh ba la mật như: bố thí ba la mật, giữ giới ba la mật,... vì không phát nguyện giải thoát khổ sanh tử luân hồi trong ba giới bốn loài.

Phước thiện làm duyên lành để giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong tam giới như thế nào?

Một số bậc Thiện trí có trí tuệ sáng suốt nhận thức rõ khổ tử sanh luân hồi trong tam giới, nên khi tạo phước thiện như bố thí, giữ giới, hành thiền định, tiến hành thiền tuệ... chỉ mong làm nơi nương nhờ để giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong tam giới. Bậc Thiện trí này không cầu mong sẽ trở thành người giàu sang phú quý, quyền cao chức trọng,... trong cõi người; cũng không cầu mong sự an lạc trong cõi trời dục giới, cõi trời sắc giới và cõi trời vô sắc giới. Họ chỉ có một nguyện vọng nương nhờ phước thiện này dẫn dắt đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, là pháp diệt đoạn tuyệt phiền não trầm luân mà thôi. Phước thiện này trở thành pháp hạnh ba la mật như: bố thí ba la mật, giữ giới ba la mật,... Phước thiện này làm duyên lành để giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong tam giới.

Lời Phát Nguyện

Muốn cho phước thiện của mình làm duyên lành nương nhờ để giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong tam giới, bậc Thiện trí ấy cần phải có lời phát nguyện:

Trong Chú giải có dạy rằng:

"Idaṃ me dānaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu".

[Chú giải Saṃyuttanikāya, phần Nidānavagga, kinh Paṭipadā-suttavaṇṇanā. Chú giải Aṅguttaranikāya.]

"Cầu mong phước thiện bố thí này của tôi, làm duyên lành dẫn dắt đến sự chứng ngộ Niết Bàn, chứng đắc A-ra-hán Thánh Ðạo diệt đoạn tuyệt phiền não trầm luân".

Ðây là lời phát nguyện chung cho những người muốn giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

Phát nguyện riêng của mỗi Ðức Bồ Tát

Ðức Bồ Tát có ba bậc, mỗi bậc có sự phát nguyện khác nhau:

1- Bậc Thanh Văn Bồ Tát (Sāvakabodhisatta) phát nguyện trở thành bậc Thánh Thanh Văn đệ tử Phật, có 3 bậc:

Bậc Thánh tối thượng Thanh Văn (Aggasāvaka).
Bậc Thánh đại Thanh Văn (Mahāsāvaka).
Bậc Thánh Thanh Văn (Pakatisāvaka).

2- Bậc Ðộc Giác Bồ Tát (Paccekabodhisatta) phát nguyện trở thành Ðức Phật Ðộc Giác, có 3 bậc:

Bậc Ðộc Giác Phật có trí tuệ ưu việt (paññādhika).
Bậc Ðộc Giác Phật có đức tin ưu việt (saddhādhika).
Bậc Ðộc Giác Phật có tinh tấn ưu việt (vīriyādhika).

3- Bậc Toàn Giác Bồ Tát hoặc Bậc Chánh Ðẳng Giác Bồ Tát (Sammāsambodhisatta) phát nguyện trở thành bậc Toàn Giác Phật hoặc Bậc Chánh Ðẳng Giác Phật, có 3 bậc:

Bậc Toàn Giác có trí tuệ ưu việt (paññādhika).
Bậc Toàn Giác có đức tin ưu việt (saddhādhika).
Bậc Toàn Giác có tinh tấn ưu việt (vīriyadhika).

Tất cả các bậc Bồ Tát khi tạo 10 pháp hạnh ba la mật, phước thiện ba la mật nào dầu nhỏ hoặc lớn, dầu ít hoặc nhiều đều phát nguyện mong trở thành bậc nào theo nguyện vọng của mình.

Ví dụ:

Ðức Bồ Tát đạo sĩ Akitti, tiền thân của Ðức Phật Gotama, sống trong rừng dùng lá kāra làm vật thực hằng ngày. Ðức vua trời Sakka (Ðế Thích) nhìn thấy Ðức Bồ Tát đạo sĩ có hạnh cao thượng khó có ai thực hành được, muốn biết Ngài thực hành phạm hạnh như vậy có nguyện vọng gì. Ðức vua trời Sakka biến hóa thành Bà la môn khất sĩ hiện xuống đi khất thực trước Ðức Bồ Tát đạo sĩ. Ðức Bồ Tát đạo sĩ nhìn thấy Bà la môn khất sĩ, tâm vô cùng hoan hỉ đem tất cả nắm lá kāra được luộc chín làm phước thiện bố thí đến Bà la môn khất sĩ, còn Ðức Bồ Tát đạo sĩ chỉ uống nước để sống qua ngày ấy.

Ðức Bồ Tát đạo sĩ phát nguyện rằng:

"Tena dānena na lābhasakkarasilokaṃ, na Cakkavattisampattiṃ, na Sakkasampattiṃ, na Brahmasampattiṃ, na Sāvakabodhiṃ, na Paccekabodhiṃ patthemi. Api ca idaṃ me dānaṃ Sabbaññutañāṇassa paccayo hotu". [Bộ Cariyāpiṭakaṭṭhakathā , pháp hạnh của Ðức Bồ Tát đạo sĩ Akitti. Bộ Jātaka, truyện Akittijātaka.] 

"Do năng lực phước thiện bố thí này, bần đạo không cầu mong danh lợi, không cầu mong ngôi vị Ðức Chuyển luân thánh vương, ngôi vị vua trời Sakka, ngôi vị Phạm thiên, cũng không cầu mong trở thành bậc Thánh Thanh Văn, bậc Ðộc Giác Phật; mà sự thật, phước thiện bố thí này của tôi, chỉ mong làm duyên lành để trở thành Ðức Phật Toàn Tri Diệu Giác mà thôi".

Ðó là lời phát nguyện của của Ðức Toàn Giác Bồ Tát cầu mong trở thành Ðức Phật Toàn Giác, hoặc Bậc Chánh Ðẳng Giác Phật.

Cho nên, mỗi Ðức Bồ Tát có lời phát nguyện theo nguyện vọng riêng của mình.

Ðức Ðộc Giác Bồ Tát chỉ phát nguyện muốn trở thành Ðức Phật Ðộc Giác, ngoài ra không còn mong muốn địa vị nào khác.

Bậc tối thượng Thanh Văn Bồ Tát chỉ phát nguyện muốn trở thành bậc Thánh tối thượng Thanh Văn mà thôi, không còn mong địa vị nào khác.

Bậc đại Thanh Văn Bồ Tát chỉ phát nguyện trở thành bậc Thánh đại Thanh Văn mà thôi, không còn mong địa vị nào khác.

Bậc Thanh Văn Bồ Tát chỉ phát nguyện trở thành bậc Thánh Thanh Văn mà thôi, không còn mong địa vị nào khác.

Phước thiện nào, như giữ giới, bố thí, hành thiền định, hành thiền tuệ,... xong rồi phát nguyện cầu mong chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn, pháp diệt đoạn tuyệt phiền não trầm luân.

Ðể đạt đến nguyện vọng trở thành Ðức Phật Toàn Giác, hoặc Ðức Phật Ðộc Giác, hoặc bậc Thánh tối thượng Thanh Văn, hoặc bậc Thánh đại Thanh Văn, hoặc bậc Thánh Thanh Văn, phước thiện ấy gọi là phước thiện làm duyên lành để giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong tam giới (vivaṭṭupanissitakusala).

Tính chất ưu việt của Vivaṭṭupanissitakusala

Chủ nhân phước thiện vivaṭṭupanissitakusala này ngày nào chưa đạt đến mục đích cứu cánh cuối cùng, chứng ngộ Niết Bàn theo nguyện vọng riêng của mình, ngày ấy chủ nhân vẫn hưởng được quả báu cao quý trong cõi người, trong cõi trời dục giới, cõi trời sắc giới, cõi trời vô sắc giới.

- Do năng lực phước thiện này cho quả, nếu tái sanh làm người, thì sẽ là người giàu sang phú quý, có quyền cao chức trọng, có khi làm vua một nước lớn, có khi là Ðức Chuyển luân thánh vương trị vì bốn châu thiên hạ. Nhưng dầu ở địa vị nào, người chủ nhân của phước thiện vivaṭṭupanissitakusala này không say đắm, không dính mắc trong của cải, sự nghiệp ấy. Khi có cơ hội, sẵn sàng từ bỏ tất cả xuất gia trở thành đạo sĩ trong thời kỳ không có Ðức Phật xuất hiện trên thế gian, hoặc xuất gia trở thành Tỳ khưu trong thời kỳ Ðức Phật xuất hiện trên thế gian.

Ðó là tính chất ưu việt của phước thiện này.

- Do năng lực phước thiện này cho quả, nếu tái sanh làm chư thiên trong cõi trời dục giới, thì chủ nhân của phước thiện vivaṭṭupanissitakusala này không chịu hưởng sự an lạc trong cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ, mà nguyện từ bỏ cõi trời, liền tái sanh xuống làm người, để có cơ hội tạo nhiều pháp hạnh ba la mật, để cho mau chóng đạt đến mục đích cứu cánh Niết Bàn theo nguyện vọng của mình.

- Nếu chủ nhân ấy tái sanh làm chư thiên trong cõi trời dục giới, không bao giờ chịu hưởng sự an lạc trong cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ, mà chủ nhân chư thiên ấy nguyện chết trước tuổi thọ, xuống tái sanh làm người để có cơ hội tốt tạo được nhiều pháp hạnh ba la mật, để mau chóng chứng đạt mục đích cứu cánh cuối cùng của mình.

Ðó là tính chất ưu việt của phước thiện này.

Trong thời kỳ Ðức Phật xuất hiện trên thế gian, hoặc giáo pháp của Ngài đang lưu truyền, chủ nhân của phước thiện vivaṭṭupanissitakusala này, phát sanh đức tin trong sạch nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng, xin quy y Tam bảo trở thành người cận sự nam (hoặc cận sự nữ); hoặc từ bỏ nhà xuất gia trở thành Tỳ khưu, hành giới trong sạch đầy đủ, tiến hành thiền định chứng đắc các bậc thiền sắc giới, vô sắc giới không phải để hưởng quả an lạc của các bậc thiền ấy trong kiếp hiện tại và kiếp sau trong cõi trời phạm thiền sắc giới, vô sắc giưói; mà chỉ dùng bậc thiền ấy làm nền tảng tiến hành thiền tuệ, để chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn tuỳ theo trí tuệ và ba la mật của mình.

Ðó là tính chất ưu việt của phước thiện này.

Tóm lại,

Phước thiện vaṭṭagāmikusala là con đường vòng quanh trong tam giới, không giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Phước thiện vivaṭṭupanissitakusala là con đường thẳng đến Niết Bàn giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Phát Nguyện – Thành Tựu

Bố thí và phát nguyện thường liên quan với nhau, sau khi làm phước thiện, người ta thường có lời phát nguyện, cầu mong do năng lực phước thiện ấy làm nhân duyên đưa đến sự thành tựu đúng theo nguyện vọng của mình.

Sự phát nguyện có thành tựu hay không thành tựu, thành tựu sớm hay muộn, nhanh hay chậm còn tuỳ theo thí chủ.

Nếu thí chủ là người có giới đức trong sạch, thì sự phát nguyện có thể thành tựu theo năng lực của phước thiện ấy.

Nếu thí chủ là người không có giới trong sạch, thì sự phát nguyện không thể thành tựu được; bởi vì, người không có giới hoặc giới không trong sạch, sau khi chết, do ác nghiệp cho quả tái sanh vào một trong 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh).

Tìm hiểu bài kinh Dānūppattisutta [Aṅguttaranikāya, phần Aṭṭhakanipāta, kinh Dānūppattisutta]. Trong bài kinh này Ðức Phật dạy:

Này chư Tỳ khưu, có số người trong đời này làm phước thiện bố thí như cơm, nước, vải, xe cộ, hoa quả, vật thơm, vật thoa, chỗ nằm, chỗ ở và đèn đến Sa môn, Bà la môn; người ấy bố thí rồi phát nguyện, họ nhìn thấy vua chúa có quyền, Bà la môn giàu sang phú quý, phú hộ hưởng thụ có đầy đủ ngũ trần, người ấy phát nguyện, mong ước rằng: "Sau khi chết rồi, cầu mong kiếp sau, tôi sẽ trở thành vị vua chúa có quyền thế, hoặc Bà la môn giàu sang phú quý, hoặc đại phú hộ". Người ấy phát nguyện như vậy, tâm luôn luôn mong ước như vậy, tâm của họ hướng theo con đường thấp hèn, tâm không muốn phát triển theo pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ. Người ấy sau khi chết, do phước thiện cho quả tái sanh trong dòng vua chúa, hoặc trong dòng Bà la môn giàu sang phú quý, hoặc trong gia đình đại phú hộ.

Như Lai chỉ nói sự thành tựu này đến người có giới trong sạch mà thôi, không nói đến người không có giới, hay người phá giới.

Này chư Tỳ khưu, sự phát nguyện được thành tựu đối với người có giới, bởi do thiện tâm trong sạch.

- Này chư Tỳ khưu, có số người trong đời này, làm phước thiện bố thí như: cơm, nước, vải,... và đèn đến Sa môn, Bà la môn. Người ấy bố thí rồi phát nguyện, vì họ nghe rằng: " Chư thiên cõi trời Tứ đại thiên vương có tuổi thọ sống lâu, có sắc đẹp, có sự an lạc trong cõi trời ấy". Người ấy phát nguyện, mong ước rằng: "sau khi chết rồi, cầu mong kiếp sau, tôi sẽ là chư thiên trong cõi Tứ đại thiên vương". Người ấy phát nguyện như vậy, tâm luôn luôn mong ước như vậy, tâm của họ hướng theo con đường thấp hèn, tâm không muốn phát triển theo pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ. Người ấy sau khi chết, do phước thiện cho quả tái sanh làm chư thiên cõi Tứ đại thiên vương.

Như Lai chỉ nói sự thành tựu này đến người có giới trong sạch mà thôi, không nói đến người không có giới, người phá giới.

Này chư Tỳ khưu, sự phát nguyện được thành tựu đối với người có giới, bởi do thiện tâm trong sạch.

- Này chư Tỳ khưu, có số người trong đời này, làm phước thiện bố thí như: cơm, nước, vải...đèn đến Sa môn, Bà la môn. Người ấy bố thí rồi phát nguyện vì: họ nghe rằng "chư thiên trong cõi Tam thập tam thiên... Chư thiên trong cõi Dạ ma thiên... Chư thiên trong cõi Ðâu suất đà thiên... Chư thiên trong cõi Hoá lạc thiên... Chư thiên trong cõi Tha hoá tự tại thiên có tuổi thọ sống lâu, sắc đẹp tuyệt vời, có sự an lạc tuyệt vời trong cõi trời". Người ấy phát nguyện mong ước rằng: "Sau khi chết rồi, cầu mong kiếp sau tôi sẽ là chư thiên trong cõi Tam thập tâm thiên,... cõi Ðâu suất đà thiên,... cõi Hoá lạc thiên... Cõi Tha hoá tự tại thiên". Người ấy phát nguyện như vậy, tâm luôn luôn mong ước như vậy, tâm của họ hướng theo con đường thấp hèn, tâm không muốn phát triển theo pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ. Người ấy sau khi chết, do phước thiện cho quả tái sanh làm chư thiên trong cõi Tam thập tam thiên..., cõi Dạ ma thiên..., cõi Ðâu xuất đà thiên..., cõi Hoá lạc thiên..., cõi Tha hoá tự tại thiên.

Như Lai chỉ nói sự thành tựu này đến người có giới trong sạch mà thôi, không nói đến người không có giới, người phá giới.

Này chư Tỳ khưu, sự phát nguyện được thành tựu đối với người có giới, bởi do thiện tâm trong sạch.

- Này chư Tỳ khưu, có số người trong đời này bố thí như cơm, nước, vải... đèn đến Sa môn, Bà la môn. Người ấy bố thí rồi phát nguyện vì họ nghe rằng: "Phạm thiên trong cõi trời sắc giới có tuổi thọ sống lâu, có sự an lạc tuyệt vời hơn cõi trời dục giới". Người ấy phát nguyện mong ước rằng: "sau khi chết, cầu mong kiếp sau tôi sẽ là phạm thiên trong cõi trời sắc giới". Người ấy phát nguyện như vậy, tâm luôn luôn mong ước như vậy, tâm của họ hướng theo con đường thấp hèn, tâm phát triển theo pháp hành thiền định, không phát triển theo pháp hành thiền tuệ. Người ấy sau khi chết, do nhờ có sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sanh làm phạm thiên cõi trời sắc giới.

Như Lai chỉ nói sự thành tựu này đến người có giới (có chứng đắc bậc thiền sắc giới) mà thôi, không nói đến người không có giới, phá giới; nói đến tâm không còn tham dục trong ngũ trần, do diệt được tham ái trong ngũ trần, không nói đến tâm còn có tham ái trong ngũ trần.

Này chư Tỳ khưu, sự phát nguyện được thành tựu đối với người có giới, bởi do tâm trong sạch, không tham ái trong ngũ trần...

Qua bài kinh này, để hiểu rõ lời phát nguyện chỉ được thành tựu đối với người có giới đức trong sạch mà thôi, không thành tựu đối với người không có giới, phá giới; là vì người không có giới, người phá giới sau khi chết, do ác nghiệp cho quả chắc chắn phải sa vào một trong 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh). Cho nên, phước thiện bố thí không có cơ hội dẫn dắt đến sự thành tựu theo điều phát nguyện.

Tuổi thọ, sắc đẹp, sự an lạc mỗi cõi trời dục giới khác nhau. Cõi trời dục giới tầng cao có tuổi thọ gấp đôi cõi trời dục giới tầng thấp.

- Tuổi thọ cõi Tứ đại thiên vương có 500 năm, bằng 9 triệu năm so với cõi người, bởi vì 1 ngày 1 đêm trong cõi trời này bằng 50 năm trong cõi người.

- Tuổi thọ cõi Tam thập tam thiên có 1.000 năm, bằng 36 triệu năm so với cõi người, bởi vì 1 ngày 1 đêm trong cõi trời này bằng 100 năm trong cõi người.

- Tuổi thọ trong cõi Dạ ma thiên có 2.000 năm, bằng 144 triệu năm so với cõi người, bởi vì 1 ngày 1 đêm trong cõi trời này bằng 200 năm trong cõi người.

- Tuổi thọ cõi Ðâu xuất đà thiên có 4.000 năm, bằng 576 triệu năm so với cõi người, bởi vì 1 ngày 1 đêm trong cõi trời này bằng 400 năm trong cõi người.

- Tuổi thọ trong cõi Hoá lạc thiên có 8.000 năm, bằng 2.304 triệu năm so với cõi người, bởi vì 1 ngày 1 đêm trong cõi trời này bằng 800 năm trong cõi người.

- Tuổi thọ trong cõi Tha hoá tự tại thiên có 16.000 năm, bằng 9.216 triệu năm so với cõi người, bởi vì 1 ngày 1 đêm trong cõi trời này bằng 1.600 năm trong cõi người.

Ngoài tuổi thọ ra, còn sắc đẹp, sự an lạc, tiếng tăm, quyền lực, sắc, thinh, hương, vị, xúc tuyệt vời ở mỗi tầng trời cao tăng gấp bội tầng trời thấp.

Quả báu của phước thiện bố thí thuộc dục giới thiện nghiệp, nên chỉ có khả năng cho quả trong cõi người và 6 cõi trời dục giới mà thôi, không có khả năng cho quả trong cõi trời sắc giới. Nhưng trong bài kinh Ðức Phật có đề cập đến sự thành tựu nguyện vọng trở thành phạm thiên trong cõi trời sắc giới, điều này nên hiểu rằng: nhờ phước thiện bố thí làm nhân duyên hỗ trợ cho thí chủ thuận lợi trong sự tiến hành thiền định để chứng đắc các bậc thiền hữu sắc, bậc thiền vô sắc. Chính sắc giới thiện nghiệp, vô sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sanh lên cõi trời sắc giới phạm thiên, vô sắc giới phạm thiên (không phải phước thiện bố thí); và cũng chính nhờ phước thiện bố thí làm duyên hỗ trợ cho thí chủ thuận lợi trong sự tiến hành thiền tuệ để chứng đắc Thánh Ðạo, Thánh Quả trở thành bậc Thánh nhân.

Năng Lực Lời Phát Nguyện

Lời phát nguyện có năng lực đối với người tạo được phước thiện nào khó tạo, thì phước thiện ấy có nhiều năng lực. Khi phước thiện có nhiều năng lực, thì lời phát nguyện mới thành tựu được dễ dàng.

Như tích nàng Ummādandī [Bộ Jātaka, truyện Ummādandījātaka] được tóm lược như sau:

Trong thời quá khứ, Ðức vua Sivi trị vì xứ Sivi, ngự ở kinh thành Ariṭṭha [Ðức vua Sivi là Ðức Bồ Tát tiền thân của Ðức Phật Gotama]. Trong kinh thành, một phú hộ Tiriṭivaccha có người con gái vô cùng xinh đẹp như thiên nữ tên là Ummādandī. Năm cô lên 16 tuổi có sắc đẹp mê hồn, lạ thường hơn hẳn các cô gái khác, cô đẹp như thiên nữ tuyệt trần, những người đàn ông nào nhìn thấy cô đều cảm thấy mê hồn, đến mức điên cuồng, mất trí như người say – say bởi tham ái.

Ông phú hộ Tiriṭivaccha đến yết kiến Ðức vua Sivi tâu rằng:

- Tâu Hoàng thượng, Itthiratanā: đàn bà báu xứng đáng với Hoàng thượng đã sanh trong gia đình của tiện dân. Xin Hoàng thượng phái nhóm Bà la môn đến xem tướng con gái của tiện dân, rồi tuỳ ý của Hoàng thượng phán xét.

Ðức vua chuẩn tấu, rồi truyền lệnh phái các Bà la môn đến ngôi biệt thự của ông phú hộ. Nhóm Bà la môn được đón tiếp trọng thể, mời thưởng thức món cơm pāyāsa: cơm đặc biệt nấu bằng sữa tươi.

Khi ấy, cô Ummādandī trang sức lộng lẫy toàn những đồ nữ trang quý giá ra chào hỏi nhóm Bà la môn ấy. Vừa nhìn thấy cô, tất cả họ đều bị mê hồn, say mê điên cuồng không còn biết mình nữa. Ðang khi dùng vật thực, có người cầm nắm cơm đặt trên đầu, tưởng rằng mình dùng cơm; có người cầm nắm cơm nhét vào nách, có người đấm vào vách tường... tất cả họ đều mê hồn đến mức trở thành người điên cuồng mất trí, không còn biết mình nữa.

Cô Ummādandī nhìn thấy nhóm Bà la môn như vậy nói rằng:

- Ta tưởng nhóm Bà la môn này đến xem tướng của ta, bây giờ nhóm họ như người điên cuồng, không còn biết gì nữa. Này các gia nhân, hãy lôi cổ nhóm Bà la môn này ra khỏi ngôi biệt thự.

Nhóm Bà la môn đờ đẫn như người mất hồn, bị tống ra khỏi nhà đến khi hoàn hồn tỉnh lại cảm thấy xấu hổ và tức giận cô Ummādandī, nên khi trở về yết kiến Ðức vua, cả nhóm Bà la môn đồng tâu dối rằng:

Tâu bệ hạ, người đàn bà ấy là người bất hạnh, không nên rước về cung điện.

Cô Ummādandī biết chuyện như vậy, nên nghĩ rằng: "Ðức vua không rước ta về cung vì tưởng rằng ta là người bất hạnh. Gọi là người bất hạnh, thì chắc chắn làm sao có được địa vị như ta. Có cơ hội nào ta sẽ yết kiến Ðức vua rồi sẽ rõ".

Về sau phụ thân của cô, ông phú hộ Tiriṭivaccha đem gả cô cho vị quan thừa tướng Abhipāraka, là vị quan thân thiết nhất, tín cẩn nhất của Ðức vua Sivi, cô trở thành người yêu quý nhất của quan thừa tướng.

Nhân dịp dân chúng trong kinh thành tổ chức lễ lớn vui chơi ca hát nhảy múa hàng năm vào ngày rằm tháng 10 (âm lịch). Trước khi đi chầu Ðức vua, vị quan Thừa tướng gọi phu nhân căn dặn rằng:

- Này Ummādandī em yêu quý! Hôm nay, đầu hôm, trăng rằm sáng tỏ, có lễ lớn, dân chúng ca hát nhảy múa vui chơi, Ðức vua sẽ ngự đi dạo quanh kinh thành, Người sẽ ngự ngang biệt thự của ta trước tiên. Em đừng có xuất hiện để cho Ðức vua nhìn thấy, nếu Ðức vua nhìn thấy em, người sẽ bị mê hồn mất trí.

Cô Ummādandī nghe lời căn dặn của phu quân, nhưng lại nghĩ đây là cơ hội tốt để Ðức vua nhìn thấy ta, nên khi vị quan thừa tướng đi rồi, cô gọi nữ tỳ bảo rằng:

- Khi nào Ðức vua đến cổng biệt thự ta, ngươi hãy nói cho ta biết nhé!

Hôm ấy, mặt trời lặn, mặt trăng rằm soi sáng trên bầu trời, trong kinh thành trang hoàng lộng lẫy, đèn thắp sáng ngời mọi phương, kinh thành đẹp đẽ như cõi thiên cung.

Ðức vua Sivi trang phục theo vương triều, ngự trên chiếc xe ngựa cao quý, theo sau có đoàn hộ tống ngự ra khỏi cung điện, sẽ đi vòng kinh thành, đến cổng biệt thự của vị quan thừa tướng Abhipāraka trước tiên, biệt thự này có tường bằng cẩm thạch bao chung quanh, cổng thành có đài cao trang hoàng lộng lẫy đáng xem.

Khi ấy, nữ tỳ thưa với cô chủ Ummādandī rằng Ðức vua đang ngự đến, cô liền bảo nữ tỳ cầm mâm hoa, còn mình đứng tựa trên cửa sổ lâu đài với dáng đứng đẹp, tay cầm hoa rải xuống Ðức vua. Ðức vua ngẩng đầu nhìn thấy nàng, ngay khi ấy, Ðức vua phát sanh tâm say mê, cơn say do phiền não làm mê hồn mất trí, không còn biết ngôi biệt thự này của vị quan thừa tướng Abhipāraka thân tín nhất của mình. Ðức vua truyền hỏi người đánh xe ngựa rằng:

- Này Sunanda, biệt thự này của ai, mà vòng thành bằng cẩm thạch màu vàng?

- Ai đứng hiện ra ở trên kia như một ngôi sao chiếu sáng trong hư không, hay trên đỉnh núi?

- Này Sunanda! Người đàn bà ấy là con của người ai? Chưa thuộc về người nào có phải không? Nàng chưa có chồng phải không? Hãy trả lời ngay cho ta rõ.

Người đánh xe ngựa tâu rằng:

- Tâu bệ hạ, hạ thần biết rõ người đàn bà ấy là con của phú hộ Tiriṭivaccha, nàng có chồng rồi. Chồng của nàng là quan thừa tướng Abhipāraka thân tín nhất của bệ hạ, ngày đêm lo việc triều chính của bệ hạ.

Tâu bệ hạ, nàng là phu nhân của quan thừa tướng Abhipāraka, tên của nàng là Ummādandī.

Ðức vua tán dương ca tụng rằng:

- Này các ngươi, tên gọi Ummādandī, mà cha mẹ đặt cho nàng thật đúng nghĩa. Khi ta nhìn thấy nàng, nàng lại nhìn thấy ta, làm cho ta say mê như người điên cuồng, mất trí.

Biết Ðức vua không còn bình tĩnh nữa, nên nàng Ummādandī đóng cửa sổ trở về phòng riêng.

Kể từ khi nhìn thấy nàng Ummādandī, Ðức vua cảm thấy không còn hứng thú đi dạo quanh kinh thành nữa, truyền lệnh cho người đánh xe giá hồi cung, ngự lên lâu đài vào phòng nằm mơ mộng đến nàng Ummādandī, nói lảm nhảm một mình như nguời mất trí, lẩm bẩm rằng:

- Nàng xinh đẹp quá! Nàng xinh đẹp quá! Nàng nhìn thấy ta như đã hớp hồn ta rồi! Nếu đức vua trời Sakka ban ân huệ cho ta, ta chỉ muốn được hưởng một ân huệ, đó là được nàng Ummādandī ôm ấp ta với đôi cánh tay mềm mại của nàng. Quan thừa tướng Abhipāraka được ái ân cùng nàng rồi, xin nhường cho vua Sivi được ái ân cùng nàng với...

Biết chuyện này, quan thừa tướng Abhipāraka vào yết kiến Ðức vua, xin dâng nàng Ummādandī lên Ðức vua.

Khi ấy, Ðức vua hồi tâm tỉnh trí lại biết mình có ý nghĩ sai lầm đầy tội lỗi, cảm thấy vô cùng hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi, một mực từ chối không thể chấp nhận nàng Ummādandī, phu nhân của quan thừa tướng thân tín nhất của mình.

Từ đó về sau, Ðức vua Bồ Tát Sivi hành theo thiện pháp, thiên hạ được an lành thịnh vượng.

Thử hỏi, do nguyên nhân nào, sắc đẹp của nàng Ummādandī lại làm cho những người đàn ông, khi nhìn thấy nàng, lại bị say mê, điên cuồng, mất trí như vậy?

Trong quá khứ, vương quốc Bārāṇasī, tiền kiếp của cô Ummādandī sanh trong một gia đình nghèo khó, vào ngày lễ hội, cô nhìn thấy những cô gái khác cùng trang lứa ăn mặc y phục bằng tấm vải choàng màu đỏ xinh đẹp, trang sức lộng lẫy; khiến cô thèm được mặc tấm vải choàng màu đỏ kia, cô xin cha mẹ mua cho cô tấm vải ấy. Cha mẹ cô an ủi cô rằng:

- Này con yêu quý! Gia đình ta nghèo khó, làm sao mua được tấm vải choàng như vậy hỡi con!

- Thưa cha mẹ! Nếu vậy, xin phép cha mẹ cho con đi làm thuê ở mướn một gia đình giàu có nào đó, qua một thời gian, người chủ nhà thấy con làm được việc sẽ cho con tấm vải ấy.

Ðược cha mẹ cho phép, cô gái đến xin làm thuê ở mướn cho một gia đình giàu có, cô thưa với người chủ rằng:

- Thưa ông bà chủ, con xin ở đây làm công, chỉ mong được một tấm vải choàng tốt màu đỏ.

Người chủ đặt điều kiện với cô rằng:

- Nếu ngươi chịu ở đây, làm việc giỏi suốt ba năm, xét thấy được, chúng ta sẽ cho ngươi tấm vải choàng mà ngươi ao ước.

Cô gái vô cùng hoan hỉ, chấp thuận điều kiện của chủ, ngày đêm siêng năng cần mẫn hoàn thành tốt mọi công việc mà người chủ giao phó. Vì vậy, cô làm công chưa đủ ba năm, người chủ quyết định cho cô tấm vải choàng cùng với các tấm vải khác, bảo cô rằng:

- Hôm nay, ngươi đi tắm rửa sạch sẽ với nhóm bạn gái rồi mặc tấm vải choàng này xem!

Cô sung sướng nhận tấm vải choàng, đã thoả lòng ao ước, cám ơn ông bà chủ rồi đi tắm với nhóm bạn gái, cô đặt tấm vải trên bờ, nghĩ rằng: xuống sông tắm xong, ta sẽ mặc tấm vải choàng này, mà ta đã làm công không nề vất vả khổ cực ngày đêm suốt thời gian qua.

Ngay khi ấy, một vị Ðại Ðức là bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Ðức Phật Kassapa bị mất trộm y tất cả, nên Ngài mặc lá y bằng những cành cây nhỏ (sākhābhaṇgaṃ) kết lại với nhau, đi ngang qua nơi ấy. Cô nhìn thấy Ngài nghĩ rằng: vị Ðại Ðức này bị mất trộm y hết, còn ta có được một tấm vải choàng này thật khó khăn vất vả, bởi vì tiền kiếp trong quá khứ ta không làm phước thiện bố thí. Bây giờ ta sẽ làm phước thiện bố thí một nửa tấm vải choàng đến Ngài Ðại Ðức. Nghĩ xong, cô vội vã bước lên bờ, mặc y phục cũ xong bạch rằng:

- Kính bạch Ngài Ðại Ðức, xin thỉnh Ngài dừng lại một giây lát.

Cô đến đảnh lễ Ngài rồi ngồi tại nơi ấy xé tấm vải thành hai mảnh, cô cung kính dâng một mảnh đến Ngài. Ngài Ðại Ðức tạm lánh vào chỗ kín thay bỏ tấm y cũ, bằng mảnh vải choàng ấy, mặc nghiêm chỉnh xong bước ra; bây giờ cô nhìn thấy Ngài Ðại Ðức mặc mảnh vải vào như hào quang sáng ngời, một thứ ánh sáng mặt trời mát dịu, làm cho cô vô cùng hoan hỉ dâng thêm mảnh vải còn lại đến Ngài Ðại Ðức rồi phát nguyện rằng:

- Kính bạch Ngài Ðại Ðức, tử sanh luân hồi, kiếp nào con cũng sẽ là người con gái xinh đẹp nhất, làm cho người đàn ông nào khi nhìn thấy con, họ đều bị mê hồn, điên cuồng mất trí, không còn biết mình nữa; và không có một người đàn bà nào xinh đẹp hơn con.

Ðó là lời phát nguyện trong tiền kiếp của cô Ummādandī.

Cô gái ấy sau khi chết, do năng lực phước thiện bố thí cho quả, khi thì tái sanh làm thiên nữ cõi trời dục giới, khi thì tái sanh làm người nữ cõi người, tái sanh kiếp nào, dầu là thiên nữ hoặc người nữ đều có sắc đẹp tuyệt vời, không một ai sánh kịp.

Ðến kiếp tái sanh làm người nữ trong gia đình phú hộ Tiriṭivaccha đặt tên cô là Ummādandī, có nghĩa cô có sắc đẹp làm mê hồn. Những người đàn ông nhìn thấy cô, họ đều say mê, điên cuồng, mất trí như người điên, bởi do năng lực lời phát nguyên của cô ở tiền kiếp.

Lời phát nguyện của cô được thành tựu cho đến kiếp cuối cùng.

Thời kỳ Ðức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, kiếp chót hậu thân của cô Ummādandī, do phước thiện cho quả tái sanh làm con gái của gia đình phú hộ xứ Sāvatthi, xinh đẹp như đoá hoa sen, nên đặt tên cô là Uppalavaṇṇā. Khi cô trưởng thành, thân phụ cô cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu ni. Sau khi trở thành Tỳ khưu ni tiến hành thieàn tuệ, chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo, Nhập Lưu Thánh Quả cho đến A-ra-hán Thánh Ðạo A-ra-hán Thánh Quả, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cùng Tứ tuệ phân tích, Lục thông.

Ðại Ðức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā là bậc Thánh nữ tối thượng Thanh Văn đặc biệt xuất sắc nhất về thần thông trong hàng Thánh nữ Thanh Văn.

Những nhân vật trong tích tiền thân Ummādandī-jātaka này, kiếp hiện tại cũng là kiếp chót như sau:

Cô Ummādandī nay kiếp hiện tại là Ngài Ðại Ðức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā.
Người đánh xe ngựa Sunanda nay kiếp hiện tại là Ngài Ðại Ðức Ānanda.
Quan thừa tướng Abhipāraka nay kiếp hiện tại là Ngài Ðại Ðức Sāriputta.
Ðức vua Sivi nay kiếp hiện tại chính là Ðức Phật Gotama.

BỐ THÍ - KẾT QUẢ

Thí chủ có tác ý thiện tâm sử dụng của cải đem làm phước thiện bố thí, ban bố phân phát cho mọi người khác, chúng sinh khác với tâm từ, tâm bi tế độ chúng sinh. Ðó là phước thiện bố thí.

Phước thiện bố thí này có kết quả nhiều hay ít, còn tuỳ thuộc vào 3 điều kiện (chi pháp).

1- Thí chủ có tác ý thiện tâm bố thí.
2- Vật bố thí.
3- Người thọ thí.

Ðức Phật ví dụ:

Thí chủ ví như người nông dân.
Vật bố thí ví như hạt giống.
Người thọ thí ví như thửa ruộng, đất....

- Trường hợp người nông dân có chuyên môn, biết thời vụ, có hạt giống tốt, gieo trồng thửa ruộng màu mỡ, chắc chắn kết quả thu hoạch được nhiều.

Cũng như vậy,

- Thí chủ có tác ý thiện tâm trong sạch, hoan hỉ suốt trong ba thời:

Trước khi làm phước thiện bố thí.
Ðang khi làm phước thiện bố thí.
Sau khi đã làm phước thiện bố thí xong.

- Có vật bố thí hợp pháp, phát sanh do chánh nghiệp.

- Người thọ thí là bậc có giới đức trong sạch thanh tịnh.

Như vậy, phước thiện bố thí ấy chắc chắn có qủa báu nhiều trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai.

- Trường hợp người nông dân không có chuyên môn, có hạt giống xấu, gieo trồng nơi thửa ruộng xấu, không màu mỡ; kết quả thu hoạch không được nhiều.

Cũng như vậy,

- Thí chủ có tác ý thiện tâm không hoàn toàn trong sạch suốt trong ba thời:

Trước khi làm phước bố thí.
Ðang khi làm phước bố thí.
Sau khi đã làm phước bố thí xong.

- Có vật bố thí không hợp pháp, phát sanh do tà nghiệp.

- Người thọ thí là người không có giới trong sạch, phá giới.

Như vậy, phước thiện bố thí ấy có quả báu không nhiều, không đáng hài lòng trong kiếp hiện tại lẫn kiếp vị lai.

Qua hai trường hợp trên, chúng ta nhận thấy rõ quả báu của phước thiện khác nhau.

Chúng ta làm phước thiện bố thí có nên chọn lựa hay không?

Ðể thành tựu phước thiện bố thí cần có đầy đủ 3 điều kiện (3 chi pháp): thí chủ có tác ý thiện tâm bố thí, vật bố thí, người thọ thí. Nếu thiếu một điều kiện (chi) nào, thì không thành tựu phước thiện bố thí.

Ví dụ:

Thí chủ có tác ý thiện tâm bố thí, có vật bố thí, nhưng không có người thọ thí, thì phước thiện bố thí không thành tựu.

Cho nên, muốn làm phước thiện bố thí, chúng ta cần phải tìm cho đủ 3 điều kiện trên. Chúng ta nên ý thức rằng: tạo phước thiện bố thí là một điều thiết yếu cho mình, có khi có cơ hội tốt đến với mình, có khi chính mình phải tìm lấy cơ hội, miễn sao cho đủ 3 điều kiện:

Thí chủ có tác ý thiện tâm bố thí.
Vật bố thí.
Người thọ thí.

Trong 3 điều kiện này, điều kiện quan trọng: tác ý thiện tâm bố thí, với thiện tâm hoan hỉ trong sạch suốt 3 thời kỳ: trước khi bố thí, đang khi bố thí, sau khi đã bố thí rồi; cả 3 thời kỳ này với thiện tâm trong sạch, thanh tịnh, không bị ô nhiễm bởi phiền não, thì dầu vật thí tốt hoặc xấu, hợp pháp hoặc không hợp pháp; và người thọ thí có giới đức hoặc không có giới đức, thì phước thiện bố thí cũng không ít.

Ví dụ:

Người nông dân có chuyên môn, biết thời vụ, dầu có hạt giống xấu, thửa ruộng không màu mỡ nhiều. Song người nông dân biết bón phân đúng lúc đúng thời, biết cho nước vào, biết xả nước ra, biết chăm sóc cây cho tốt. Như vậy, kết quả thu hoạch cũng không ít.

Cũng như vậy, thí chủ có tác ý thiện tâm bố thí trong sạch, có đức tin về nghiệp và quả của nghiệp, có trí tuệ sáng suốt hiểu biết rõ thiện nghiệp là của quý báu riêng mình; có cơ hội bố thí để tạo phước thiện là một điều tốt lành. Thí chủ có tác ý thiện tâm trong sạch hoan hỉ trước khi bố thí, hoan hỉ đang khi bố thí, hoan hỉ sau khi đã bố thí xong. Sự thành tựu phước thiện bố thí với tác ý thiện tâm trong sạch hoan hỉ đầy đủ ba thời kỳ như vậy, dù vật thí như thế nào (tốt hoặc xấu) hoặc người thọ thí như thế nào (có giới đức hoặc không có giới đức), phước thiện bố thí cũng không ít, kết quả cũng đáng hài lòng.

Như trường hợp Ðức Bồ Tát Vessantara bố thí hai đứa con là hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhā đến cho Bà la môn Jūjaka tàn nhẫn (không có giới), để tạo pháp hạnh bố thí ba la mật, thế mà phước thiện bố thí ấy cũng làm cho trái đất rung chuyển.

Bố thí người không có giới đức kết quả như thế nào?

Thí chủ bố thí đến người không có giới đức, cũng như người nông dân gieo trồng hạt giống trên thửa ruộng, đất xấu.

Tìm hiểu tích Cūḷaseṭṭhipetavatthu: tích ngạ quỷ Cūḷaseṭṭhi (tiểu phú hộ) [Khuddakanikāya, Petavatthu], tóm lược như sau:

Trong kinh thành Bārāṇasī có một tiểu phú hộ tên Cūḷaseṭṭhi là người không có đức tin, tâm bỏn xẻn keo kiệt, không bố thí của cải đến mọi người, mọi chúng sinh, tâm tham lam say đắm trong của cải, còn là người không có giới. Cho nên sau khi chết, do ác nghiệp cho quả tái sanh làm loài ngạ quỷ cũng có tên là Cūḷaseṭṭhipeta (ngạ quỷ tiểu phú hộ), có thân hình gầy ốm da bọc xương, xanh xao, đầu trọc, trần truồng đói khát trông thảm thương. Y nghe tin người con gái tên Anulā ở nhà chồng trong tỉnh thành Andhakavinda có làm phước bố thí, để hồi hướng đến ông bà, cha mẹ, chú bác, cô dì... những người thân bằng quyến thuộc đã quá vãng.

Ban đêm ngạ quỷ Cūḷaseṭṭhi bay ngang qua kinh thành Rājagaha, khi ấy, đức vua Ajātasattu không ngủ được, nên đi kinh hành ở hành lang lâu đài, nhìn thấy ngạ quỷ bay ngang qua, bèn hỏi rằng:

- Này nhà ngươi, ngươi có phải là tu sĩ loã thể, gầy ốm do ác nghiệp nào vậy? Giữa đêm khuya này ngươi đi đâu? Ngươi hãy nói cho ta rõ, ta có thể giúp đỡ gì cho nhà ngươi?

Khi nghe Ðức Vua truyền dạy, ngạ quỷ tâu rằng:

- Tâu Ðại vương, trước đây, trong kinh thành Bārāṇasī, con là một tiểu phú hộ giàu nổi tiếng, phần đông ai cũng biết đến, con là người bỏn xẻn keo kiệt, không chịu bố thí, phân phát của cải đến một ai; con có tánh tham lam, say mê trong của cải của mình, không có đức tin, không có giới. Sau khi chết, do ác nghiệp cho quả tái sanh trong hàng ngạ quỷ, chịu cảnh đói khát triền miên, sự đói khát luôn luôn dày vò đau khổ.

Ngoài con ra, còn có nhiều người khác có tâm bỏn xẻn keo kiệt, không bố thí, không tin quả báu của phước thiện bố thí, những hạng người ấy sau khi chết, do ác nghiệp cho quả tái sanh vào loài ngạ quỷ chịu cảnh khổ đói khát như con.

Con được tin con gái của con có tác ý thiện tâm muốn làm phước bố thí đến nhóm Bà la môn, để hồi hướng phần phước thiện ấy đến ông bà, cha mẹ, chú bác, cô dì,... thân bằng quyến thuộc đã quá vãng. Do đó, con bay đến kinh thành Andhakavinda để chờ hoan hỉ phần phước thiện bố thí ấy, với hy vọng mong thoát khỏi cảnh khổ kiếp ngạ quỷ này.

Ðức Vua truyền dạy rằng:

- Này nhà ngươi, nếu ngươi thọ hưởng được phần phước thiện bố thí, mà thân quyến hồi hướng thật sự, thì ngươi hãy trở lại báo cho ta biết đúng theo sự thật, để ta cũng tạo phước thiện bố thí rồi hồi hướng đến thân quyến của ta đã quá vãng.

Ngạ quỷ Cūḷaseṭṭhi xin tuân theo lệnh của Ðức Vua xong, bay thẳng đến kinh thành Andhakavinda. Nhưng y thọ hưởng được phần phước thiện bố thí ấy không đáng kể, vì nhóm Bà la môn ấy là những người không có giới đức. Cho nên, ngạ quỷ Cūḷaseṭṭhi trở lại kinh thành Rājagaha, hiện ra trước mặt đức vua Ajātasattu tâu rằng:

- Tâu Ðại Vương, con hưởng được phần phước thiện bố thí không đáng kể, bởi vì nhóm Bà la môn không có giới đức trong sạch.

Ðức Vua truyền dạy rằng:

- Này nhà ngươi, ta muốn cứu giúp ngươi thoát khỏi cảnh khổ, được sống an lạc đầy đủ lâu dài. Vậy, ta nên làm phước thiện bố thí như thế nào? Ngươi hãy nói cho ta biết?

Ngạ quỷ Cūḷaseṭṭhi tâu với Ðức Vua rằng:

- Tâu Ðại Vương, Ðại Vương có tâm bi mẫn cứu giúp con, xin Ðại Vương làm phước thiện bố thí cúng dường vật thực, nước, y đến Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng. Xong rồi, xin Ðại Vương hồi hướng phần phước thiện bố thí ấy đến cho con. Khi con được hoan hỉ phần phước thiện bố thí ấy rồi, do nhờ năng lực phước thiện ấy, con được giải thoát khỏi kiếp ngạ quỷ đói khát, được tái sanh cõi thiện giới hưởng được sự an lạc lâu dài.

Vào ngày hôm sau, Ðức Vua làm phước thiện bố thí vật thực, nước, y cúng dường đến Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng xong, Ðức Vua bạch với Ðức Phật rằng:

- Con xin hồi hướng phần phước bố thí này đến ngạ quỷ Cūḷaseṭṭhi. Xin ngạ quỷ Cūḷaseṭṭhi hoan hỉ phần phước thiện bố thí này.

Ngạ quỷ Cūḷaseṭṭhi hoan hỉ phần phước bố thí ấy, ngay tức khắc, thoát khỏi kiếp ngạ quỷ, hoá sanh trở thành vị thiên nam, hiện ra trước mặt Ðức Vua tâu rằng:

- Tâu Ðại Vương, nay con đã trở thành thiên nam, xin Ðại Vương xem con, con có đầy đủ vật thực, y phục, lâu đài, sự an lạc... của chư thiên. Những quả báu này phát sanh do phước thiện bố thí mà Ðại Vương đã hồi hướng cho con.

Con cầu mong Ðại Vương được hưởng sự an lạc cao cả trong loài người, con hết lòng thành kính tri ân Ðại Vương, con xin phép trở về cảnh giới của con.

Qua câu truyện ngạ quỷ Cūḷaseṭṭhi xét thấy rằng:

Kiếp ngạ quỷ chỉ còn biết trông chờ đến phần phước thiện, mà bà con thân quyến hồi hướng đến cho họ mà thôi.

Kiếp sống con người có tính chất đặc biệt hơn các chúng sinh khác là: thừa hưởng quả của thiện nghiệp, ác nghiệp. Cho nên, con người có khi được an lạc đó là quả của thiện nghiệp, có khi chịu khổ đau đó là quả của ác nghiệp. Con người đặc biệt có khả năng tạo mọi phước thiện như: bố thí, giữ giới, hành thiền định, hành thiền tuệ...; cũng có khả năng tạo ác nghiệp do thân, khẩu, ý như: sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời đâm thọc, chia rẽ, nói lời thô tục, chửi rủa mắng nhiếc, nói lời vô ích, có tánh tham lam, có tánh thù hận, có tà kiến; có khả năng tạo thiện nghiệp do thân, khẩu, ý như: tránh xa sự sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời đâm thọc chia rẽ, nói lời thô tục chửi rủa mắng nhiếc, nói lời vô ích, có tánh không tham lam, có tánh không thù hận, có chánh kiến.

Con người được giàu sang, phú quý có nhiều của cải, có quyền cao, chức trọng... những gì hiện hữu có thể thấy được bằng mắt, nghe bằng tai... tất cả đều không phải là phước thiện, đó chỉ là quả báu của phước thiện mà thôi. Chủ nhân có thể thọ hưởng các quả báu bằng mọi thứ của cải ngay trong kiếp hiện tại, cho đến cuối cùng của kiếp sống hiện tại (chết). Những thứ của cải trong kiếp hiện tại không liên quan gì đến kiếp sau. Kiếp sau là do thiện nghiệp hay ác nghiệp cho quả tái sanh:

* Nếu thiện nghiệp, thì cho quả tái sanh cõi thiện giới như: tái sanh làm người cõi người, hoặc tái sanh làm chư thiên cõi trời dục giới, hoặc tái sanh làm phạm thiên cõi trời sắc giới hay vô sắc giới, tuỳ theo thiện nghiệp của mình đã tạo, rồi hưởng sự an lạc tuỳ theo năng lực của thiện nghiệp ấy.

* Nếu ác nghiệp cho quả tái sanh trong 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh) chịu khổ do nghiệp ác của mình đã tạo.

Ngạ quỷ Cūḷaseṭṭhi ghi nhớ được tiền kiếp của mình là tiểu phú hộ bỏn xẻn keo kiệt, có tánh tham lam say đắm trong của cải của mình, không muốn sử dụng của cải của mình đem làm phước bố thí, ban bố phân phát đến mọi người, mọi chúng sinh, còn là người không có giới. Do đó, sau khi chết do ác nghiệp ấy cho quả tái sanh trong hàng ngạ quỷ, phải chịu cảnh đói khát khốn khổ.

Ban đầu chính ngạ quỷ Cūḷaseṭṭhi tỏ vẻ thất vọng, bởi vì người con gái làm phước bố thí đến nhóm Bà la môn không có giới, nên hưởng được phước thiện không đủ để có khả năng thoát khỏi kiếp ngạ quỷ đói khát đau khổ.

Về sau nhờ đức vua Ajātasattu làm phước thiện bố thí cúng dường đến Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng, rồi hồi hướng đến ngạ quỷ Cūḷaseṭṭhi. Ngạ quỷ Cūḷaseṭṭhi hoan hỉ phần phước thiện bố thí, mà đức vua Ajātasattu hồi hướng đến cho y; do nhờ năng lực phước thiện này, ngay khi ấy, y thoát khỏi kiếp ngạ quỷ, tái sanh bằng hoá sanh thành thiên nam có nhiều oai lực và hưởng mọi sự an lạc nơi cõi trời ấy.

Bố Thí Trong Phật Giáo – Ngoài Phật Giáo

Phước thiện bố thí trong Phật giáo có quả báu nhiều, có năng lực mạnh hơn phước thiện bố thí ngoài Phật giáo, hoặc thời kỳ không có Phật giáo.

Tích Ngài Ðại Ðức Mahākassapa và đức vua trời Sakka cõi Tam thập tam thiên tóm lược như sau:

Ngài Ðại Ðức Mahākassapa nhập diệt thọ tưởng định suốt 7 ngày, đến ngày thứ 7 xả định, Ngài đi khất thực với tâm bi tế độ những người nghèo khổ. Khi ấy, từ cõi Tam thập tam thiên có 500 thiên nữ là những thiên nữ hầu hạ của đức vua trời Sakka, hiện xuống cõi người, mỗi cô mỗi phần với tác ý thiện tâm để bát cho Ngài Ðại Ðức, nhưng Ngài từ chối không nhận vật thực của nhóm 500 thiên nữ. Ngài dạy rằng:

- Này các thiên nữ hãy tránh ra, bần Tăng đi khất thực để tế độ những người nghèo khổ.

Nhóm 500 thiên nữ không để bát được, buồn tủi trở về cõi trời tâu với đức vua trời Sakka:

- Chúng tiện thiếp hiện xuống cõi người với tác ý thiện tâm làm phước thiện bố thí để bát Ngài Ðại Ðức Mahākassapa vừa xả diệt thọ tưởng định hôm nay, nhưng Ngài từ chối, không nhận những vật thực của chúng tiện thiếp, Ngài dạy rằng: Ngài chỉ thọ nhận những vật thực của người nghèo khổ, để tế độ họ mà thôi.

Nghe tâu như vậy, đức vua trời Sakka gọi hoàng hậu Sujātā cùng hiện xuống cõi người biến hóa thành đôi vợ chồng già yếu, nghèo khổ sống trong một căn nhà lá cũ mèm ở ven rừng, chờ Ngài Ðại Ðức Mahākassapa đi khất thực ngang qua nhà.

Ngài Ðại Ðức Mahākassapa vừa đến, đức vua trời Sakka trong hình dáng một ông lão nghèo khổ đầu bạc, lưng còm, đôi chân run rẩy, chống gậy gọi hoàng hậu Sujātā trong hình dáng một bà lão nghèo khổ như ông ra, hai ông bà già cúi đầu đảnh lễ, xin Ngài tế độ vợ chồng già nghèo nàn, xin cái bát của Ngài vào nhà để những vật thực ngon lành của họ.

Ðức vua trời Sakka và hoàng hậu Sujātā để những món vật thực vào bát của Ngài Ðại Ðức Mahākassapa, mùi hương thơm của vật thực tỏa khắp kinh thành Rājagaha; hai vợ chồng nghèo nàn đem bát ra dâng Ngài Ðại Ðức, Ngài nhận bát, mùi hương thơm tỏa ra. Ngài biết ngay vật thực này không phải vật thực của hai vợ chồng trong hình dáng người già nghèo khổ, mà sự thật chính là đức vua trời Sakka và hoàng hậu Sujātā, Ngài quở trách rằng:

- Này vua trời Sakka và hoàng hậu, bần Tăng có tâm bi muốn tế độ người nghèo khổ, tại sao hai người lại giành phước thiện của người nghèo?

- Kính bạch Ngài Ðại Ðức, chúng con cũng là người nghèo nàn, mặc dầu con là Vua trời trị vì toàn thể chư thiên trong cõi Tam thập tam thiên; nhưng chúng con làm phước thiện bố thí trong thời kỳ không có Phật giáo, không có chư Ðại Ðức Tăng, nên phước thiện bố thí của con nghèo nàn quá, bạch Ngài!

Con cảm thấy tủi phận mỗi khi gặp những vị chư thiên sanh lên cõi Tam thập tam thiên, do quả phước thiện bố thí trong kỳ Ðức Phật xuất hiện trên thế gian, bởi họ có hào quang sáng ngời tỏa khắp mọi phương hướng, có nhiều oai lực phi thường, khiến con phải né tránh. Tuy con làm vua mà phước báu không bằng thuộc hạ của mình.

Ngài Ðại Ðức dạy rằng:

- Này Ðức vua trời, kể từ nay về sau, nhà ngươi không nên giả dạng người nghèo làm phước bố thí đến bần Tăng như vậy nữa!

Ðức vua trời Sakka cùng hoàng hậu Sujātā đảnh lễ Ðại Ðức tỏ lòng tôn kính, tri ân Ngài, tán dương ca tụng ân đức của Ngài, rồi xin phép trở về cõi Tam thập tam thiên.

Do năng lực phước thiện bố thí để bát đến Ngài Ðại Ðức Mahākassapa, đức vua trời Sakka có được hào quang, oai lực không kém chư thiên khác.

Tích hai thiên nam Indaka và Ankura

Tích hai thiên nam Indaka và Ankura [Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, trong tích Devorohaṇavatthu] tóm lược như sau:

Hai vị thiên nam này tiền kiếp đã từng làm phước thiện bố thí.

Tiền kiếp của vị thiên nam Ankura đã từng xây dựng trại làm phước thiện đại thí ngoài Phật giáo, thời kỳ không có Ðức Phật xuất hiện trên thế gian, không có chư Ðại Ðức Tăng suốt 10.000 năm.

Tiền kiếp của vị thiên nam Indaka đã từng làm phước thiện bố thí để bát đến Ngài Ðại Ðức Anuruddha một muỗng cơm, trong thời kỳ Phật giáo.

Mùa hạ thứ bảy, Ðức Phật ngự an cư nhập hạ suốt 3 tháng trên cung Tam thập tam thiên thuyết giảng Vi diệu pháp tạng để tế độ Phật mẫu (kiếp này làm thiên nam Santussita cõi trời Tusita xuống cõi Tam thập tam thiên), cùng chư thiên, phạm thiên.

Ðức Phật ngự trên tảng đá thuyết giảng. Khi ấy, vị thiên nam Indaka ngồi phía bên phải của Ðức Phật, còn thiên nam Ankura ngồi phía bên trái của Ðức Phật lắng nghe Vi diệu pháp.

Khi có vị chư thiên nhiều oai lực đến hội nghe Vi diệu pháp, thì vị thiên nam Ankura lùi lại sau nhường cho vị thiên nam ấy. Mỗi lần phải lùi lại sau nhường chỗ như vậy, vị thiên nam Ankura lùi ra cách xa Ðức Phật đến 12 do tuần [1 do tuần khoảng 20.482,56 mét hoặc 12,72 miles]. Trong khi đó vị thiên nam Indaka vẫn ngồi yên chỗ ngồi của mình gần Ðức Phật.

Qua tích truyện trên, để chúng ta thấy rõ rằng, vị thiên nam Indaka, tiền kiếp đã từng làm phước thiện để bát đến Ngài Ðại Ðức Anuruddha một muỗng cơm trong Phật giáo, mà năng lực quả báu hơn vị thiên nam Ankura tiền kiếp đã từng làm phước thiện đại thí suốt 10 ngàn năm thời kỳ ngoài Phật giáo.

Tích Bà la môn Velāma làm phước thiện bố thí

Trong kinh Velāmasutta [Bộ Aṅguttaranikāya, phần Navakanipāta], Ðức Phật thuyết giảng về Bà la môn Velāma làm phước thiện bố thí thời kỳ ngoài Phật giáo và thí chủ làm phước thiện bố thí trong Phật giáo có đoạn như sau:

- "Này phú hộ Anāthapiṇṇika, chuyện đã từng xảy ra, có Bà la môn Velāma làm phước thiện đại thí như:

Bố thí 84.000 mâm vàng đầy bạc (rūpiya).
Bố thí 84.000 mâm bạc đầy vàng.
Bố thí 84.000 mâm đồng đầy bạc.
Bố thí 84.000 con voi gồm đầy đủ đồ trang sức bằng vàng.
Bố thí 84.000 đồ trải bằng da sư tử, da cọp.
Bố thí 84.000 con bò sữa cùng với đồ đựng sữa.
Bố thí 84.000 cô gái trẻ đẹp cùng với đồ trang sức ngọc maṇi....
Bố thí 84.000 chiếc ghế ngồi có trang trí đồ quý giá.
Bố thí 84.000
x 10.000.000 vải đủ loại đặc biệt. Ngoài ra, bố thí đồ ăn, đồ uống,... không sao kể xiết.

Bà la môn Velāma chính là tiền thân của Như Lai, làm phước đại thí vào thời đại ấy không có bậc Xứng Ðáng Cúng Dường (thời đại không có Ðức Phật và chư Ðại Ðức Tăng).

Này ông phú hộ, người nào làm phước thiện bố thí đến vị Thánh Nhập Lưu có chánh kiến đầy đủ, người ấy có phước thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn là làm phước thiện bố thí của Bà la môn Velāma.

Người nào làm phước thiện bố thí đến 100 vị Thánh Nhập Lưu, thì quả báu nhiều hơn là bố thí đến 1 vị Thánh Nhập Lưu.

Người nào làm phước thiện bố thí đến 1 vị Thánh Nhất Lai, thì quả báu nhiều hơn là bố thí đến 100 vị Thánh Nhập Lưu.

Người nào làm phước thiện bố thí đến 100 vị Thánh Nhất Lai, thì quả báu nhiều hơn là bố thí đến 1 vị Thánh Nhất Lai.

Người nào làm phước thiện bố thí đến 1 vị Thánh Bất Lai, thì quả báu nhiều hơn là bố thí đến 100 vị Thánh Nhất Lai.

Người nào làm phước thiện bố thí đến 100 vị Thánh Bất Lai, thì quả báu nhiều hơn là bố thí đến 1 vị Thánh Bất Lai.

Người nào làm phước thiện bố thí đến 1 vị Thánh A-ra-hán, thì quả báu nhiều hơn là bố thí đến 100 vị Thánh Bất Lai.

Người nào làm phước thiện bố thí đến 100 vị Thánh A-ra-hán, thì quả báu nhiều hơn là bố thí đến 1 vị Thánh A-ra-hán.

Người nào làm phước thiện bố thí đến 1 Ðức Phật Ðộc Giác thì quả báu nhiều hơn bố thí đến 100 vị Thánh A-ra-hán.

Người nào làm phước bố thí đến 100 Ðức Phật Ðộc Giác thì quả báu nhiều hơn là bố thí đến 1 Ðức Phật Ðộc Giác.

Người nào làm phước đến Ðức Phật Toàn Giác thì quả báu nhiều hơn là bố thí đến 100 Ðức Phật Ðộc Giác"....

Qua đoạn kinh trên, chúng ta nhận thấy sự khác biệt, mà có thể so sánh được quả báu của phước thiện bố thí ngoài Phật giáo và quả báu của phước thiện bố thí trong Phật giáo. Trong Phật giáo, quả báu cũng khác biệt giưõa các bậc Thánh thấp với bậc Thánh cao; giữa các bậc Thánh A-ra-hán với Ðức Phật Ðộc Giác, Ðức Phật Toàn Giác.

Như vậy, bậc nào có giới đức, định đức, tuệ đức, giải thoát đức, giải thoát tri kiến đức hoàn toàn trong sạch và thanh tịnh, thí chủ làm phước thiện bố thí đến bậc ấy có được nhiều phước thiện, có quả báu cao quý nhất.

Người Tại Gia Cư Sĩ

Người tại gia sinh sống bằng sức lao động của mình, để tạo ra của cải rồi hưởng thụ của cải ấy trong cuộc sống hằng ngày, có những điều đáng chê trách và đáng ca tụng.

Trong kinh Kāmabhogīsutta [Aṅgattaranikāya, Dasakanipāta], Ðức Phật dạy ông phú hộ Anāthapiṇṇika có đoạn:

"Này phú hộ, có 10 hạng người sống tại gia:

1- Hạng người tại gia lao động tạo ra của cải không hợp pháp, làm khổ chúng sinh; khi có được của cải rồi, không biết sử dụng của cải để nuôi nấng mình cho được an lạc; và cũng không biết đem của cải làm phước thiện bố thí giúp đỡ mọi người, mọi chúng sinh.

Hạng người tại gia này đáng chê trách 3 điều:

Chê trách: Tạo ra của cải một cách phi pháp, làm khổ chúng sinh.
Chê trách: Không biết nuôi nấng mình được an lạc.
Chê trách: Không biết làm phước thiện bố thí.

2- Hạng người tại gia lao động tạo ra của cải không hợp pháp, làm khổ chúng sinh; khi có được của cải rồi, biết sử dụng của cải để nuôi nấng mình được an lạc, nhưng không biết đem của cải làm phước thiện bố thí giúp đỡ mọi người, mọi chúng sinh.

Hạng người tại gia này đáng chê trách 2 điều, đáng ca tụng 1 điều:

Chê trách: Tạo ra của cải một cách phi pháp, làm khổ chúng sinh.
Chê trách: Không biết làm phước thiện bố thí.
Ca tụng: Biết sử dụng của cải nuôi nấng mình được an lạc.

3- Hạng người tại gia lao động tạo ra của cải không hợp pháp, làm khổ chúng sinh; khi có được của cải rồi, biết sử dụng của cải để nuôi nấng mình cho được an lạc; và biết đem của cải làm phước thiện bố thí giúp đỡ mọi người, mọi chúng sinh.

Hạng người tại gia này đáng chê trách 1 điều, đáng ca tụng 2 điều:

Chê trách: Tạo ra của cải một cách phi pháp, làm khổ chúng sinh.
Ca tụng: Biết sử dụng của cải nuôi nấng mình được an lạc.
Ca tụng: Biết đem của cải làm phước thiện bố thí.

4- Hạng người tại gia lao động tạo ra của cải không hợp pháp và hợp pháp, làm khổ chúng sinh và không làm khổ chúng sinh; khi có được của cải rồi, không biết sử dụng của cải để nuôi nấng mình cho được an lạc; và cũng không biết đem của cải làm phước thiện bố thí giúp đỡ mọi người, mọi chúng sinh.

Hạng người tại gia này đáng chê trách 3 điều, đáng ca tụng 1 điều:

Chê trách: Tạo ra của cải một cách phi pháp, làm khổ chúng sinh.
Chê trách: Không biết nuôi nấng mình được an lạc.
Chê trách: Không biết làm phước thiện bố thí.
Ca tụng: Tạo ra của cải một cách hợp pháp, không làm khổ chúng sinh.

5- Hạng người tại gia lao động tạo ra của cải không hợp pháp và hợp pháp, làm khổ chúng sinh và không làm khổ chúng sinh; khi có được của cải rồi, biết sử dụng của cải để nuôi nấng mình cho được an lạc; nhưng không biết đem của cải làm phước thiện bố thí giúp đỡ mọi người, mọi chúng sinh.

Hạng người tại gia này đáng chê trách 2 điều, đáng ca tụng 2 điều:

Chê trách: Tạo ra của cải một cách phi pháp, làm khổ chúng sinh.
Chê trách: Không biết làm phước thiện bố thí.
Ca tụng: Tạo ra của cải một cách hợp pháp, không làm khổ chúng sinh.
Ca tụng: Biết sử dụng của cải nuôi nấng mình được an lạc.

6- Hạng người tại gia lao động tạo ra của cải không hợp pháp và hợp pháp, làm khổ chúng sinh và không làm khổ chúng sinh; khi có được của cải rồi, biết sử dụng của cải để nuôi nấng mình cho được an lạc; và biết đem của cải làm phước thiện bố thí giúp đỡ mọi người, mọi chúng sinh.

Hạng người tại gia này đáng chê trách 1 điều, đáng ca tụng 3 điều:

Chê trách: Tạo ra của cải một cách phi pháp, làm khổ chúng sinh.
Ca tụng: Tạo ra của cải một cách hợp pháp, không làm khổ chúng sinh.
Ca tụng: Biết sử dụng của cải nuôi nấng mình được an lạc.
Ca tụng: Biết đem của cải làm phước thiện bố thí.

7- Hạng người tại gia lao động tạo ra của cải hợp pháp, không làm khổ chúng sinh; khi có được của cải rồi, không biết sử dụng của cải để nuôi nấng mình cho được an lạc, và cũng không biết đem của cải làm phước thiện bố thí giúp đỡ mọi người, mọi chúng sinh.

Hạng người tại gia này đáng chê trách 2 điều và đáng ca tụng 1 điều:

Ca tụng: Tạo ra của cải một cách hợp pháp, không làm khổ chúng sinh.
Chê trách: Không biết nuôi nấng mình được an lạc.
Chê trách: Không biết làm phước thiện bố thí.

8- Hạng người tại gia lao động tạo ra của cải hợp pháp, không làm khổ chúng sinh; khi có được của cải rồi, biết sử dụng của cải để nuôi nấng mình cho được an lạc, nhưng không biết đem của cải làm phước thiện bố thí giúp đỡ mọi người, mọi chúng sinh.

Hạng người tại gia này đáng chê trách 1 điều và đáng ca tụng 2 điều:

Ca tụng: Tạo ra của cải một cách hợp pháp, không làm khổ chúng sinh.
Ca tụng: Biết sử dụng của cải nuôi nấng mình được an lạc.
Chê trách: Không biết làm phước thiện bố thí.

9- Hạng người tại gia lao động tạo ra của cải hợp pháp, không làm khổ chúng sinh; khi có được của cải rồi, biết sử dụng của cải để nuôi nấng mình cho được an lạc; và cũng biết đem của cải làm phước thiện bố thí giúp đỡ mọi người, mọi chúng sinh; nhưng tâm còn tham đắm say mê, bị ràng buộc trong dục lạc ngũ trần; không thấy rõ tội lỗi của ngũ trần, không có trí tuệ cứu giúp mình giải thoát sự ràng buộc của ngũ trần.

Hạng người tại gia này đáng chê trách 1 điều và đáng ca tụng 3 điều:

Ca tụng: Tạo ra của cải một cách hợp pháp, không làm khổ chúng sinh.
Ca tụng: Biết sử dụng của cải nuôi nấng mình được an lạc.
Ca tụng: Biết đem của cải làm phước thiện bố thí.

Chê trách: Là người có tâm tham đắm, say mê, bị ràng buộc trong dục lạc ngũ trần, không thấy rõ tội lỗi của ngũ trần, không có trí tuệ cứu giúp mình giải thoát sự ràng buộc của ngũ trần.

10- Hạng người tại gia lao động tạo ra của cải hợp pháp, không làm khổ chúng sinh; khi có được của cải rồi, biết sử dụng của cải để nuôi nấng mình cho được an lạc; và biết đem của cải làm phước thiện bố thí giúp đỡ mọi người, mọi chúng sinh; đặc biệt tâm không tham đắm say mê, không bị ràng buộc trong dục lạc ngũ trần, có trí tuệ thiền tuệ thấy rõ thực tánh các pháp, không bị ràng buộc trong ngũ trần và không chấp thủ trong ngũ trần.

Hạng người tại gia này đáng ca tụng đầy đủ 4 điều:

Ca tụng: Tạo ra của cải một cách hợp pháp, không làm khổ chúng sinh.
Ca tụng: Biết sử dụng của cải nuôi nấng mình được an lạc.
Ca tụng: Biết đem của cải làm phước thiện bố thí.
Ca tụng: Là người không có tâm tham đắm, say mê, không bị ràng buộc trong dục lạc ngũ trần, có trí tuệ thấy tội lỗi của ngũ trần, có trí tuệ thiền tuệ thấy rõ thực tánh các pháp, không bị ràng buộc trong ngũ trần và không chấp thủ trong ngũ trần.

Bố Thí Tạo Tội Lỗi

Bố thí là việc làm sử dụng của cải đem ra ban bố, phân phát đến người khác, chúng sinh khác, về hình thức xem như là việc đối xử tốt. Việc bố thí để tạo phước thiện hay tạo tội lỗi còn tuỳ thuộc vào tác ý kết quả của nó.

Nếu bố thí với tác ý thiện tâm, có những vật thí nào đem lại cho người thọ thí, hoặc thí chủ, hoặc cả hai (người thọ thí và thí chủ) sự an lạc lâu dài, thì việc bố thí ấy tạo phước thiện, không tạo tội lỗi.

Nếu bố thí với tác ý bất thiện, có những vật thí nào đem lại cho người thọ thí, hoặc thí chủ, hoặc cả hai (người thọ thí và thí chủ) sự khổ não lâu dài, thì việc bố thí ấy tạo tội lỗi, không phải tạo phước thiện.

Trong bộ Milindapañhā: Ðức vua Milinda vấn đạo, có đề cập đến 10 vật bố thí có tội là:

1- Majjadāna: bố thí rượu, chất say, ma tuý, heroin, thuốc phiện, thuốc lá, v.v....
2- Samajjadāna: bố thí lễ hội vui chơi, say mê....
3- Itthidāna: bố thí kỹ nữ ăn chơi truỵ lạc....
4- Usabhadāna: bố thí bò đực giao cấu với bò cái.
5- Cittakammadāna: bố thí những tranh ảnh khiêu dâm.
6- Satthadāna: bố thí vũ khí sát sanh.
7- Visadāna: bố thí thuốc độc sát sanh.
8- Sankhālikādāna: bố thí xiềng xích, gông cùm.
9- Kukkuṭasūkāradāna: bố thí gà heo để làm thịt.
10- Tulākūṭamānakūṭadāna: bố thí cân thiếu (trọng lượng), thước đo thiếu.

Những vật bố thí trên làm cho người thọ thí phải phạm giới, phát sanh phiền não, ác pháp, thiện pháp không thể phát sanh. Như vậy, dầu thí chủ có tác ý tốt như thế nào, sự thật những vật thí đem lại sự tai hại cho người thọ thí, thì sự bố thí ấy chắc chắn không phải tạo nên phước thiện, chỉ tạo nên tội lỗi ác nghiệp mà thôi. Do đó, thí chủ phải chịu khổ kiếp hiện tại; sau khi chết, do ác nghiệp ấy cho quả tái sanh trong 4 cõi ác giới: địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh phải chịu khổ do ác nghiệp của mình đã tạo.

Xét về vật bố thí: vàng, bạc, tiền bạc

Ðối với người tại gia vàng, bạc, tiền bạc là thứ rất cần thiết trong cuộc sống, dùng để mua bán trao đổi hàng hoá hằng ngày. Thí chủ đem vàng, bạc, tiền bạc bố thí giúp đỡ những người tại gia với nhau là việc làm phước thiện.

Ðối với hàng xuất gia là Sa di, Tỳ khưu thì vàng, bạc, tiền bạc là thứ không hợp với giới luật của Sa di, Tỳ khưu mà Ðức Phật đã chế định như:

- Trong Sa di thập giới, giới thứ 10, Ðức Phật chế định ban hành rằng:

"Jātarūpa - rajata - paṭiggahanā veramaṇi-sikkhāpadaṃ samādiyāmi".
"Con xin thọ trì điều học là tác ý tránh xa sự thọ nhận vàng, bạc".

Ðức Phật đã chế định ban hành đến cho tất cả Sa di, Sa di phải nghiêm chỉnh thực hành theo, không được phạm giới, phá giới.

Nếu Sa di nào thọ nhận vàng, bạc, tiền bạc, Sa di ấy phạm giới thứ 10 của Sa di.

- Trong Bhikkhupātimokkha, Tỳ khưu giới gồm có 227 điều học, trong phần 30 giới Nissaggiya pācittiya, điều giới thứ 18 Ðức Phật chế định ban hành rằng:

18- "Yo pana bhikkhu jātarūpa rajataṃ uggaṇheyya vā uggaṇhāpeyya vā upanikkhittaṃ vā sādiyeyya, nissaggiyaṃ pācittiyaṃ".

"Tỳ khưu nào tự mình thọ nhận vàng, bạc (tiền bạc) hoặc sai người thọ nhận vàng, bạc, hoặc hài lòng hoan hỉ vàng, bạc (tiền bạc) cất giữ dành cho riêng mình, Tỳ khưu ấy phạm giới pācittiya, cần phải xả bỏ vàng, bạc (tiền bạc) ấy".

19- "Yo pana bhikkhu nānappakārakaṃ rūpiyasaṃvohāraṃ samāpajjeyya, nissaggiyaṃ pācittiyaṃ".

"Tỳ khưu nào dùng tiền bạc (vàng, bạc) mua sắm thứ vật dụng nào, Tỳ khưu ấy phạm giới pācittiya, cần phải xả bỏ thứ vật dụng ấy".

20- "Yo pana bhikkhu nānappakārakaṃ kayavikkhayaṃ samāpajjeyya, nissaggiyaṃ pācittiyaṃ".

"Tỳ khưu nào mua bán, trao đổi, Tỳ khưu ấy phạm giới pācittiya, cần phải xả bỏ thứ vật dụng ấy".

[Bhikkhupātimokkhapāḷi, phần Nissaggiya pācittaya]

Ðức Phật đã chế định giới điều và ban hành đến tất cả Tỳ khưu, Tỳ khưu cần phải nghiêm chỉnh hành theo, không được phạm giới, phá giới.

Trường hợp phạm giới - cách sám hối

Nếu vị Tỳ khưu nào thọ nhận vàng, bạc (tiền bạc) riêng cho mình; trước tiên, cần phải xả bỏ vàng, bạc (tiền bạc) ấy, đúng theo cách thức mà Ðức Phật đã chế định trong giới luật của Tỳ khưu; sau đó, vị Tỳ khưu ấy mới được phép sám hối với một vị Tỳ khưu khác không có sabhāgāpatti [*] theo cách phạm giới pācittiya. Sau khi làm lễ sám hối xong, vị Tỳ khưu ấy có giới trong sạch trở lại.

[*] Sabhāgāpatti: Hai vị Tỳ khưu phạm giới có cùng đối tượng như nhau.Ví dụ: một vị giết muỗi, một vị giết kiến, hai vị Tỳ khưu này đều phạm giới pācittaya, không được phép sám hối với nhau.

Nếu vị Tỳ khưu nào dùng tiền bạc mua sắm thứ vật dụng nào dùng cho mình; trước tiên, cần phải xả bỏ thứ vật dụng ấy, đúng theo cách thức mà Ðức Phật đã chế định trong giới luật của Tỳ khưu; sau đó, vị Tỳ khưu ấy mới được phép sám hối với một vị Tỳ khưu khác không có sabhāgāpatti theo cách phạm giới pācittiya. Sau khi làm lễ sám hối xong, vị Tỳ khưu ấy có giới trong sạch trở lại.

Nếu vị Tỳ khưu nào mua bán, trao thứ vật dụng đổi không hợp với giới luật của Tỳ khưu; trước tiên, cần phải xả bỏ thứ vật dụng ấy, đúng theo cách thức mà Ðức Phật đã chế định trong giới luật của Tỳ khưu; sau đó, vị Tỳ khưu ấy mới được phép sám hối với một vị Tỳ khưu khác không có sabhāgāpatti theo cách phạm giới pācittiya. Sau khi làm lễ sám hối xong, vị Tỳ khưu ấy có giới trong sạch trở lại.

Trong giới luật Tỳ khưu, vị Tỳ khưu nào dùng tiền bạc mua sắm một thứ vật dụng nào dùng cho mình, thứ vật dụng ấy là vật làm cho phạm giới, không chỉ vị Tỳ khưu ấy không được phép sử dụng, mà còn các vị Tỳ khưu khác cũng không được phép sử dụng; thậm chí đem cho thứ vật dụng ấy đến vị Sa di, thì vị Sa di ấy cũng không được phép sử dụng nữa.

Như vậy, những thứ vàng, bạc, tiền bạc , vật dụng nào là vật làm cho phạm giới Tỳ khưu, Tỳ khưu cần phải xả bỏ những thứ ấy đúng theo cách thức của mỗi vật, mà Ðức Phật đã chế định trong giới luật của Tỳ khưu. Nếu vị Tỳ khưu nào không chịu xả bỏ thứ vật dụng ấy, thì dầu cho vị Tỳ khưu ấy có sám hối āpatti bao nhiêu lần đi nữa cũng không thể thoát khỏi āpatti (phạm giới).

Tai hại của sự phạm giới

Vị Tỳ khưu nào phạm giới: dầu giới nặng hay nhẹ, như giới tác ác, giới ác khẩu, thì vị Tỳ khưu ấy bị trở ngại cho sự tiến hóa trong mọi thiện pháp, nhất là trở ngại cho sự tiến hành thiền định tiến hành thiền tuệ, trở ngại cho sự chứng đắc các bậc thiền, Thánh Ðạo, Thánh Quả và Niết Bàn.

Trong Chú giải dạy:

"Āpannā āpattiyo’ti, sañcicca vītikkantā satta āpattikkhandhā, sañcicca vītikkantañhi antamaso dukkaṭadubbhāsitampi saggamagga-phalānaṃ antarāyaṃ karoti..." [Bộ Maṅgalatthadīpanī, phần Vinayakathā]

"Āpannā āpattiyo’ti": "Tỳ khưu đã phạm giới": nghĩa là Tỳ khưu có tác ý phạm phải 7 loại āpatti (phạm giới). Sự thật, điều nguy hại đối với Tỳ khưu có tác ý phạm phải āpatti, dầu chỉ là dukkaṭa āpatti (giới tác ác), dubbhāsita āpatti (giới ác khẩu) cũng có thể làm trở ngại cho sự tái sanh lên cõi trời dục giới, cho sự chứng đắc các bậc thiền định, Thánh Ðạo, Thánh Quả...".

Nếu vị Sa di, Tỳ khưu phạm giới ấy, chưa sám hối, chưa làm cho giới trở nên trong sạch trước khi chết, sau khi chết, do giới không trong sạch, thì khó tránh khỏi bị sa đoạ trong cõi ác giới.

Ðức Phật dạy:

"Sāpattikassa bhikkhave nirayaṃ vā vadāmi tiracchānayoniṃ vā’ti. Sāpattikasseva āpāyagamitā vuttā". [Bộ Saraṭṭhadīparūṭīkā , bộ Maṅgalaṭṭhadīpanū]

"Này chư Tỳ khưu, Như Lai răn dạy các con: đối với Tỳ khưu phạm āpatti (giới) sẽ tái sanh cảnh địa ngục, hoặc loài súc sanh. Ðối với Tỳ khưu phạm āpatti (giới) chỉ có con đường ác giới mà thôi".

Xin dẫn chứng:

Trong bộ Chú giải Pháp cú, tích Erakapatta-nāgarājavatthu tóm lược như sau:

Trong thời kỳ Ðức Phật Kassapa, một vị Tỳ khưu trẻ ngồi trên thuyền trong dòng sông Gaṅga, nước chảy xiết, vị Tỳ khưu ấy nắm bụi cỏ bên bờ sông, làm cho đứt lá cỏ, coi thường không sám hối āpatti. Sau đó, vị Tỳ khưu ấy một mình hành đạo trong rừng, đến lúc lâm chung hình ảnh lá cỏ hiện ra như quấn vào cổ, khi ấy, không có vị Tỳ khưu nào để sám hối āpatti, tâm hối hận phát sanh nghĩ rằng: "aparisuddhaṃ me sīlaṃ: giới của mình không trong sạch", nên sau khi vị Tỳ khưu ấy chết, do tâm ô nhiễm ấy, tái sanh làm loài súc sanh là long vương Erakapatta, đến thời kỳ Ðức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, long vương Erakapatta vẫn chưa thoát khỏi kiếp súc sanh.

Ðức Phật chế định giới điều cấm Sa di, Tỳ khưu thọ nhận vàng, bạc, tiền bạc dành riêng cho mình; nếu vị Sa di, Tỳ khưu nào thọ nhận vàng, bạc, tiền bạc riêng cho mình, thì vị Sa di, Tỳ khưu ấy phải phạm giới, giới không trong sạch.

Nếu Sa di, Tỳ khưu nào phạm giới do nguyên nhân thọ nhận vàng, bạc, tiền bạc trực tiếp từ thí chủ dâng đến mình, dẫn đến những tai hại cho đời sống phạm hạnh của Sa di, Tỳ khưu trong kiếp hiện tại và kiếp vị lai, thì thử hỏi:

- Thí chủ có được phước thiện bố thí thật hay không?

- Có phải thí chủ hộ độ Sa di, Tỳ khưu giữ gìn nghiêm chỉnh giới luật của Sa di, Tỳ khưu mà Ðức Phật đã chế định ban hành đến Sa di, Tỳ khưu hay không?

- Có phải thí chủ hành đúng theo lời giáo huấn của Ðức Phật hay không?

- Có phải thí chủ có bổn phận bảo tồn Phật giáo cho được trường tồn lâu dài trên thế gian này không?

V.v....

Ðó là những vấn đề mà thí chủ nên có trí tuệ suy xét đúng đắn, kỹ lưỡng trước khi làm một việc gì.

Làm đúng lời dạy của Ðức Phật, thì có phước.

Làm sai lời dạy của Ðức Phật, thì có tội.

Không làm thì không tạo nghiệp, khi đã làm rồi, thì đã tạo thiện nghiệp hoặc ác nghiệp, mà thiện nghiệp hoặc ác nghiệp đều do con người có quyền chủ động chọn lựa nên hay không nên. Nhưng quả của thiện nghiệp, ác nghiệp thì không có quyền chọn lựa, hoàn toàn bị động, phải chấp nhận như người thừa kế của nghiệp.

Thiện ghiệp cho quả an lạc.
Ác nghiệp cho quả khổ.

Người Phật tử có đức tin trong sạch nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng, tin nơi nghiệp và quả của nghiệp, chắc chắn không có một ai muốn hậu quả không tốt sẽ phát sanh đến cho mình và những bậc thân yêu kính mến của mình. Nhưng một khi đã làm không đúng theo lời dạy của Ðức Phật, đã tạo ác nghiệp rồi, thì dầu muốn dầu không cũng phải chấp nhận quả của thiện ác nghiệp của mình đã tạo.

Bởi vậy cho nên, người Phật tử cần phải nên học hỏi để hiểu biết rõ:

Thế nào là tạo thiện nghiệp?
Thế nào là tạo ác nghiệp?

Thế nào là tạo phước thiện?
Thế nào là tạo tội ác?

Nhờ sự hiểu biết đúng đắn, mới có trí tuệ sáng suốt chọn lựa:

Nên cố gắng tạo mọi thiện nghiệp, mọi phước thiện.
Nên cố gắng tránh xa mọi ác nghiệp, mọi tội ác....

Thì chắc chắn đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài cho mình, cho mọi người, mọi chúng sinh..., đồng thời duy trì Phật giáo được trường tồn lâu dài trên thế gian này, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc cho tất cả chúng sinh nhất là chư thiên và nhân loại.

Biết cách bố thí tạo phước thiện

- Phước thiện bố thí tiền bạc dâng gián tiếp đến Sadi, Tỳ khưu một cách hợp pháp

Thí chủ bố thí dâng tiền bạc trực tiếp đến cá nhân vị Sa di, vị Tỳ khưu là điều bất hợp pháp, vì làm cho vị Sa di, vị Tỳ khưu ấy phải phạm giới.

Trường hợp, người thí chủ có đức tin trong sạch nơi cá nhân vị Sa di, vị Tỳ khưu nào, có tác ý thiện tâm muốn làm phước hộ độ 4 thứ vật dụng cần thiết đặc biệt đến vị Sa di, vị Tỳ khưu ấy; nhưng tự mình không có điều kiện mua sắm những thứ vật dụng cần thiết làm phước bố thí trực tiếp dâng đến vị Sa di, vị Tỳ khưu ấy; thí chủ có thể làm phước thiện bố thí bằng một số tiền theo cách gián tiếp. Trước tiên, thí chủ trao số tiền ấy cho người trung gian "người hộ Tăng" (Veyyāvaccakara), có phận sự lo công việc giúp đỡ hộ độ Sa di, Tỳ khưu trong chùa, nhờ người hộ Tăng thay mặt mình lo mua sắm thứ vật dụng cần thiết để làm phước bố thí dâng đặc biệt đến cá nhân vị Sa di, vị Tỳ khưu ấy. Sau đó, thí chủ đến bạch cho vị Sa di, Tỳ khưu ấy biết rõ rằng:

Kính bạch Sư (Ðại Ðức), con có gởi một số tịnh tài (tiền) nhờ người hộ Tăng "tên A" thay mặt con tìm những thứ vật dụng cần thiết dâng đến Sư (Ðại Ðức), khi nào Sư (Ðại Ðức) cần đến thứ vật dụng nào, xin thỉnh Sư đến gặp người hộ Tăng "tên A" ấy, nhờ người ấy đi tìm thứ vật dụng ấy dâng đến Sư (Ðại Ðức).

Ðiều này đã được Ðức Phật cho phép trong giới thứ 10 trong phần 30 điều giới Nisssaggiya pācittiya.

Trong điều giới này, thí chủ muốn làm phước dâng một thứ vật dụng nào, bằng một số tiền tương đương, đến riêng cá nhân vị Tỳ khưu nào, vị Tỳ khưu ấy phải từ chối bằng khẩuthân, không được phép thọ nhận trực tiếp số tiền ấy, cũng không sai bảo người khác nhận cho mình. Nếu người thí chủ hỏi để biết người hộ Tăng, thì vị Tỳ khưu ấy có thể giới thiệu cho thí chủ được biết người hộ Tăng ấy. Ðiều trước tiên, thí chủ trực tiếp đến gặp người hộ Tăng và gởi số tiền, nhờ mua sắm giùm thứ vật dụng ấy. Sau đó, thí chủ đến bạch cho vị Tỳ khưu ấy biết. Khi nào vị Tỳ khưu ấy cần đến thứ vật dụng ấy, có thể đến gặp người hộ Tăng bảo rằng: Sư cần đến thứ vật dụng ấy. Người hộ Tăng đi tìm mua sắm thứ vật dụng ấy thay mặt thí chủ làm phước dâng đến vị Tỳ khưu ấy, thuộc về cá nhân thí, nên phước thiện bố thí được nhiều hay ít, tuỳ thuộc vào người thọ thí có giới đức trong sạch hay không trong sạch. Ðó là việc làm hợp với giới luật của Ðức Phật đã ban hành.

- Phước thiện bố thí tiền bạc dâng trực tiếp đến chư Tỳ khưu Tăng

Thí chủ có đức tin trong sạch đến chư Tỳ khưu Tăng, có tác ý thiện tâm muốn làm phước hộ độ 4 thứ vật dụng cần thiết đến chư Tỳ khưu Tăng. Thí chủ ấy có thể làm phước bố thí dâng một số tiền trực tiếp đến chung cho chư Tỳ khưu Tăng (không riêng cho cá nhân vị Tỳ khưu nào), để lo mua sắm những thứ vật dụng cần thiết đến chư Tỳ khưu Tăng. Vị Ðại Ðức đại diện chư Tỳ khưu Tăng có thể trực tiếp nhận số tiền ấy bằng khẩu (lời nói), nhưng không nên thọ nhận trực tiếp tiền bạc bằng thân [*], vì tiền bạc là vật mà Tỳ khưu không nên đụng chạm. Do đó, vị Ðại Ðức gọi người hộ Tăng cất giữ số tiền bạc ấy, và đi mua sắm những thứ vật dụng dâng chung đến chư Tỳ khưu Tăng.

[*] Tiền bạc, vàng, bạc, các đồ châu báu là những vật mà Tỳ khưu đụng chạm vào bị phạm giới dukkaṭa; nếu thọ nhận riêng cho mình thì phạm giới pācittiya, cần phải xả bỏ.

Thí chủ biết cách làm phước thiện bố thí đến chư Tỳ khưu Tăng, thuộc về Tăng thí, chắc chắn có phước thiện vô lượng, và có quả báu của phước thiện vô lượng kiếp.

* Phước thiện bố thí tiền bạc cúng dường Tam bảo

Thí chủ có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, có tác ý thiện tâm muốn dâng một số tiền, để cúng dường Tam bảo.

Cúng dường Phật bảo: xây cất chánh điện để tôn thờ Ðức Phật, tu sửa chánh điện, v.v....

Cúng dường Pháp bảo: ấn hành kinh sách, để truyền bá giáo pháp của Ðức Phật.

Cúng dường Tăng bảo: hộ độ 4 thứ vật dụng cần thiết như: y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh đến chư Tỳ khưu Tăng.

Vị Sa di, vị Tỳ khưu nào theo pháp học, nên mua sắm sách, vở ... dâng đến vị Sa di, vị Tỳ khưu ấy.

Vị Sa di, vị Tỳ khưu nào theo pháp hành, nên hộ độ đặc biệt y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh đến vị Sa di, vị Tỳ khưu ấy.

Nếu vị Sa di, vị Tỳ khưu bị lâm bệnh, nên hộ độ đặc biệt cứu chữa cho vị Sa di, vị Tỳ khưu ấy mau khỏi bệnh.

Thí chủ có đức tin trong sạch, có tác ý thiện tâm dâng tiền bạc dầu ít dầu nhiều tuỳ theo khả năng của mình cúng dường Tam bảo, chắc chắn có phước thiện bố thí vô lượng, có quả báu của phước thiện vô lượng kiếp.

Như vậy, thí chủ có thể làm phước thiện bố thí dâng một số tiền trực tiếp đến vị Ðại Ðức trụ trì chùa, hoặc một vị Ðại Ðức đại diện chư Tỳ khưu Tăng thọ nhận trực tiếp bằng khẩu (lời nói), nhưng không nên thọ nhận trực tiếp tiền bạc bằng thân. Vị Ðại Ðức ấy gọi người hộ Tăng trong chùa cất giữ số tiền ấy, để lo phụng sự ngôi Tam bảo.

Phật Giáo Tồn Tại

Giáo pháp Ðức Phật Gotama của chúng ta được tồn tại 5.000 năm trên thế gian, có nghĩa là đến thời điểm đó, Phật giáo hoàn toàn bị tiêu hoại, bị mất hẳn. Bởi vì, không còn có người nào học và hành, hiểu biết về Phật giáo nữa.

Phật giáo đó là pháp học Phật giáo, pháp hành Phật giáo pháp thành Phật giáo. Hoàn toàn thuộc về nội tâm, không có một hình thức nào.

Thời kỳ Phật giáo phát triển, nhờ các hàng Phật tử là bậc xuất gia và tại gia cư sĩ tinh tấn, kiên trì, chăm chỉ theo học pháp học, thông thuộc Tam tạng, Chú giải bằng ngôn ngữ Pāḷi, lời giáo huấn của Ðức Phật, và thực hành nghiêm chỉnh theo pháp hành giới, hành định, hành tuệ, dẫn đến kết quả chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn.

Ðến thời kỳ Phật giáo suy đồi; do các hàng Phật tử là bậc xuất gia, và tại gia cư sĩ dần dần chểnh mảng việc theo học pháp học, giảm dần đức tin, thiếu tinh tấn thực hành theo pháp hành giới, pháp hành định, pháp hành tuệ. Do đó, A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh Quả bậc cao bị tiêu hoại từ từ, đến bậc Bất Lai Thánh Ðạo – bậc Bất Lai Thánh Quả; bậc Nhất Lai Thánh Ðạo – bậc Nhất Lai Thánh Quả; cho đến cuối cùng bậc Nhập Lưu Thánh Ðạo – Nhập Lưu Thánh Quả bậc thấp cũng suy đồi. Theo thời gian, trí tuệ kém dần, số hành giả tiến hành thiền tuệ không còn đúng theo Pháp hành Trung đạo, do đức tin giảm dần, nên việc gìn giữ giới không hoàn toàn trong sạch.

Sự tiêu hoại về pháp học Phật giáo, bắt đầu tiêu hoại Vi diệu pháp tạng bằng ngôn ngữ Pāḷi, còn Kinh tạng và Luật tạng, thì Phật giáo vẫn còn tồn tại.

Ðến khi tiêu hoại Kinh tạng bằng ngôn ngữ Pāḷi, còn Luật tạng, thì Phật giáo vẫn còn tồn tại.

Ðến khi Luật tạng tiêu hoại dần, chỉ còn hình thức Tỳ khưu mặc y màu lỏi mít, khi ấy Phật giáo vẫn còn tồn tại.

Cho đến khi hình thức chỉ còn một miếng vải màu y quấn nơi cổ hoặc cột cổ tay, vẫn còn nghe gọi tên "Tỳ khưu", khi ấy Phật giáo vẫn còn tồn tại. Cho đến không còn miếng vải màu y, cũng không còn ai gọi đến tên "Tỳ khưu" nữa, lúc ấy, thật sự Phật giáo hoàn toàn tiêu hoại trên thế gian. Như vậy, Luật tạng là nền tảng căn bản của Phật giáo.

Trong Chú giải Luật tạng dạy:

"Vinayo nāma Buddhasāsanassa āyu
Vinaye ṭhite, sāsanaṃ ṭhitaṃ hoti".

[Vinayapiṭaka aṭṭhakāthā, Parājikakaṇṇānidāna]

"Luật tạng là tuổi thọ Phật giáo,
Khi Luật tạng được trường tồn,
Thì Phật giáo được trường tồn".

Cho nên, công việc bảo tồn Phật giáo là phận sự chung của các hàng Phật tử: bậc xuất gia và hàng tại gia cư sĩ.

Phật giáo được phát triển hay suy đồi chính là do bên trong các hàng Phật tử; còn bên ngoài, người ngoài chắc chắn không thể làm cho Phật giáo được phát triển hoặc suy đồi.

Vậy, muốn cho pháp học Phật giáo được phát triển, mỗi người Phật tử cần phải học hỏi nghiên cứu, hiểu rõ đúng đắn theo Tam tạng – Chú giải bằng ngôn ngữ Pāḷi, lời giáo huấn của Ðức Phật và động viên khuyến khích người khác cũng học như vậy.

pháp hành Phật giáo được phát triển, mỗi người Phật tử cần phải gìn giữ giới cho được trong sạch, tinh tấn tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ đúng theo Pháp hành Trung đạo, và động viên khuyến khích người khác cũng hành như vậy.

Như vậy, Phật giáo có thể phát triển nơi người Phật tử này, lại có thể suy đồi nơi người Phật tử khác.

Phật giáo có thể phát triển nơi này, lại có thể suy đồi nơi khác.

Phật giáo có thể phát triển nơi dân tộc này, lại có thể suy đồi nơi dân tộc khác.

Cho đến khi Phật giáo không còn tồn tại nơi người nào cả, nơi dân tộc nào cả, khi ấy mới gọi là Phật giáo hoàn toàn tiêu hoại trên thế gian.

Giáo pháp của Ðức Phật Gotama trường tồn 5.000 năm trên thế gian. Như vậy, đến nay đã trải qua 2.546 năm rồi, phần thời gian còn lại 2.454 năm nữa. Cho nên, chúng ta nhận thấy Phật giáo đang suy đồi nơi một số người này, một dân tộc này, đó cũng là việc bình thường tự nhiên. Ðiều tốt hơn hết, mỗi người trong chúng ta, ai cũng có tâm niệm đúng đắn rằng: "Phật giáo đang hiện hữu trong tôi, tôi cố gắng tinh tấn, kiên trì làm cho Phật giáo được phát triển".

Như vậy, Phật giáo được trường tồn sẽ đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an vui cho tất cả chúng sinh, nhất là chư thiên và nhân loại.

Tiếp theo


[Ðầu trang][Trở về trang Mục lục][Trở về trang Thư Viện]

updated: 2008