Trung Tâm Hộ Tông  Trang Chủ



Thực Tại Hiện Tiền 2

Tác giả: Viên Minh


Chương 1:
Nghỉ ngơi buông xả
(Thư thái)

Ngày nay, nhân loại đã tiến bộ rất xa về mặt khoa học, kỹ thuật, đã làm thay đổi bộ mặt thế giới từng ngày, từng giờ và thậm chí từng phút, từng giây nên đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... đều được nâng cao một cách đáng kể. Nhờ phương tiện giao thông vận tải, phương tiện truyền thanh, truyền hình, mạng internet, vô tuyến viễn thông... mà thế giới đã và đang hội nhập thành một cộng đồng quốc tế với qui mô toàn cầu hóa. Điều này đem đến không biết bao nhiêu phúc lợi xã hội, tiện nghi đời sống… đủ để đáp ứng nhu cầu hưởng thụ ngày càng đa diện và phong phú cho con người.

Tuy nhiên, để có được những thành quả ấy, cư dân trên trái đất nầy đã phải khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên: Khoáng sản, lâm sản, hải sản, nhiên liệu… Đồng thời, khí thải từ các nhà máy, từ tàu thuyền xe cộ, từ các thiết bị dân dụng, các sóng điện từ, các chất hóa học độc hại, từ phóng xạ nguyên tử v.v đã làm ô nhiễm môi trường sống, phá vỡ tầng ozone, thay đổi khí hậu, thời tiết, phát sinh nhiều loại siêu vi nguy hiểm, những căn bệnh ngặt nghèo…

Hơn thế nữa, mọi người dường như đang tăng tốc đến chóng mặt trong mọi lãnh vực đời sống, đòi hỏi tận dụng mọi tiềm năng để phấn đấu, tranh thủ, giành giựt… và thậm chí, còn sẵn sàng trừ khử lẫn nhau bằng nhiều mưu mô, thủ đoạn… trong những cuộc chạy đua đủ loại tầm cỡ giữa những cá nhân, tập thể, xí nghiệp, công ty, quốc gia, xã hội, hay quy mô toàn thế giới.

Trong tình huống đó, dĩ nhiên mọi người bị lôi cuốn vào giữa cơn lốc của thành – bại , được – mất , hơn – thua, vui – khổ; để rồi, một lúc nào đó - bạn chợt thấy mình và những người xung quanh trở nên quá hấp tấp, nôn nóng, vội vã, khẩn trương… kèm theo những nỗi lo âu, sợ hãi, căng thẳng, bức xúc, cay cú, giận dữ… và lắm khi đưa đến thác loạn; nghĩa là những rối loạn nội tại ít nhiều ảnh hưởng đến hệ thần kinh, đưa đến những di chứng nguy hiểm về mặt tâm thần.

Trong tình trạng bất an mà sự căng thẳng có nguy cơ đưa đến suy sụp cả thể chất lẫn tinh thần này, bạn cần phải bình tĩnh. Không nên lăng xăng, hối hả tìm biện pháp giải quyết; vì càng nôn nóng giải quyết, dù bằng cách nào, thì sự căng thẳng sẽ càng gia tăng và kiên cố hơn mà thôi.

Đơn giản là bạn chỉ cần cho phép thân tâm bạn được nghỉ ngơi vô sự - nghỉ ngơi hoàn toàn - dù chỉ một lát thôi; nghĩa là, đừng dụng công, đừng gắng gượng, đừng khống chế, đừng cố bắt ép nó đứng yên.

Yên tâm không phát xuất từ sự gượng ép làm cho tâm yên, mà phải để cho nó nghỉ ngơi thật thoải mái, tự nhiên, vì đó là nhu cầu thật sự của thân tâm bạn. 

Hãy để cho thân bạn thư giãn và buông lỏng, từ đầu tới chân, và tâm bạn buông xả trước mọi sự bận rộn, đa đoan trong những lo âu toan tính đời thường. Hãy nghĩ lại mà xem: Bạn đã bắt cái thân làm việc quá nhiều, sao lại không cho phép nó được nghỉ ngơi trong chốc lát? Cũng vậy, tâm bạn đã bận rộn với quá nhiều lo tính, sao thỉnh thoảng không cho nó được rỗng rang vô tư để tinh thần tự ổn định và tự phục hồi năng lực? Đó chính là nguyên lý: “Điềm đạm hư vô chân khí tùng chi”  của Y Đạo phương Đông vậy.

Sau đây là một vài gợi ý để bạn có thể nắm vững nguyên tắc vận dụng sự buông giãn cho từng tình huống riêng của bạn:

- Nếu trong khi đang làm việc ở bàn giấy, bạn cảm thấy căng thẳng, hãy dựa lưng vào thành ghế, ngả đầu ra đàng sau, hai tay buông xuôi, hai chân duỗi ra, nhắm mắt lại và để cho tâm bạn trống rỗng, nghỉ ngơi.

- Bạn cũng có thể đứng lên, dang hai chân ra ngang vai, gập người buông rủ xuống phía trước, chao thân mình qua lại để cho đầu và hai tay đu đưa như cành liễu rủ, bạn sẽ cảm thấy cả thân lẫn tâm nhẹ nhàng hẳn ra.

- Hoặc nếu bạn biết thái cực quyền, hãy đứng xoay eo trong trạng thái hoàn toàn buông lỏng, không cần sử dụng cơ bắp, giống như chiếc áo treo hờ, xoay qua xoay lại tự nhiên trong gió vậy.

- Nếu bạn làm việc quá tải, cảm thấy lao tâm, lao lực, hãy nằm ngửa xuống, hơi dang hai tay, hai chân ra một tí, nhắm mắt lại, thở thật tự nhiên, buông lỏng hoàn toàn. Bạn hãy làm như một diễn viên điện ảnh đang đóng vai giả chết. Đó là savasana (thế xác chết) trong hattha-yoga. Yoga nói rằng nếu bạn có thể buông bỏ tất cả như một xác chết trong vòng 20 phút thì bạn có thể phục hồi hoàn toàn những năng lực mà bạn đã mất đi trong 24 tiếng đồng hồ vừa qua.

- Trong tư thế ngồi thiền phổ thông nhất như bán già hay kiết già bạn nên ngồi ngay thẳng nhưng không được gồng cứng mình! Yếu tố đầu tiên, quan trọng nhất là phải buông lỏng cả thân lẫn tâm; và hãy lắng nghe trạng thái buông giãn ấy thật tự nhiên, không cần cố gắng để đạt được một mục đích nào cả.

- Nếu bạn cảm thấy khi ngồi khó thư giãn toàn thân thì nên thư giãn từng vùng, lần lượt từ đầu, mặt, xuống cổ, vai, hai tay, ngực, bụng, hai chân… cho đến khi cảm thấy toàn thân thư giãn, lắng dịu và nghỉ ngơi hoàn toàn.

- Thực ra không nhất thiết phải ngồi, bạn có thể thư giãn trong bất cứ tư thế nào mà bạn cảm thấy thoải mái, như đi, đứng, nằm...; và khi ngồi thì ngồi trong tư thế nào cũng được. Thậm chí, bạn cứ sinh hoạt bình thường, không cần phải ngưng lại; ở trường hợp này,  bạn có thể thư giãn, buông xả ngay trong chính công việc mà mình đang làm - thì thật là tuyệt vời biết bao!

- Đi tản bộ hay đi kinh hành một cách thong thả, ung dung, thoải mái, không cần gán thêm vào động tác đi bất kỳ ý nghĩa, mục đích lý tưởng nào, chỉ cần đi một cách thư thái tự nhiên là được.

Thư giãn, buông xả, nghỉ ngơi hoàn toàn là yếu tố cơ bản không thể bỏ qua trong bất kỳ tâm thái thiền nào.

Rất nhiều người xem thường yếu tố cơ bản này, họ quyết tâm đi thẳng vào thiền định, thiền tuệ hay thiền công án, hy vọng sẽ có kết quả nhanh! Nhưng hãy coi chừng: Càng mong kết quả nhanh chừng nào thì kết quả càng đến chậm chừng đó!

Thực ra, tự thân sự thư giãn, buông xả đã mang lại nhiều kết quả lớn lao như thân tâm được ổn định, đồng thời, nhiều vấn đề bức xúc, bế tắc ngay trong cuộc sống sẽ tự động hóa giải, mà không cần giải quyết hay mong chờ một giải pháp lý tưởng, một mục tiêu viễn vong nào ở tương lai.

Sau đây là một số hiệu quả tự nhiên của thư giãn buông xả:

1. Tình trạng thân căng thẳng thường kèm theo nhiều bệnh chứng như co cứng, đau nhức, hồi hộp, khó thở, nhồi máu cơ tim, huyết áp cao, suy nhược thần kinh... Vì vậy thân thư giãn là điều kiện tốt nhất để hóa giải căng thẳng, giúp tật bệnh được điều trị dễ dàng và sức khỏe được phục hồi nhanh chóng. Mặt khác, căng thẳng tâm lý cũng sinh ra nhiều tâm bệnh như bứt rứt, bực bội, lo âu, mặc cảm, u uất, hoang tưởng... Do đó, tâm buông xả đưa đến tinh thần lắng dịu,  hóa giải tình trạng dồn nén, bức xúc... Đó chính là nguyên lý: “Tinh thần nội thủ bệnh an tùng lai”  trong y Đạo phương Đông.

2. Khi quá nôn nóng, hấp tấp, căng thẳng bạn thường hành động, nói năng, suy nghĩ thiếu chính xác và dễ bị tiêu hao năng lực. Nhưng thân tâm khinh an, thư thái sẽ là cơ sở nền tảng cho hành động, nói năng và suy nghĩ của bạn được đúng đắn, chính xác hơn.

3. Một tâm trí bị sử dụng quá tải sẽ cảm thấy mệt mỏi, cạn kiệt, chán chường, bức bối, sợ hãi… Trong buông xả trọn vẹn, tinh thần được thoải mái nên những phiền não bức xúc tự động lắng dịu và tự nhiên được hóa giải. Ngược lại, bạn càng cố gắng diệt trừ phiền não thì chúng càng gia tăng cường độ.

4. Khi thân tâm được nghỉ ngơi hoàn toàn thì nó có thể hướng đến bất kỳ một đối tượng thiền định tự nhiên nào... như một ngọn lá xanh, một ô cửa trống, một áng mây bay… để tâm được an trú; hay hướng đến bất kỳ một đối tượng thiền tuệ nào... như những trạng thái diễn biến nơi thân, nơi cảm giác, nơi tâm hay nơi sự tương giao vận hành của thân tâm, để sáng suốt thấy rõ bản chất như thật  của mọi hiện tượng trong đời sống.

Hỏi:

- Khi tôi thư giãn, buông xả một lát thì bị rơi vào giấc ngủ, như vậy là xấu hay tốt?

Đáp:

- Khi tâm thần căng thẳng bạn thường xuyên ngáp dài, rất uể oải, mệt mỏi có vẻ như buồn ngủ lắm; nhưng nằm xuống ngủ lại không ngủ được. Đó là biểu hiện trạng thái suy nhược thần kinh. Nếu bạn đang bị căng thẳng mà sau khi thư giãn, buông xả một lát, bạn chìm vào một giấc ngủ ngon lành - thì đó quả là một liều thuốc an thần tự nhiên, giúp thân tâm bạn tự động điều chỉnh một cách tuyệt vời. Nhưng nếu trong tình trạng bình thường mà khi nào thư giãn bạn cũng bị rơi vào giấc ngủ - thì đó là hôn trầm, thụy miên - trạng thái này là một trở ngại, không tốt chút nào cho sức khỏe thể chất và sự tỉnh táo, sáng suốt tinh thần! Trong trường hợp đó, bạn nên đi trong buông lỏng hơn là ngồi hay nằm. Nếu phải ngồi thì sau khi thư xả, để khỏi hôn trầm thụy miên, bạn nên chú tâm quan sát rõ hơi thở vào ra.  Sự chú hướng đúng mức vào một đối tượng sẽ giúp tâm bạn tỉnh táo hơn. Nếu làm như thế cũng không hết dã dượi uể oải thì bạn nên đi tắm rửa hoặc ra ngoài trời đi đi lại lại cho tỉnh táo hơn. Nếu thích ngồi, bạn nên ngồi thiền nơi có ánh sáng, không khí mát mẻ và trước khi ngồi không nên ăn no.

Hỏi:

- Ngược lại, tôi hầu như không thể thư giãn, buông xả được. Thân tôi cứ như cứng đờ ra và tâm tôi thì gần như lúc nào cũng bận rộn, không thể rời khỏi những mối quan tâm của nó. Vậy làm sao để buông thư?

Đáp:

- Gặp trường hợp ấy, bạn nên làm quen với thư giãn về thân trước. Trong khi thử thư giãn, bạn nên để tâm theo dõi từng động tác một cách tự nhiên, không nên quá cố gắng tập chú cũng không nên lơ là, chểnh mảng. Nếu bạn cảm thấy thân không được mềm dẻo, linh hoạt do thường làm một số động tác nào đó lâu ngày mà trở nên chai lỳ; hoặc thường xuyên đề kháng, cảnh giác mà trở thành đờ cứng thì bạn nên chơi thể thao, đi bộ thong thả... Cũng có thể tập thái cực quyền hay thể dục dưỡng sinh đơn giản để thân bớt đờ cứng, dần dần sẽ mềm dẻo, nhẹ nhàng và linh hoạt hơn.

- Trong khi tập cho thân thư giãn như thế bạn nên quan sát các động tác của thân một cách tự nhiên - không quá chuyên chú, cũng không lơ đễnh - thì tâm bạn sẽ tự động được khinh an, thư thái và buông xả ngay.

Hỏi:

- Có những công việc đòi hỏi phải quan tâm một cách khẩn trương, căng thẳng, không cho phép chúng ta được quyền thư giãn, buông xả, nghỉ ngơi thoải mái một giây phút nào; vì nếu làm vậy thì chẳng khác nào chúng ta đang trốn tránh một trách nhiệm nào đó?

Đáp:

- Có lẽ bạn nên hiểu ngược lại! Chính vì để làm tròn trách nhiệm đối với những công việc đòi hỏi phải khẩn trương, căng thẳng mà chúng ta cần phải biết thư xả. Buông lỏng giúp giảm bớt căng thẳng, nhanh chóng phục hồi năng lực để tiếp tục công việc và nhờ vậy sẽ đạt được hiệu quả cao. Một người có khả năng thư xả khi phải đối đầu với những công việc khẩn trương thì chẳng bao lâu anh ta sẽ thản nhiên, nhẹ nhàng trong những công việc khó khăn nhất.

- Nếu sự khẩn trương, căng thẳng tích lũy lâu ngày không hóa giải được sẽ đưa đến suy nhược tâm thần, lúc đó không những không làm tròn trách nhiệm mà sự luống cuống của bạn còn phá hỏng công việc nữa là khác.

Hỏi:

- Nhưng như thế tôi phải mất một khoảng thời gian nhất định cho sự buông thư? Mà thời gian của tôi không cho phép thì sao?

Đáp:

- Thực ra, lúc đầu chúng ta nên tập quen với sự thư giãn, buông xả; khi đã nhuần nhuyễn rồi, bạn có thể thư xả ngay nơi công việc nên không cần phải mất một khoảng thời gian nào. Nếu bạn thường căng thẳng mà không biết thư xả thì hậu quả sẽ khó lường; lúc đó, có thể không phải  chỉ mất một khoảng thời gian mà có khi mất cả quãng đời còn lại!

Hỏi:

- Xin hỏi thêm: Nói thư giãn tức là đã hàm ý phải cố gắng làm cho thân thư giãn. Nhưng đã cố gắng thì vô hình trung lại tạo thêm một sự căng thẳng khác. Buông xả cũng vậy, muốn loại bỏ cái gì ra khỏi tâm trí chúng ta thì vẫn phải dụng lực. Ví dụ, muốn buông bỏ một nỗi buồn đâu phải là dễ. Như vậy, dụng lực hay không dụng lực đều không buông bỏ được. Bây giờ phải làm sao đây?

Đáp:

- Dường như bạn nhầm lẫn giữa hai sự kiện: cố gắng thể lực và cố gắng tâm lý. Khi thân căng thẳng, mệt mỏi bạn có quyền thư giãn, đó là một đáp ứng hay phản xạ rất tự nhiên, giống như bạn siêng năng tập thể dục thể thao mỗi khi khí huyết bất thông, chân tay nhức mỏi v.v... thì có vấn đề gì đâu. Chẳng lẽ bạn cố gắng thư giãn vì một mục đích lý tưởng cao siêu nào đó? Nếu vậy thì không còn thuộc lãnh vực thể lý mà đã bước sang vấn đề tâm lý mất rồi. Bạn cần thấy rõ thân thư giãn và tâm buông xả là hai lãnh vực hoàn toàn khác nhau.

Cố gắng tâm lý để buông xả mới là trọng tâm câu hỏi của bạn, phải không? Tuy nhiên, ở đây bạn lại một lần nữa nhầm lẫn giữa buông xả và buông bỏ. Bạn đã đồng hóa buông xả với buông bỏ theo nghĩa “loại ra khỏi tâm trí” một nỗi buồn, chẳng hạn.

Về mặt tâm lý, những từ cố gắng, nỗ lực, dụng công đồng nghĩa với dụng tâm, dụng ý hay chủ ý… tức là  nỗ lực của ý chí muốn đạt được một điều gì đó. Chính ý chí này là biểu hiện của cái “ta” hay “bản ngã”.

Mặt khác, khi bạn xem những mối lo âu, sợ hãi, chán nản, buồn phiền, thất vọng… là đối tượng cần phải buông bỏ vì đã làm bạn khổ đau, căng thẳng, nghĩa là bạn muốn trút bỏ gánh nặng đang gây áp lực cho bạn để được tự do giải thoát khỏi mọi ưu phiền, phải không? Như vậy, đúng là bạn phải dụng lực để rồi lại rơi vào vòng lẩn quẩn của cái ta muốn giải quyết vấn đề hay muốn lẩn tránh thực tại.

Thực ra, bạn không cần làm gì để giải quyết vấn đề cả, đó mới thực là buông xả. Cứ để yên tất cả mọi thứ ở chỗ của chúng, đừng cố gắng loại bỏ điều gì, vì không cách nào bạn bỏ chúng được cả. Khi bị dồn ép những phiền não này chỉ ẩn vào vô thức chứ không bị hủy diệt. Lúc đó bạn còn đâu cơ hội để thấy ra mặt thực của chúng! Mà bao lâu chưa thấy ra thực tánh của phiền não thì dù bạn làm gì chúng vẫn là mối thách thức suốt đời của bạn.

Bởi vì, dụng tâm loại bỏ chỉ tạo ra một sự đối kháng mà hậu quả là tăng thêm bất an, căng thẳng, phiền não, khổ đau. Vậy, buông xả đơn giản chỉ là buông xuống cái “ta tác nhân” của mọi nỗ lực đối kháng, chứ không phải  nỗ lực loại bỏ những hậu quả mà cái “ta” đã gây ra.

Nói buông xuống nhưng thực ra chỉ cần bạn không làm gì cả để cho tâm được nghỉ ngơi vô sự khỏi mọi ý đồ của cái ngã lăng xăng tạo tác. Lúc đó, mặc dù bạn không cố gắng loại trừ nhưng phiền não lại tự trở thành vô hiệu.

Chương 2:
Trở về thực tại
(Chánh niệm)

Con người từ lúc mới sơ sinh đã biết hướng ra thế giới bên ngoài để thu thập những thông tin cần thiết cho đời sống. Đến bốn năm tuổi đã tích lũy được những kiến thức cơ bản để có thể xử lý những sinh hoạt thông thường. Sau đó nhờ học tập từ gia đình, bè bạn, học đường và cộng đồng xã hội; kết hợp với khả năng tư duy, chiêm nghiệm, phán đoán mà kỹ năng và kinh nghiệm ngày càng phong phú, đa dạng và cũng càng phức tạp hơn.

Nếu một người không thể tiếp thu thông tin cần thiết từ bên ngoài thì anh ta chỉ có thể sống một đời sống thực vật. Vì vậy, hướng ra bên ngoài không phải là một sai lầm - mà đó chính là điều kiện tiến hóa tất yếu của đời sống con người trong cộng đồng xã hội.

Cái sai đưa đến phiền não, khổ đau, chán chường, thất vọng… chính là ở chỗ: Con người không biết rằng mình đã dần dần bị dính mắc, sa lầy, sống lệ thuộc vào thế giới bên ngoài đến độ hoàn toàn bỏ quên chính mình – vong  thân – và  tha hóa... Albert Camus đã giật mình khi phát hiện rằng, mình không còn là chính mình nữa mà đã trở thành một kẻ lạ mặt  tự bao giờ!

Trên mỗi đối tượng tiếp xúc hàng ngày, chúng ta không ngừng gia thêm những tình cảm, chẳng hạn như ưa, ghét, tham, sân... rồi tùy thuộc vào những cảm tính đó chúng ta chủ quan chọn lựa, lấy bỏ.

Ở một mức độ nào đó, điều này xem ra cũng là chuyện tự nhiên, bình thường; nhưng khi những thái độ này ngày càng được tích lũy, vun bồi, gia tăng, phát triển cho đến khi trở nên quá sâu dày, kiên cố... thì bắt đầu trở nên nguy hiểm!

Tại sao? Lý do là chúng ta đã hình thành những thành kiến, cố chấp, hận thù, oan kết hay những say mê, chìm đắm trong thế giới bên ngoài, đến độ chúng ta đánh mất khả năng quay trở lại chính mình.

Điều này biểu hiện quá rõ đối với những người ghiền cờ bạc, rượu chè, ma tuý... Nhưng thật ra, ít nhiều gì chúng ta cũng đều sống trong một mức độ vong thân nào đó. Bằng chứng là khi yêu ai hay giận ai, khi thất bại hay nhục nhã… chúng ta có thể quên ăn, mất ngủ, đứng ngồi không yên; kẻ thì lo âu, sợ hãi, người lại thất thần, đãng trí…

Kết quả tâm lý ấy đơn giản chỉ vì chúng ta đã bị dính mắc khá sâu vào ngoại cảnh. Lúc đó, chúng ta muốn nghỉ ngơi, thanh thản dù chỉ trong chốc lát cũng không phải dễ dàng gì!

Trường hợp trên giống như ví dụ này: Tâm chúng ta co giãn như một sợi dây thun. Nếu sợi dây thun bị kéo quá căng và dính kẹt vào một vật nào đó, một lát hay một vài lần thôi thì có vẻ như không sao; nhưng nếu bị kéo căng lâu ngày hay nhiều lần thì sợi thun khó có thể trở lại trạng thái bình thường ban đầu.

Cho nên, một khi đã bị căng giãn bất khả hồi thì xem như dây thun đã hỏng. Một cái cân lò xo cũng vậy, nếu cân quá tải nhiều lần, nó có thể bị giãn ra và không trở về số không được nữa! Trường hợp cái cân bị hỏng thì ai cũng dễ dàng phát hiện, nhưng ít ai có thể nhận ra cái tâm mình đã bị hư hỏng quá nặng một khi nó bị dính mắc quá nhiều không còn rỗng rang, thư thái được nữa.

Bạn có thể ngồi yên lặng một lát được không? Khó lắm, nếu như bạn đang bị ràng buộc vào một cái gì đó, bấy giờ cái tâm của bạn đang tự biểu lộ là nó đã bị lệ thuộc và dính mắc đến mức độ nào.

Một người đang bận tâm, hay đang chìm sâu trong những kỷ niệm vui buồn quá khứ, đang toan tính cho một viễn ảnh tương lai, đang mong cầu một sở đắc, đang tức giận hoặc say mê ai đó… thì khó có thể tập trung vào hiện tại hay trở lại với chính mình.

Khi chúng ta phiền não, khổ đau, lo âu, sầu muộn… tức là chúng ta đang để cho ngoại cảnh can dự quá nhiều vào đời sống nội tại của mình.

Trước hết chúng ta phải thấy ra tình trạng vong thân, tha hóa này để tự cứu mình ra khỏi sự lệ thuộc, sự dính mắc, sự buộc ràng vào thế giới xung quanh.

Khi chúng ta gỡ sợi dây thun ra khỏi chỗ dính mắc, phản xạ đầu tiên là nó sẽ trở về tình trạng tự nhiên ban đầu của nó. Cũng vậy, sau khi được thư giãn, buông xả, nghỉ ngơi hoàn toàn, tâm trí chúng ta sẽ tự quay về với thực tại thân - thọ - tâm – pháp. Trở về thực tại, Thiền Vipassanā gọi là chánh niệm, Thiền Tông gọi là hồi quang phản chiếu.

Tâm có chánh niệm thì không lang thang hướng ngoại  hay bỏ mặc chính mình – không thất niệm ngay nơi thực tại thân tâm đang diễn ra trong mỗi người.

Tuy nhiên, trở về với chính mình không phải là trở về khởi điểm đã trôi vào quá khứ, mà chính là trở về tình trạng đang là - thay vì cố gắng giải quyết, chọn lựa, lấy bỏ đối tượng. Ngay lúc đó, bạn chỉ cần trọn vẹn với thực tại mà không cần thêm bớt bất cứ điều gì.

Có thể bạn chánh niệm trên một đối tượng bên ngoài, hãy trọn vẹn với đối tượng ấy, không xao lãng, cũng không chìm đắm là được.

Sau đây là một vài gợi ý điển hình giúp bạn dễ dàng trở về với thực tại:

- Có thể bạn thấy mình đang thở, cứ để yên cho nó tiếp tục thở như nó là, đừng thêm bớt gì cả. Nhớ là đừng thêm động tác nào nhằm làm chủ nó, hãy để hơi thở làm công việc tự nhiên của nó, đó chẳng phải là sở trường của nó sao?

Nhiều người tưởng rằng thiền hơi thở là phải thở theo một cách nào đó để định tâm, nhưng làm như vậy bạn lại xen vào trạng thái tự nhiên của hơi thở, đồng thời bạn bị rơi vào qui trình của sự dính mắc bên trong. Trừ phi bạn đang tập kỹ thuật dưỡng sinh, yoga hay khí công gì đó.

Không dính mắc, không có nghĩa là hoàn toàn bỏ rơi thế giới bên ngoài. Đời sống là một sự tương giao gắn bó trong ngoài. Nếu bạn dính vào bên ngoài thì quên mất bên trong, và ngược lại. thế là bạn tự cô lập, phân ranh, một chiều, tức là bạn chỉ sống được một nửa sự sống của bạn mà thôi! Hay đúng hơn, bạn vẫn còn bị vướng kẹt bên lề cuộc sống vốn luôn trôi chảy không ngừng.

Đức Phật lấy ví dụ một khúc gỗ trôi giữa dòng sông. Nếu nó kẹt vào bờ bên này hay bờ bên kia thì nó không thể thuận dòng ra biển cả.

Sự sống là dòng sông, là dòng pháp. Hãy sống thuận dòng, thuận pháp, đừng bơi ngược dòng cũng chớ đắm chìm trong đó. Đối đầu và mê đắm chính là bản chất của sự dính mắc chấp thủ.

Vậy hãy để tâm bạn làm việc nên làm, không cần ngưng trụ. Chỉ cần bạn đừng quên mình đang thở thôi là đủ rồi. Đừng bắt hơi thở phải thế này, thế kia với ý đồ định tâm hay vì một mục đích tương lai nào khác. Làm thế, bạn vô tình dựng lên cái ngã tạo tác đầy tham vọng điều khiển theo ý mình.

- Khi đang đi, đứng, ngồi hay nằm, hãy trọn vẹn với trạng thái diễn biến ấy. Đừng để tâm lang thang ra khỏi động thái của thân và đừng để cái ngã quản lý có cơ hội xen vào.

Tâm không an trú nơi thân gọi là tâm bất tại, thất niệm hay phóng tâm. Tâm cùng hợp nhất với thân gọi là tự tại, nhất như, hay chánh niệm.

Nhất như không có nghĩa thân tâm (danh sắc) là một - mà là một sự kết hợp tự nhiên, hài hòa và đồng bộ với nhau. Rõ hơn, là tâm không bỏ quên thân vì bị thu hút bởi đối tượng của tham sân si. Đó là ý nghĩa đích thực của chánh niệm.

Tuy nhiên, bạn đừng quá chú ý vào những trạng thái đi, đứng, ngồi, nằm này với tham vọng trụ tâm hay để tìm kiếm điều gì trong đó; vì như thế tâm bạn lại bị dính vào một đối tượng hay một mục đích khiến bạn phải phân tâm hay ngưng trệ - nghĩa là không thể chánh niệm một cách trọn vẹn với thực tại đang là.

Trở về trọn vẹn với đi, đứng, ngồi, nằm chủ yếu là không để rơi vào tình trạng vong thân, tha hóa, chứ không có nghĩa là tự cô lập mình với thế giới bên ngoài.

- Nếu bạn có khả năng bao quát hơn, có thể thấy mình trong mọi sinh hoạt hàng ngày của bạn, chẳng hạn như ăn uống, tắm giặt, nấu nướng, lau quét, lái xe, mở cửa, đóng cửa, mặc áo, mang giày...

Dầu bạn làm gì cũng không quên mình thì thật là tuyệt vời. Được như vậy, bạn có thể ung dung, tự tại khi làm gì cũng không ra ngoài chánh niệm nơi thực tánh tự nhiên. Lúc đó, tâm bạn sáng suốt, trong lành và ổn định một cách tự nhiên, không cần gia tâm tọa thiền hay nhập định gì cả.

- Sâu sắc hơn, bạn có thể trọn vẹn được một cách trung thực những cảm giác trên thân như đau nhức, nóng nực, mát mẻ, êm ái… hoặc những cảm xúc trong tâm như vui vẻ, buồn bực, bức xúc, thanh thản…

Trở về trên thân tương đối dễ, nhưng trở về với những cảm giác thì khó hơn nhiều. Vì khi có cảm giác khổ chúng ta thường muốn chấm dứt nó ngay, và vô tình làm gia tăng cảm giác khổ ấy. Khi có cảm giác lạc chúng ta thường muốn níu giữ nó lại, vì vậy, biến nó thành nỗi khổ của sự lo sợ mất mát.

Chúng ta càng bị trói buộc vào bên ngoài, thì bên trong những cảm giác càng gia tăng; nhưng, hoặc là chúng ta quên mất không hề hay biết, hoặc là chúng ta bóp méo, nhồi nắn nó một cách chủ quan tùy theo độ dính mắc sâu cạn, ít nhiều.

- Vi tế hơn, khi tâm bạn ưa thích hay bất bình, nó thường hướng chú ý vào đối tượng hơn là chính nó, nơi đã phát sinh ra những thái độ phản ứng ấy.

Vì vậy, khi yêu thương, hờn giận, hài lòng, bất mãn… bạn chỉ lo quan tâm đến đối tượng bên ngoài mà không thấy chỗ xuất phát thái độ bên trong, đó là cái tâm của bạn!

Như vậy, phản ứng theo thói quen, bạn chỉ lo đối phó với tình hình bên ngoài mà quên rằng cái quan trọng chính là thái độ phản ứng của tâm mình! Nhưng bạn thường không muốn biết tâm mình đang như thế nào mà chỉ muốn biết đối tượng ra sao. Như thế là bỏ gốc theo ngọn.

Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, bạn đừng bắt tâm dừng lại, cũng đừng buông thả cho nó chạy rong! Bạn chỉ cần nhìn lại hiện trạng tâm mình là đủ rồi! Cứ để mọi việc tự động điều chỉnh, bạn không cần phải gia công giải quyết, kiểm duyệt, phê phán hay biện minh gì  cả.

Tóm lại, chúng ta giống như những người ham tìm kiếm thú vui hoặc bất mãn với hoàn cảnh hiện tại mà bỏ nhà ra đi mong cầu đạt được sở thích, ước nguyện!

Bằng cách ấy, chúng ta cứ ra đi, đi mãi, quên cả đường về, đành phải tha phương cầu thực, nay đây mai đó; lang thang theo những bước thăng trầm trong niềm vui, nỗi khổ bên ngoài mà không biết rằng nhà mình xưa nay vốn đầy đủ tất cả, chẳng thiếu điều gì.

Vì thế, đừng lang thang tìm cầu một miền đất hứa, mà quên đi ngôi nhà sẵn có của mình, đó là thực tại hiện tiền. Đức Phật khuyên chúng ta “Hãy trở về mà thấy” (Ehipassiko). Rõ hơn, Ngài dạy: “Ta, quả thật là nơi nương nhờ của ta, ai khác có thể là nơi nương nhờ? Khi ta đã thuần tịnh, đó là nơi nương nhờ khó được”.

Mạnh Tử nói: “Trời đất đầy đủ nơi ta, chân thành trở về với chính mình, không hạnh phúc nào lớn hơn”.

Huệ Năng nói: “Không ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ”.

Cô đọng lại, trở về thực tại giúp chúng ta:

- Hóa giải những ràng buộc: Người có chánh niệm ít khi bị dính mắc, và nếu có bị dính mắc thì cũng thoát khỏi dễ dàng hơn những người thất niệm.

- Sống an nhiên tự tại: Người bỏ quên chính mình thì không thể an nhiên, tự tại; do đó cũng không thể thanh thản, thoải mái. Điều này chỉ có được nơi người luôn sống trọn vẹn với thực tại hiện tiền.

- Trí nhớ tốt hơn: Khi đã bị dính mắc vào một điều gì người ta thường hay quên, hay lãng trí. Trái lại, người có chánh niệm tuy không cố ý ghi nhớ điều gì nhưng vẫn dễ dàng nhớ được điều mình đã làm.

- Dễ dàng định tâm: Khi tâm đang bận rộn lo nghĩ về một điều gì, như tưởng nhớ hay tức giận một ai đó thì rất khó tập chú vào công việc hiện tại. Hành động trở nên vụng về, không chính xác. Người chánh niệm nhờ trọn vẹn với mình nên rất dễ dàng tập trung tâm ý trong hiện tại.

- Bảo toàn nguyên khí:  Theo nguyên lý y học cổ truyền phương Đông thì ”Tinh thần nội thủ”  không những có thể bảo toàn được nguyên khí khỏi bị phân tán, mà còn phát huy được nội lực chân chính.

- Dễ dàng tự chủ:  Một người tinh thần bị phân tán đã không thể chú tâm thì làm sao có thể tự điều phục được. Giống như một người lái xe bị ngoại cảnh chi phối không thể điều khiển tốc độ hay hướng đi thích ứng được nên rất dễ gây ra tai nạn. Còn người chánh niệm không cần cố gắng vẫn có thể tự chủ một cách rất tự nhiên.

Hỏi:

- Thầy nói, trong quan hệ với ngoại giới, chúng ta thường quan tâm đến đối tượng mà quên chính mình, như vậy là bỏ gốc lấy ngọn. Có phải ý thầy muốn nói đừng quan tâm đến người khác, chỉ nên lưu ý đến tâm tư nguyện vọng của mình?

Đáp:

- Không phải vậy, chỉ quan tâm đến ý muốn của mình mà không để ý đến tâm tư nguyện vọng của người khác là ích kỷ. Chúng ta cần phải quan sát, lắng nghe hay học hỏi những người xung quanh, nhưng cũng không được bỏ quên chính mình, không để bị tha hóa.

Tùy trường hợp mà chúng ta quan tâm bên trong, bên ngoài hay cả hai. Vì chúng ta thường quá quan tâm đến đối tượng bên ngoài đến độ quên lãng chính mình, do đó cần phải trở về với mình trước. Khi tâm đã tương đối an ổn thì nên hướng tâm quan sát thế giới xung quanh; và khi tâm đã vững vàng, sáng suốt thì chúng ta có thể quan sát cả trong lẫn ngoài mà không bị thiên lệch.

Hỏi:

- Khi đi bộ trên phố hay lái xe ngoài đường - nếu chánh niệm - chúng ta chỉ quay vào trong trọn vẹn với thân-thọ-tâm-pháp, không quan tâm bên ngoài liệu có gây tai nạn không?

Đáp:

- Tất nhiên nếu bạn chỉ chăm chú vào trong mà không quan tâm bên ngoài thì rất dễ gây tai nạn, nhất là khi ở chỗ đông người hay nơi nguy hiểm. Như chúng ta đã biết, quá chăm chú vào trong sẽ bị dính mắc bên trong, và ngược lại, quá quan tâm bên ngoài thì dễ bị vong thân.

Khi bạn đang đi bộ hay lái xe mà bị lôi cuốn vào một đối tượng nào đó, dù trong hay ngoài; ví dụ như bạn đang chìm đắm trong ý nghĩ hận thù hay thương tiếc, lúc đó, bạn quên rằng mình đang đi hay đang lái xe, và tất nhiên bạn rất dễ gây tai nạn giao thông. Đó là thất niệm chứ không phải chánh niệm. Khi chánh niệm bạn đã nhất tâm, không phân tán, không quên mình, nên bạn có thể chú tâm trọn vẹn với việc lái xe hay đi bộ.

Chánh niệm không phải là chỉ chuyên chú vào thân-thọ-tâm-pháp như những đối tượng đơn độc, tách biệt và cố định - mà là thân-thọ-tâm-pháp diễn biến trong mối quan hệ tương giao duyên khởi với thế giới bên ngoài.

Ví dụ như khi đang đi trên phố, nếu tâm bạn bị cuốn hút trong một mối lo toan nào đó, bạn có thể va vấp hoặc đụng chạm vào người khác; nhưng khi chánh niệm, tâm trí bạn bén nhạy đến nỗi có thể cảm nhận được mọi diễn biến xung quanh mà vẫn không quên chính mình.

Sai lầm của bạn là không thấy được sự khác biệt giữa niệm và định, hay giữa trọn vẹn với thực tại và sự tập chú vào bên trong điều này có thể cần thiết khi bạn thiền định. Tuy nhiên, thiền định cần một nơi an toàn để thực hiện, còn đang lái xe hay đi trên đường phố thì bạn cần phải chánh niệm mới an toàn.

Hỏi:

- Thầy nói chánh niệm là trọn vẹn với thực tại? Vậy khi tham dục, sân hận, ngã mạn sinh khởi… cũng cứ trọn vẹn với chúng hay sao? Thế thì làm sao đoạn tận tham, sân, si như đức Phật dạy được?

Đáp:

- Bạn thử xem xét thật kỹ tình huống sau đây: để dỗ một em bé đang khóc – có phải mục đích của bạn là làm cho bé ngừng khóc hay là bạn nên hết lòng thương yêu, thông cảm và chia sẻ với toàn bộ hoàn cảnh của bé?

Nếu bạn chỉ muốn bé đừng khóc vì lợi ích của riêng bạn, chứ không cần thấu rõ con bạn khóc vì nỗi gì, thì không bao giờ bạn hiểu được bé. May là bé khóc để bạn biết con mình đang đói hay khát, nóng hay lạnh… vậy bạn cần chia sẻ một cách trọn vẹn với bé chứ đừng chỉ cố tìm cách bắt bé đừng khóc.

Một điều kỳ diệu là chính sự yêu thương trọn vẹn sẽ làm bé ngưng khóc! Và cũng chỉ có chánh niệm, tỉnh giác trọn vẹn mới hóa giải được tham sân.

Trọn vẹn với tham sân trong chánh niệm, tỉnh giác khác hẳn với bị chìm đắm và cuốn trôi trong tham sân một cách mê muội. Nói cách khác, khi tỉnh giác, trọn vẹn với tham sân là trọn vẹn với mình (chánh niệm); khi mê muội, đắm chìm trong tham sân là quên lãng chính mình (thất niệm) đấy.

Chương 3:
Thấy biết trong sáng
(Tỉnh giác)

Thấy biết là khả năng tự nhiên trong quá trình phát triển tri thức và trí tuệ con người. Thấy biết phát sinh khi các giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp xúc với những đối tượng (màu sắc, âm thanh, mùi hương, vị chất, vật xúc, ý tượng). Sự tương giao giữa hai yếu tố căn môn và trần cảnh làm phát sinh thấy biết tương ứng; từ đó hình thành khái niệm, tư tưởng, quan niệm, chủ trương, lý luận v.v... trong quá trình tất yếu của nhận thức và phán đoán, nhờ đó con người tiến hóa, phát triển nhanh hơn bất kỳ sinh vật nào khác trên trái đất.

Nếu một người không có khái niệm gì về sự vật xung quanh, không có khả năng tư duy, phán đoán, không biết suy luận, tưởng tượng, không biết phê bình, đánh giá, không biết phân biệt, chọn lọc, hay không hiểu được ngôn ngữ truyền thông từ bên ngoài v.v... thì anh ta vẫn mãi là một kẻ thiểu năng, đần độn, khù khờ bất hạnh.

Trong cộng đồng xã hội, con người ưu việt hơn các loài khác nhờ biết quan hệ, tương tác, giao tiếp với nhau để qui định ra ngôn ngữ, chữ viết, biểu tượng, mã số v.v... hầu có thể truyền đạt ý nghĩ, thông tin nhiều chiều, nhiều mặt, phong phú và đa dạng một cách dễ dàng, thuận lợi. Từ đó, giáo dục, luật lệ, lễ nghi, nguyên tắc luân lý, qui phạm đạo đức, định ước xã hội v.v... đã được hình thành. Không ai có thể phủ nhận được quá trình tiến hóa tuyệt vời của con người từ đời sống hoang dã cổ xưa cho đến nền văn minh hiện đại.

Tuy nhiên, lạ lùng thay, nếu tính toán để tìm chỉ số hạnh phúc bình quân đầu người thì chúng ta không chắc gì con người văn minh hiện đại đã hạnh phúc hơn những người hồng hoang xưa cổ! Điều chắc chắn là chúng ta có thể thấy rõ rằng tiện nghi vật chất vẫn chưa bù đắp được những nỗi lo âu, sợ hãi, căng thẳng, khổ sầu mà con người văn minh hiện đại phải gánh chịu.

Chính những thành quả ưu việt do con người sáng chế, qui định cho tiện ích của mình đã trở thành những khuôn khổ ràng buộc lại mình. Qua sự tưởng tượng phong phú của con người, những tư tưởng, quan niệm, chủ trương, giáo điều, triết thuyết nghe ra tuyệt vời nhất, bi khốn thay, đã dễ dàng đóng băng để trở thành thành kiến cố chấp, mâu thuẫn đối kháng mà hậu quả tất nhiên là chiến tranh, khủng bố, sợ hãi, khổ đau...

Tất cả những điều này đều phát xuất từ thấy biết sai lầm mà đức Phật gọi là tà kiến. Nhận thức của con người thường thể hiện qua tưởng tượng, hoặc dựa trên những kiến thức mà phần lớn do con người qui định, hơn là trực nhận sự thật một cách khách quan bằng trí tuệ. Vì vậy, những sản phẩm có được từ tưởng tượng và kiến thức đều không khỏi chủ quan, không đáng tin cậy. Ngay cả khoa học, dù khách quan đến đâu, cũng vẫn đi từ giả thuyết đến kiểm chứng rồi kết luận. Nên nhiều kết luận khoa học trước đây được công nhận tưởng đã là định luật vĩnh cửu thì chẳng bao lâu bị chứng minh là khiếm khuyết, sai lầm hoặc lạc hậu. Những kiến thức có từ tưởng tượng, giả thuyết, suy đoán, lý luận, định nghĩa v.v... có thể đúng với qui ước mà xã hội công nhận, được gọi là tục đế, nhưng không đúng với tự thân sự thật mà Phật giáo gọi là chân đế.

Nhìn kỹ hơn, chúng ta dễ dàng thấy rằng không ít những quy định xã hội không phản ánh trung thực sự thật khách quan, vì phần lớn những qui định này phát xuất từ những tình cảm chủ quan hoặc lý trí phiến diện. Chính vì vậy, có vô số tư tưởng, quan niệm, chủ trương khác biệt, mâu thuẫn, đối kháng lẫn nhau, tạo ra những thành kiến cố chấp, đưa đến hiểu lầm, bất mãn trong mối quan hệ giữa những thành viên trong gia đình, đoàn thể, phe phái hay trong toàn thể cộng đồng xã hội. Điều này, tất nhiên, đưa đến biết bao khốn khổ cho loài người, như chúng ta đã từng chứng kiến hàng ngày ở khắp mọi nơi.

hai thái độ tâm trong sự thấy biết, một là thái độ trung thực, khách quan, hai là thái độ sai lạc, chủ quan. Thấy biết dẫn đầu mọi hành động, nói năng và suy nghĩ. Cho nên, thấy biết với thái độ đúng sẽ đưa đến ứng xử đúng đắn, tốt đẹp, nhưng với thái độ sai sẽ đưa đến xử sự xấu xa, lệch lạc.

Vậy, thế nào là thấy biết với thái độ trung thực, khách quan? Đó là sự thấy biết trong sáng, tĩnh tại, trực tiếp trên đối tượng; không bị che lấp bởi ý niệm, tư tưởng, quan niệm hay tình cảm chủ quan nào; không thông qua khái niệm hình tướng, tên gọi, hay biểu tượng nào; không vướng mắc trong chủ trương, thành kiến, truyền thống, tập tục hay giáo điều lý tưởng nào. Ngay khi chúng ta thực sự thư xả, nghỉ ngơi hoàn toàn, là tâm chúng ta đang trọn vẹn với thực tại hiện tiền, và ngay đó, sự thấy biết trực tiếp sẽ phát huy tác dụng tự nhiên, khách quan và trung thực.

Ít khi chúng ta chịu buông tư ý tư dục xuống để cho định, tuệ tự vận hành một cách độc lập, nhưng thường cố gắng sở đắc cái gọi là định tuệ mà thực chất chỉ là mục tiêu chủ quan của lòng tham vọng! Thế là chúng ta bắt đầu lăng xăng tạo tác, đuổi bắt những giả tưởng bất định của cái mà chúng ta ước mong đạt được! Rồi chuyện gì xẩy ra? Chính tư kiến, tư dục trong thái độ chủ quan của bản ngã, làm phân tán tâm trực nhận trọn vẹn. Như Đức Phật đã cảnh báo: “Quả thật, trong sự sụp đổ của mình, người ngu cầu đắc kiến thức và danh vọng (mà không biết rằng) điều đó phá hủy phần sáng của nó và chẻ đầu nó làm hai!”  (PC 72).

Để dễ hiểu, chúng ta tạm chia ra ba loại thấy biết:

1) Thấy biết của trực giác giác quan, đó là sự thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm phát sinh từ sự tương giao giữa các giác quan và đối tượng tương thích. Mặc dù được gọi là trực giác nhưng vẫn bị giới hạn bởi điều kiện của giác quan và đối tượng, nên tương đối và bất toàn. Tuy nhiên, nó chưa bị bóp méo một cách chủ quan bởi lý trí vọng thức. Trực giác giác quan là tâm bẩm sinh, thụ động, không tạo tác. Dù tương đối và đơn giản nó vẫn hữu dụng như phương tiện cơ bản của nhận thức.

2) Thấy biết của lý trí, đó là những khái niệm, tư tưởng, quan niệm, kiến thức hữu hạn v.v... phát xuất từ học hỏi, tư duy, phân tích, so sánh, lý luận, quy ước v.v... Chẳng hạn như, chúng ta biết rằng người Việt đội khăn trắng là để tang, trong khi người Pháp lại đeo băng đen. Hoặc lái xe bên phải, người Anh cho là sai phạm, ngược lại người Mỹ cho là đúng luật. Đây là loại thấy biết chỉ có giá trị trong phạm vi ước định, có thể thay đổi cho phù hợp với thời gian, không gian, bởi bất cứ sự đồng thuận nào của mỗi cộng đồng xã hội.

3) Thấy biết của trí tuệ, đó là tri nhận trực tiếp đối tượng thực tánh, không lệ thuộc vào kiến thức, định lượng, suy tưởng, phân tích, so sánh, lý luận v.v… Thực tánh là bản chất tự nhiên, là sự thật phổ biến ở khắp mọi nơi, mọi thời, tự vận hành theo nguyên lý nội tại, không biến đổi bởi quan niệm của cộng đồng xã hội hay qui định chủ quan nào. Ví dụ, dù không biết tên gọi “nước đá”, chúng ta vẫn cảm nhận được tính cứng, lạnh, trơn ướt của nó, bất cứ nơi đâu và lúc nào.

Cả ba loại thấy biết này không thể thiếu trong hầu hết sinh hoạt đời sống. Đương nhiên, chúng ta phải theo những luật lệ hay qui định đúng, tốt, vì đó là lẽ phải giữa đời thường (tục đế), và vì lợi ích chung cho mọi người trong cộng đồng xã hội. Tuy nhiên, sống trong tiện ích đời thường chúng ta cũng không nên quên đi sự thật rốt ráo vốn vẫn luôn là bản chất thật (chân đế) trong cốt lõi đời sống của muôn loài. Bỏ quên thực tánh, chạy theo giả tướng chính là nguyên nhân của tất cả nỗi bất hạnh mà loài người đang phải gánh chịu.

Vậy chúng ta có thể cân bằng ba loại thấy biết này bằng cách thử lắng nghe, quan sát, thể nghiệm thực tại đang là một cách lặng lẽ, hồn nhiên, khách quan, trong sáng được không?

Không cần nỗ lực nào để thủ đắc thấy biết trực tiếp của tuệ giác, nó sẽ đến tự nhiên, bất ngờ khi tâm cởi mở, buông xả và trong sáng. Vì ngay khi chúng ta cố tình muốn làm gì để sở hữu nó thì nó lập tức biến mất. Một khi bạn háo hức muốn biết, hay muốn được nó thì bạn liền tạo ra tiến trình nhân quả, tư tưởng và cái “tôi”. Đó không phải là tuệ giác đích thực mà chỉ là kiến thức lý trí. Tri thức có thể tốt, nhưng chắc chắn chỉ là tương đối, hạn hẹp trong cái đã biết, không phải là thấy biết trung thực, thấu suốt trực tiếp thực tánh của mọi sự mọi vật.

Tuy nhiên, cũng không cần phải cố gắng loại bỏ thấy biết của lý trí. Dù tương đối, nó vẫn hữu dụng trong nhiều lãnh vực. Và nó sẽ rút lui một cách tự nhiên khi tỉnh giác xuất hiện, bởi vì thấy biết của lý trí không thể tồn tại trên đối tượng thực tánh của tuệ giác.

Trong Thiền Vipassanā, chánh niệm có nghĩa là chú tâm miên mật hay trọn vẹn với thực tại; tỉnh giác là thấy biết trong sáng, minh bạch, không mê mờ trên thực tại đó.

Ngay khi thư giãn, buông xả, thân tâm được nghỉ ngơi, thanh thản, hồn nhiên và hài hòa trọn vẹn với thực tại, đó là chánh niệm. Đồng thời, sự thấy biết lặng lẽ, trong sáng cũng tự tỏa chiếu. Đó là thấy biết tỉnh giác hay tuệ giác.

Lưu ý là hai yếu tố chánh niệm và tỉnh giác luôn đi đôi với nhau và bổ túc cho nhau trong thiền Vipassanā. Tuy chúng có chức năng khác nhau nhưng cùng chung một đối tượng thực tánh. Chánh niệm chú tâm trọn vẹn trên đối tượng, trong khi tỉnh giác thấy biết đối tượng ấy một cách trung thực, khách quan và trong sáng. Như một tấm gương, nếu chánh niệm hướng vào đối tượng đủ vững vàng và trọn vẹn, thì lập tức tỉnh giác phản ánh rõ ràng trung thực đối tượng ấy. Nếu tạp niệm, như tấm gương giao động, hay thất niệm giống như tấm gương mất hướng đối tượng, thì thất giác sẽ khởi lên với đối tượng chập chờn mờ nhạt, như tấm gương không phản ánh trung thực.

Chánh niệm đã được giới thiệu trong chương 2. Bây giờ chúng ta nói riêng về tỉnh giác trong chương 3, để dễ phân biệt chức năng và đặc tính của hai yếu tố này.

Vì cả hai có cùng đối tượng nên chúng ta sẽ lấy lại những thí dụ điển hình làm đối tượng cho chánh niệm để xem tỉnh giác thể hiện chức năng của mình trên đó như thế nào:  

- Khi bạn đang thở, thử quan sát khách quan, minh bạch trạng thái thở tự nhiên (chứ không phải hơi thở) đang diễn ra trên thân. Chỉ cần lặng lẽ trực nhận, hay thấu rõ trạng thái thở mà không gia thêm ý niệm nào, cũng không áp dụng theo bất cứ phương pháp nào. Đừng cố gắng thở theo một qui trình định sẵn vì mục đích định tâm hay tìm biết điều gì trong đó. Làm như vậy là bạn tự ràng buộc mình trong giới hạn của lý trí và dục vọng. Vô tình bạn bị rơi vào giữa hai thế lực tham và sân. Hay nói cách khác, bạn đang bị tham ưu thúc đẩy, trong khi đức Phật dạy chúng ta đừng bao giờ để tham ưu xen vào giữa chánh niệm, tỉnh giác thì mới thấy được thực tánh.

- Khi đang đi, bạn thử tri nhận trọn vẹn trạng thái diễn biến của tư thế đi, không phân tâm, không gán ghép vào nó ý niệm nào khác. Thường thì thay vì thấy trạng thái diễn biến của động tác đi đơn thuần, chúng ta lại có khuynh hướng thêm vào đó ý niệm “tôi”. Ví dụ, đang đi trên đường, nếu có ai hỏi bạn “Anh đi đâu đó?” Bạn liền trả lời “Tôi đi làm”. Thực ra, trong câu trả lời này, “tôi” chỉ là một ý niệm giả định, “làm” là một hành động chưa xảy ra, chỉ có “đi” là trạng thái thật đang diễn tiến, đó là thực tại sinh động. Vậy mà xem ra ý niệm “tôi” và “làm” không hiện thực lại có vẻ như quan trọng hơn chính sự sống đang là! Khi bạn đang đứng, ngồi hay nằm cũng vậy, hãy tri nhận rõ ràng sự diễn biến ngay trong tư thái đó.

- Thấy biết bén nhạy hơn, như một tấm gương, bạn có thể phản ánh trung thực và trọn vẹn nhiều trạng thái thân hành khác nhau trong khi đang lái xe, tắm rửa, mang giày, đội nón hay làm bất cứ việc gì mà không cần thêm thắt quan niệm nào cả.

- Sâu sắc hơn, bạn thử cảm nhận một cách vô tư, trung thực, những cảm giác đang xảy ra nơi thân hay tâm bạn, không tham gia một phản ứng tâm lý chủ quan nào. Rất khó tỉnh giác thực sự đối với các cảm thọ, vì chúng ta có thói quen ưa thích những cảm giác lạc, ghét bỏ những cảm giác khổ nên ít khi nhận biết cảm giác một cách khách quan, trung thực. Chính vì vậy mà chúng ta có thái độ phản ứng thiếu chính xác đưa đến xử sự hay hành động sai lầm để rồi nhận lấy hậu quả tai hại.

- Vi tế hơn nữa là thấy được trạng thái tâm ngay khi nó khởi lên trên một đối tượng nào đó. Ví dụ, bạn thấy một đóa hoa, tâm ưa thích khởi lên, nhưng bạn quá chú ý đến màu sắc, hình dáng, hương thơm của đóa hoa, nên không thấy tâm ưa thích của bạn đã khởi lên lúc nào và như thế nào. Có thể có bốn hạng người trong trường hợp này. Hạng thứ nhất không biết ở đâu và khi nào ưa thích khởi lên! Hạng thứ hai chỉ nhớ lại sau khi lòng ham muốn đã đi qua! Hạng thứ ba không thấy tâm ưa thích sinh diệt lúc nào, nhưng nửa chừng có phát hiện được nó! Hạng thứ tư thấy được tâm ưa thích ngay khi mới khởi lên cùng với toàn bộ diễn trình sinh-trụ-diệt của nó.

- Cũng vậy, đối với những trạng thái tâm khác như từ ái hay hận thù, ổn định hay tán loạn, trói buộc hay thanh thoát, vướng mắc hay tự tại... người trí đều thấy biết như một tấm gương phản ánh trung thực, không tham gia vào đó bất cứ phản ứng tâm lý chủ quan nào.

Thấy biết trong sáng giúp chúng ta:

- Điều chỉnh tà kiến: Tà kiến là những quan niệm sai lầm hay chủ trương lệch lạc về chính mình, cuộc đời, hoàn cảnh xung quanh, vũ trụ vạn vật. Ví dụ, Thuyết Thường Ngã, Định Mệnh, Đấng Tạo Hóa, không có nhân quả nghiệp báo, mọi hiện tượng đều ngẫu nhiên, chủ trương hạnh phúc tùy thuộc vào điều kiện vật chất hoặc do Thần linh ban thưởng v.v... Những quan niệm võ đoán này, dù phát xuất từ niềm tin cá nhân hay tập thể, một dân tộc hay cả nhân loại - thì cuối cùng vẫn sẽ đưa đến kết quả khổ đau, bất hạnh. Chỉ có người thấy biết trong sáng tự mình chứng nghiệm sự thật khách quan mới có thể điều chỉnh được những tà kiến này.

- Phá vỡ định kiến: Định kiến hay thành kiến là những quan điểm, phán đoán hoặc kết luận cố chấp, bảo thủ, một chiều, không chịu xét lại, thay đổi hay sửa sai. Ví dụ như trọng nam khinh nữ, phân biệt giai cấp, kỳ thị chủng tộc v.v... Định kiến cản trở sự sáng tạo, sự tiến hóa, làm cho khó có được một nhận thức khách quan, trung thực. Chỉ có thấy biết trung thực bản chất thực tại, chúng ta mới có thể chấm dứt được những thành kiến, cố chấp nguy hại này.

- Thoát khỏi hoài nghi: Hoạt động của lý trí thường đi đôi với hoài nghi, phân vân, do dự, lưỡng lự, bất quyết v.v... Nghi ngờ một điều gì đó chưa hẳn là hoài nghi, chỉ vì chưa kiểm chứng nên chưa xác định mà thôi. Nghi ngờ là một thái độ sáng suốt, tự tin, trong khi tâm trạng phân vân, lưỡng lự, mập mờ, thiếu dứt khoát, thiếu tự tin trên một đối tượng mới thực sự là hoài nghi. Chính hoài nghi đi đôi với si mê làm tâm chúng ta phân tán, suy yếu, không có khả năng quyết định hay chú tâm. Nhờ sự chú tâm lắng nghe, quan sát khách quan mà sự thấy biết được trong sáng, tự tin và thoát khỏi tâm trạng hoài nghi bất nhất này.

- Vượt qua sự hạn hẹp của ý niệm, ngôn từ và biểu tượng: Con người sáng chế ra khái niệm ngôn ngữ và biểu tượng đem lại rất nhiều tiện ích, nhất là trong lãnh vực truyền đạt tư tưởng. Tuy nhiên, bản chất của những khái niệm này là tương đối, khiếm khuyết, mâu thuẫn, bất nhất và dễ gây hiểu lầm. Vì vậy, chúng chỉ có thể cung cấp những kiến thức cục bộ, phiến diện và thiếu chính xác. Qua đó, dĩ nhiên, không thể thấy biết sự thật một cách trung thực và toàn diện được. Sự thật chỉ được hiển bày khi sự thấy biết trong sáng, không bị che lấp bởi quan niệm nào.  

- Hóa giải những chướng ngại tiềm ẩn bên trong: Đức Phật gọi những chướng ngại này là những phiền não ngủ ngầm (anusaya) nằm sâu lắng trong tiềm thức, chẳng hạn như tham lam, sân hận, si mê, ngã mạn, đố kỵ, ganh ghét, cố chấp v.v... vượt ngoài hoạt động của lý trí. Chỉ có sự thấy biết tuệ giác trong sáng mới thâm nhập vào tận tiềm thức để hóa giải những chướng ngại tiềm ẩn, vi tế này.

Hỏi:

- Theo tôi được biết, trực giác giác quan có thể là ảo giác nên vẫn sai lầm. Ví dụ, nhìn chỗ hai đường thẳng song song bị cắt bởi một đường chéo, chúng ta thấy dường như cự ly ở đó rộng hơn, nhưng thực tế thì số đo vẫn bằng nhau. Như vậy thấy biết qua trực giác giác quan đâu đáng tin cậy?

Đáp:

- Đúng vậy! Trực giác giác quan dĩ nhiên có thể bị đánh lừa bởi ảo giác, nhưng đúng sai của ảo giác chưa thành vấn đề. Chỉ khi rơi vào khái niệm (paññatti), ngôn từ (nāma), vọng tưởng (citta vipallāsa), vọng kiến (diṭṭhi vipallāsa) mới chính ảo tưng, cái sai nguy hại của vô minh (avijjā). Nhưng trực giác trong chánh niệm - tỉnh giác là tuệ giác hay trí tuệ lại là sự thấy biết trực tiếp vượt ngoài ý niệm, không thể bị chi phối bởi bất kỳ phán đoán, kết luận nào, chẳng hạn như khái niệm đúng sai, xấu đẹp, thiện ác v.v...

Khi bạn nói: “Hai, đường thẳng, đường chéo, giao nhau, cự ly, rộng hẹp, số đo, v.v...” tất cả đều dựa trên những khái niệm, ý tưởng, phải không? Đó không còn là trực giác giác quan thuần túy nữa, mà đã trở thành kiến thức quy ước rồi. Ảo giác của trực giác giác quan không ảnh hưởng đến tuệ giác được đề cập trong thiền tuệ Vipassanā.

Hỏi:

- Chỉ với thấy biết trực tiếp như thầy nói, mà không lo liệu gì cho những kế hoạch tương lai thì làm thế nào có thể thực hiện được những dự án đòi hỏi nhiều sự cân nhắc và tính toán cẩn thận trước được?

Đáp:

- Đó là băn khoăn của rất nhiều người. Ngày nay, rõ ràng là trước khi bạn thực hiện một dự án nào cần phải có những kế hoạch khả thi. Tất nhiên, không thể loại bỏ sự cân nhắc, tính toán và những khái niệm cần thiết ra ngoài mọi sinh hoạt đời sống. Tuy nhiên, nếu chúng ta không có đủ tầm nhìn khách quan, trong sáng và trực tiếp để nhận ra những thực kiện của vấn đề, mà chỉ dựa trên những tư tưởng, khái niệm để suy luận thì liệu chúng ta có thể cân nhắc tính toán một cách chính xác, khả thi không? Khái niệm chỉ có giá trị khi nó minh họa cho thực kiện, hay phản ánh trung thực tính chất sự kiện. Nhưng khi khái niệm là ý tưởng chủ quan, thiếu xác thực thì sẽ trở thành chướng ngại cho việc hình thành những dự án khả thi. Đó là lý do tại sao nhiều kế hoạch có vẻ logic, trên thực tế, không thực hiện được.

Vì vậy, mọi cân nhắc tính toán cần phải  dựa  trên sự quan sát thận trọng và trực tiếp những sự kiện để thấy biết rõ ràng thực chất của chúng, nếu không thì mọi tính toan chỉ là ảo vọng, hoang tưởng. Tóm lại,  thấy biết trực tiếp và trong sáng là yếu tố cốt lõi của mọi dự án khả thi.

Hỏi:

- Tôi vẫn chưa hiểu. Giả dụ như khi công ty tôi phải ký hợp đồng với một công ty khác. Dĩ nhiên bên A và bên B phải chuẩn bị soạn sẵn những điều khoản quy định và điều kiện ràng buộc trong hợp đồng để sẵn sàng thương lượng một cách tự tin, không bị thiệt thòi. Vậy tôi có cần phải tiên liệu trước hay cứ để tâm trí trong lặng mà đi ký hợp đồng?

Đáp:

- Tất nhiên bạn phải chuẩn bị những điều khoản cho một hợp đồng, nhưng những điều khoản ấy phải phù hợp với những thực kiện của chủ đề. Ví dụ, một công ty xây dựng, khi xem xét mọi yếu tố của một hợp đồng, phải nắm vững thực chất nội dung của hợp đồng: Như năng lực, đồ án, bản vẽ kỷ thuật và kết cấu, khối lượng thi công, vật tư, đơn giá, luật xây dựng v.v... cùng với những thỏa thuận công bình, sòng phẳng có lợi ích cho cả đôi bên.

Ngày nay, bạn khỏi lo điều đó, bạn chỉ cần tải trên mạng xuống một hợp đồng bạn cần là có ngay mẫu tiêu chuẩn. Cứ điền vào đó và thay đổi đôi chút cho hợp với tình huống thực tế là xong. Là một chuyên gia hay doanh nhân thành thạo, dĩ nhiên bạn phải nắm vững mọi kỹ thuật cần thiết và luật lệ liên quan đến hợp đồng, bởi vì cái chính là thực lực, đạo đức, sự trầm tĩnh, sáng suốt của bạn chứ không phải lo toan.

Trong một hợp đồng lương thiện thì mỗi bên không những quan tâm đến lợi ích của mình mà còn quan tâm đến lợi ích của đối tác. Nếu chúng ta chỉ lo tính vì tư lợi thì tính ích kỷ, tham lam sẽ làm cho chúng ta mệt mỏi, căng thẳng; như vậy, làm thế nào chúng ta còn đủ trầm tĩnh, sáng suốt, tự tin để thương thảo với đối tác một cách sòng phẳng được. Kết quả là một hợp đồng như vậy không thể thành tựu tốt đẹp cho cả đôi bên.   

Suy nghĩ, tính toán chỉ đúng và lương thiện khi dựa trên khả năng thấy biết chính xác, minh bạch, phát xuất từ quan sát trực tiếp, khách quan và trung thực của một tâm trí trong sáng trầm tĩnh.

Hỏi:

- Xin thầy cho một vài ví dụ cụ thể để chứng minh rằng chỉ cần sáng suốt vô tâm mà được việc hơn là lo tính trước?

Đáp:

- Trong môn cảm xạ học, người ta dùng một quả lắc nhạy cảm để thẩm tra một vài nghi vấn. Muốn có câu trả lời chính xác, người cầm lắc phải thật định tĩnh, sáng suốt và vô tâm, không suy tính, không phỏng đoán, vì sẽ làm cho quả lắc đưa ra câu trả lời sai lạc. Đây là một môn khoa học thật sự, có liên hệ đến sự thấy - biết vượt ngoài khả năng phán đoán của lý trí. 

Có những vấn đề tưởng chừng như bạn không sao giải quyết được, càng suy nghĩ càng rối thêm. Nhưng khi bạn buông nó ra, ngủ một giấc thật ngon, rồi bỗng nhiên bạn lại thấy ra một giải pháp cực kỳ hoàn hảo. Cũng có lúc bạn cố nhớ tên một ai đó mãi không ra, nhưng khi thôi không cố gắng nữa thì bạn chợt nhớ lại một cách dễ dàng.

Bạn thử xem xét trường hợp đơn giản sau đây: Bạn có một chùm những chìa khóa giống nhau của nhiều phòng. Thật khó khăn mỗi lần tìm một chìa nào đó nên bạn đã dán số cho mỗi chìa để dễ tìm hơn. Vậy mà có lúc, bạn ngạc nhiên khi vô tình lấy đúng chìa khóa bạn cần, từ trong ví, chẳng mất công tìm tòi gì cả.  Bởi vì, chính trong khoảnh khắc bạn thật sự bình thản, tự nhiên và vô tâm, tâm bạn trở nên chính xác và bén nhạy trong một khả năng cảm ứng thật kỳ diệu.

Hỏi:

- Định tuệ cần được rèn luyện tu tập mới hữu dụng, làm sao buông ra mà định tuệ có thể tự vận hành?

Đáp:

- Thực ra, bị trói buộc bởi vô minh ái dục, chúng ta đánh mất khả năng của định tuệ, vì vậy tâm chúng ta không còn bình lặng, trong sáng và hồn nhiên nữa. Vô minh biểu hiện qua si mê, tà kiến. Ái dục thể hiện qua tham lam, sân hận. Bao lâu còn bị ràng buộc vào những khuynh hướng tình cảm và lý trí này thì định tuệ vẫn không thể biểu hiện tính tịch lặng và soi sáng của mình. Vì vậy, buông những cản trở này chính là cách rèn luyện tốt nhất để phục hồi khả năng của định tuệ, trả định tuệ về với tình trạng chưa bị che lấp.

Chương 4:
Suy nghĩ chân thực
(Chánh tư duy)

Có thể nói, suy nghĩ hay tư duy là điểm ưu việt, độc đáo nhất của con người. Suy nghĩ nâng cao trình độ nhận thức và đem lại cho con người vô số thành tựu tốt đẹp trên nhiều lãnh vực. Suy nghĩ hình thành tư tưởng, lý luận, biện giải, hiểu biết, quan niệm, chủ thuyết, triết học và rất nhiều hoạt động tri thức khác, kể cả khoa học thực dụng nhất cũng phải xem tư duy là yếu tố then chốt. Người không biết suy nghĩ thì chẳng khác gì gỗ đá.

Tuy nhiên, vì hoạt động của tư duy quá phức tạp, thiếu chính xác, thường bị bóp méo bởi tính chủ quan của bản năng, tình cảm và lý trí trong giới hạn của những kiến thức phiến diện, mơ hồ, manh mún, nên tư tưởng không khỏi bị lệch lạc, võ đoán, hồ đồ. Điều này đã đưa đến biết bao tai họa cho con người.

Tư tưởng dẫn đầu mọi sinh hoạt hành động và nói năng. Vì vậy, tư tưởng lầm lạc dĩ nhiên đưa đến hành động, nói năng sai trái và kết quả chắc chắn là khổ đau và phiền muộn - không phải chỉ cho từng cá nhân mà còn cho cả tập thể cộng đồng. Rất nhiều tư tưởng đã đem lại tai họa cho toàn thể nhân loại dù theo nó hay chống đối lại nó.

Chính vì lẽ đó, Lão Tử nói:“Kiến tố, bảo phác, thiểu tư, quả dục” (Thấy tinh nguyên, giữ mộc mạc, bớt nghĩ suy, giảm ham muốn). Đức Chúa Jesus nói: “Trở nên như con trẻ”. Krishnamurti nói: Bặt dứt tư tưởng”. Thiền Tông nói: “Nghĩ tư tức sai” (Suy nghĩ là sai), hoặc “Ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt” (Dứt đường ngôn ngữ, tuyệt chỗ tâm hành) v.v... Nhiều người đã hiểu lầm những lời dạy minh triết này, rằng cần phải chấm dứt mọi hoạt động của tư tưởng mới có thể giác ngộ sự thật. Nhưng khi bạn cố gắng bặt dứt tư tưởng thì chính là lúc bạn đang bị thúc đẩy bởi “tư tưởng bặt dứt” đầy ngã tính chủ quan ấy. Nếu bạn chấm dứt tư tưởng quá sớm thì trí tuệ sẽ chết non, còn nếu bạn chấm dứt nó quá trễ thì sự thật đã trôi qua mất rồi. Vậy làm thế nào bạn biết chấm dứt tư tưởng đúng lúc?

Thực ra, bạn không cần chấm dứt tư duy. Khi bạn thật sự chánh niệm, tỉnh giác thì tư tưởng sẽ tự dừng lại đúng lúc một cách tự nhiên, và nó sẽ sẵn sàng ứng hiện trở lại lập tức, khi cần thiết. Vậy, trong khi đang chánh niệm, tỉnh giác, nếu tư tưởng tự ngưng bặt đó là chánh kiến, nếu tư tưởng ứng khởi đúng lúc và chính xác (phát xuất từ chánh kiến) đó là chánh tư duy.

Chánh kiến giúp chúng ta nhận biết trực tiếp sự vật một cách trung thực. Chánh tư duy giúp hiểu sự vật một cách thực dụng. Chánh kiến và chánh tư duy là hai mặt của trí tuệ. Trên cùng một thực kiện, chánh kiến nhận chân bản chất của thực tại, trong khi chánh tư duy nhận ra tướng dụng của hiện tượng. Tuy cả hai không xuất hiện đồng thời, nhưng luôn luân phiên hỗ trợ nhau trong quá trình nhận diện sự thật. Giống như hai chân thực hiện động tác đi, chân này trụ vững cho chân kia bước tới, và ngược lại; tuy hai chân không cùng lúc thực hiện chung một động tác, nhưng luôn thay phiên bổ túc cho nhau để bước những bước đi vững vàng, chính xác. Nếu loại bỏ một chân thì lập tức chúng ta trở thành què quặt. Cũng vậy, người quá thiên về định hoặc trực giácthiếu tư duy  thì còn tệ hơn người biết tư duy chín chắn. 

Vậy bạn đừng sợ tư duy! Hãy cứ tư duy trong trầm tĩnh, sáng suốt trên những dữ kiện mà chánh kiến đã cung cấp; đừng quá lệ thuộc vào những kiến thức vay mượn từ bên ngoài chưa được kiểm chứng hay chưa được thể nghiệm trực tiếp. Chánh kiến chỉ đến khi bạn chánh niệm tỉnh giác đúng mức, nghĩa là lúc tư tưởng tự ngưng bặt, chứ không phải bạn chủ quan bắt nó dừng lại.

Có bốn loại ý nghĩ:

1) Ý nghĩ đáp ứng tự nhiên: Ý nghĩ này âm thầm ứng khởi theo điều kiện hoặc nhu cầu tự nhiên. Ví dụ như khi đói, tự nhiên có ý nghĩ muốn ăn; ngồi lâu có ý nghĩ muốn đứng, đi, hoặc nằm v.v… Loại ý nghĩ này hoạt động thầm lặng, khó phát hiện, tưởng chừng như không hiện hữu, vì nó ẩn kín đàng sau hành động của chúng ta, phần lớn trong tình trạng vô thức. Bạn không thể loại bỏ ý nghĩ có tính bản năng tự nhiên này, vì nó là một trong những yếu tố tất hữu của đời sống. Điều bạn cần không phải là hủy diệt ý nghĩ này, mà chỉ cần sáng suốt lắng nghe lại mình thì có thể phát hiện ra nó và không bị nó điều khiển một cách vô thức như chỉ là con rối.

2) Ý nghĩ phản ánh thực tại: Khi chánh niệm tỉnh giác đạt đến mức thích hợp thì tư tưởng tự động ngưng bặt và chánh kiến tự nhiên xuất hiện, thấy rõ bản chất sự thật (thực tánh pháp). Nhưng ngay lập tức sau đó tư duy tự động khởi lên để duyệt lại  và lý giải pháp vừa được chánh kiến minh sát. Đó là chánh tư duy. Loại ý nghĩ này rất cần thiết trong đời sống thực dụng hàng ngày. Nhờ tư duy này các bậc Thánh biết được những gì đã chứng ngộ và Đức Phật biết làm thế nào tế độ chúng sanh. Vì vậy, không thể loại bỏ chức năng tự nhiên này của tư duy một cách chủ quan được. 

3) Ý nghĩ lan man bất định: Đây là loại ý nghĩ thường tự phát một cách bất định khi tâm trí chúng ta không trầm tĩnh, sáng suốt hoặc thiếu chú tâm và an lạc; nghĩa là một nội tâm rối loạn, căng thẳng, bất an. Khi tâm trí tích lũy quá nhiều thông tin trong tình trạng thiếu tỉnh thức, những dữ liệu tàng trữ trong vô thức này sẽ trở thành những xung động tạo ra vô vàn đợt sóng “tư tưởng hoang dã” gọi là phóng tâm hay trạo cử. Loại tư duy này khấy động làm cho tâm trí khó an ổn, và trầm trọng hơn có thể trở thành hoang tưởng của bệnh thần kinh suy sụp. Đừng trấn áp nó, nếu chúng ta chủ quan cố kìm hãm nó thì nó có thể sẽ tạm ngưng trong chốc lát, rồi lại bùng lên trong những cơ hội khác hay dưới nhiều hình thức khác tồi tệ hơn. Bạn chỉ cần trầm tĩnh lắng nghe nó trong chánh niệm tỉnh giác, không một thái độ đối kháng nào thì nó sẽ lặng lẽ rút lui, trả lại cho bạn một tâm trí rỗng rang, trong sáng như bầu trời không một áng mây.

4) Ý nghĩ chủ tâm tạo tác: Hoạt động tư duy này tạo tác hành vi đạo đức có mục đích và chủ ý. Loại ý nghĩ này khá phức tạp, có đúng có sai, có thiện có ác. Tuy vậy, chúng ta không cần phải cố gắng chận đứng mọi tư tưởng loại này mà chỉ cần quan sát thật khách quan và tinh tế diễn biến của từng tư tưởng để thấy rõ bản chất thật của nó: Đúng hay sai, thiện hay ác (trong bản chất, không phải khái niệm). Khi đã thấy biết tỏ tường như vậy thì bạn sẽ tự biết một cách chính xác tư tưởng nào nên ngăn ngừa, loại bỏ; tư tưởng nào nên duy trì, phát triển, một cách tự nhiên, không chọn lựa chủ quan theo tư ý, tư dục.

Dĩ nhiên, khi thấy những tư tưởng sai lầm, ô nhiễm, bất thiện, phát xuất từ tham ái mê muội đem đến ưu phiền, khổ não cho mình và người thì nên ngăn ngừa, loại bỏ. Điển hình như những tư tưởng tham ái, sân hận hoặc hãm hại.  

Những tư tưởng đúng đắn, trong lành, hiền thiện, phát xuất từ trí tuệ, từ bi, đem lại thanh tịnh, an lạc cho mình và người thì nên duy trì, phát triển. Điển hình như những tư tưởng vô tham, vô sân, vô hại. Nói một cách tích cực là những tư tưởng vị tha, từ ái, thương yêu cứu giúp (bi mẫn). Loại tư tưởng tích cực này càng phát triển nhiều càng tốt chứ không nên vội vàng chấm dứt nó chỉ vì muốn cầu an trong thảnh thơi, yên ổn. 

Đây là chặng đường tất yếu không thể bỏ qua trong quá trình hoàn thiện nội tâm và trí tuệ để giác ngộ giải thoát. Khi Ba-la-mật, như trí tuệcông hạnh chưa được viên mãn mà bạn đã cố bặt dứt tư duy hoặc ngưng trụ tâm, thì sự ngưng trụ này vẫn chỉ là sản phẩm của “cái ta tư tưởng” mà thôi!

Do đó bạn cần thấy sự khác biệt giữa hai tình trạng ngưng bặt tư tưởng:

- Tư tưởng tự ngưng bặt: Khi bạn hoàn toàn buông xả, thì chánh niệm tỉnh giác sẽ ứng hoạt một cách tự nhiên, vô tư và khách quan. Ngay khi đó tư tưởng của bạn tự động dừng lại để cho tuệ giác phản ánh thực tại dang vận hành thuận theo tự tánh và nguyên lý vô ngã.   

- Tư tưởng bị ngưng bặt: khi bị áp lực của ý chí, bị khống chế bởi một tư tưởng chủ quan khác hoặc một loại tập chú có chủ ý mà bạn rèn luyện theo một phương pháp nào đó để đạt được mục đích bạn mong chờ. Thực ra, bặt dứt tư tưởng kiểu này chỉ là một hình thức khác của cái ta tư tưởng mà thôi.

Nói cách khác, tư tưởng khởi lên hay ngưng bặt không quan trọng, mà quan trọng là khi khởi lên hay ngưng bặt có ứng hợp với thực tánh không hay chỉ phát xuất từ lãnh vực lý trí.

Chánh tư duy hay suy nghĩ trong chánh niệm tỉnh giác không phải là vọng vì nó giúp chúng ta rất nhiều phương diện, cả chân đế lẫn tục đế:

- Soi sáng những tư tưởng vô thức: Khi thiếu giác niệm chúng ta thường suy nghĩ một cách vô thức như loại tư tưởng hoang dã nói trên. Chánh tư duy chính là quá trình hữu thức hóa những tư tưởng vô thức loại này.

- Phát huy những tư tưởng tích cực hữu ích, loại bỏ những tư tưởng tiêu cực có hại:  Chánh tư duy phát triển những tư tưởng trong lành tích cực vì vậy những tư tưởng tiêu cực có hại sẽ tự hóa giải, không còn tác dụng nữa, mà không cần dụng công loại trừ chúng.

- Điều chỉnh tư duy trở về chức năng đích thực của nó: Tư duy vừa lập công vừa gây họa vì nó dẫn đạo cho nói năng và hành động. Tư duy sai xấu sẽ đưa đến kết luận, chủ trương, quan niệm sai và dĩ nhiên hậu quả là hại mình hại người. Tư duy đúng tốt chính là tự điều chỉnh trở về chức năng đích thực của mình.

- Hỗ trợ cho chánh kiến trong quá trình nhận chân toàn diện sự thật: Như chúng ta đã nói, thấy biết đúng và suy nghĩ đúng là hai mặt của trí tuệ. Chánh kiến thiếu chánh tư duy thì chỉ thấy chân đế mà không thấy tục đế. Điều này không thể xảy ra, vì trên thực tế đã có chánh kiến chắc chắn phải có chánh tư duy thì trí tuệ mới hoàn hảo.

- Xác định lại những gì chánh kiến đã thực chứng: Sau khi đại giác dưới cội Bồ-đề, đức Phật phải mất bốn mươi chín ngày suy gẫm lại những gì Ngài đã chứng ngộ một cách vô ngôn. Nhờ vậy Ngài mới có thể thuyết thị chân lý cho mọi người.

- Làm gạch nối giữa chánh kiến với chánh ngữ: Sự suy gẫm của đức Phật sau khi chứng ngộ là quá trình truyền đạt  sự tự chứng vô ngôn của Ngài cho mọi người bằng ngôn ngữ.

Hỏi:

- Thầy nói thiện ác, đúng sai... là khái niệm, và thầy cũng vừa nói tư duy có đúng có sai, có thiện có ác. Tức hễ có tư duy là đã rơi vào khái niệm, làm sao có thể suy nghĩ trung thực được?

Đáp:

- Thiện ác, đúng sai không phải luôn luôn là khái niệm, trừ phi chúng bị khái niệm hóa. Để dễ hiểu chúng ta tạm phân ra bốn loại:

1) Bản chất thực của thiện ác được trực nhận như chúng là, vượt ngoài khái niệm, nghĩa là độc lập với qui định của chúng ta. Ví dụ như khi bạn lặng lẽ cảm nhận trung thực cơn giận hay lòng từ với chánh niệm, tỉnh giác, bạn vẫn thấy rõ tính chất riêng của mỗi trạng thái tâm lý đó mà không cần khái niệm hóa bằng ngôn từ hay tư tưởng nào cả.

2) Khái niệm thiện ác được qui định dựa trên phương diện ý nghĩa, hiện tượng, hình thức, tổng hợp, không gian, thời gian v.v... Ví dụ như khái niệm bố thí hoặc trộm cắp tuy có biểu thị một hành động nhưng đó chỉ là hiện tượng phức hợp không có bản chất riêng mà tùy theo qui định của từng cộng đồng.  

3) Khái niệm qui định để gọi tên bản chất thực của những sự kiện. Ví dụ như tên gọi bản chất trạng thái của những thực kiện: Buồn, vui, khổ, lạc, tham, sân v.v... Tuy là tên gọi nhưng đàng sau vẫn hàm chứa bản chất của thực kiện. 

4) Khái niệm giả định để đặt tên cho những ý tưởng hay quan niệm mà con người thỏa thuận với nhau vì tiện ích trong quan hệ tương giao, chứ không có bản chất, không có thực kiện. Ví dụ như ý tưởng hiếu thảo, bất hiếu, trung thành, phản bội, vinh dự, ô nhục.

Tóm lại, bản chất của thực kiện thì không sai khác, nhưng có nhiều khái niệm dị biệt tùy mỗi người, mỗi nhóm hay mỗi cộng đồng về sự kiện đó. Như vậy, tư duy dựa trên bản chất thực kiện (loại 1) và trên khái niệm định danh cho bản chất thực kiện (loại 3) thì vẫn có thể là tư duy trung thực và chính xác. Nhưng tư duy theo khái niệm hình thức (loại 2) hay khái niệm thuần danh (loại 4) thì vẫn có đúng có sai tùy theo quan niệm của mỗi người, mỗi nhóm hay mỗi cộng đồng.

 Hỏi:

- Chúng ta có thể dùng tư tưởng tốt để đánh bại tư tưởng xấu, như đức Phật dạy “Lấy từ bi thắng hận thù” hay không?

Đáp:

- Không, không thể được. Bạn đã hiểu lầm đức Phật. Ý Ngài không phải như vậy. Trong Pháp Cú, Ngài dạy: “Trên thế gian này hận thù không bao giờ chấm dứt bởi hận thù, mà chỉ chấm dứt bởi lòng nhân ái, đó là định luật muôn đời”. Điều này không có nghĩa là lấy nhân từ (thiện) để diệt hận thù (ác), mà khi có tư tưởng thiện thì không có tư tưởng ác, vì hai tư tưởng này không thể xuất hiện đồng thời trong cùng một tâm. Bạn không thể lấy tư tưởng nhân ái để hủy diệt tư tưởng hận thù, vì như vậy hận thù sẽ trở nên kín đáo và ma mãnh hơn. Thực ra, hầu hết những tư tưởng mà bạn dùng để đấu tranh, hủy diệt đều có bản chất sân hận làm sao có thể là nhân từ được!  Khi có lòng từ, thì nội tâm sẽ không có sân. Nhân từ không cần phấn đấu chống lại thù hận.

Chúng ta phải thấy rằng, trong dụng công đối kháng thường có thái độ bất mãn từ phản ứng của bản ngã - bản ngã muốn tiêu diệt cái không vừa ý để đạt được cái mong cầu. Điều này hàm chứa lực đối kháng giữa sân và tham, đưa đến căng thẳng và tiêu hao năng lực. Ngược lại, khi thực sự giác niệm trên trạng thái sân thì bạn liền cảm nhận một suối từ mát dịu tràn ngập tâm hồn bạn; sự nóng nảy, căng thẳng, bức xúc của cơn giận tự biến mất, chẳng hề tiêu hao năng lực hay dụng công nào nhằm tiêu diệt tâm sân ấy cả. Làm như vậy bạn không bị rơi vào “cái tôi chiến thắng” hay “cái tôi thủ đắc” nào. Lão Tử gọi đó là “Bất tranh nhi thiện thắng”.

Hỏi:

- Thầy có nói đến “cái tôi tư tưởng”, “cái tôi hành động”, “cái tôi chiến  thắng”, “cái tôi thủ đắc” v.v... Vậy khi tôi muốn rèn luyện cho tốt hơn, cụ thể như tập thể dục để mạnh khỏe, giữ tâm lành để không nghĩ ác v.v.... làm sao không có “cái tôi” hành động hay thủ đắc được?

Đáp:

- Cái đó còn tùy vào thái độ của bạn.

Hỏi:

- Xin lỗi, cho tôi ngắt lời một tí. Thầy vừa nói “Thái độ của bạn” tức là thầy công nhận có cái tôi trong thái độ đó rồi, phải không?

Đáp:

-  Không, bạn lầm rồi! Bạn cần nhận rõ ba từ ngữ liên hệ tới cái gọi là “tôi”:

1) Cái “tôi” như một đại từ: Bạn dùng đại từ “tôi” để phân biệt với anh, nó, họ v.v... trong xưng hô giao tiếp. Nó không hề ngụ ý cái ta hay bản ngã gì cả. Chúng ta đều biết đức Phật luôn dạy tất cả các pháp đều vô ngã (Sabbe dhammā anattā’ti), nhưng trong Kinh Tứ Niệm Xứ Ngài vẫn dùng những câu như “Tôi thở vô, tôi thở ra, tôi đi, tôi đứng,” v.v... Nhiều người cố tránh chữ  “tôi” trong khi nói hay viết, sợ rơi vào chấp ngã. Lầm lẫn này do không phân biệt được giữa hai chữ tôi: “tôi” đại từ danh xưng với cái “tôi” trong ngã chấp.

2) Cái “tôi” địa vị qui ước: Một mình bạn thôi đã có rất nhiều cái tôi tùy vào vị trí của bạn trong gia đình và xã hội: Cái tôi cha, cái tôi con, cái tôi thầy giáo, cái tôi giám đốc, cái tôi luật sư, cái tôi bác sĩ v.v... Những cái “tôi” này thay đổi tùy chỗ tùy lúc, theo từng trường hợp tương quan với đối tượng giao tiếp. Tuy nhiên, cái “tôi” này bất định, tùy thuộc điều kiện, chưa phải là cái “tôi” ảo tưởng trong ngã chấp kiến.

3) Cái “tôi” ảo tưởng ngã chấp: Đây mới chính hiệu là cái tôi nguy hiểm mà các giáo chủ, các triết gia, các nhà thần học đua nhau tưởng tượng, sáng chế. Đức Phật gọi những quan niệm này là ngã kiến, ngã thủ. Bạn có thể tạo dựng ra một cái “tôi” cho riêng bạn rồi mặc sức gán cho nó một số mỹ từ theo thị hiếu của mình, hoặc tin rằng bạn có một cái “tôi” lý tưởng theo quan niệm của tôn giáo bạn. Dù sao, cái “tôi” này vẫn chỉ là ảo tưởng, hoàn toàn không có thật. Tuy vậy, dù chỉ là một nỗi ám ảnh, một sự chấp thủ, ảo tưởng này vẫn đã ăn sâu vào tiềm thức và ngự trị  tâm hồn bạn đến nỗi dù bạn chủ trương “vô ngã” thì nó vẫn cứ âm thầm sai khiến bạn, mọi lúc, mọi nơi! Thực ra, bạn không thể dùng lý trí hay ý chí để loại trừ nó. Đơn giản chỉ cần bạn tự soi sáng mình trong chánh niệm, tỉnh giác thì sẽ thấy rằng cái “tôi” không thực sự tồn tại, bởi vì nó chỉ là ảo tưởng.

Vậy, trở lại câu hỏi của bạn: “Làm sao rèn luyện, mà không có cái tôi rèn uyện?”. Cái đó còn tùy vào thái độ của bạn. Khi bạn rèn luyện hay hay làm mọi việc trong chánh niệm tỉnh giác, thấy rõ việc đang làm như thực, không ảo tưởng, không khái niệm, không tư kiến, thì chỉ còn lại diễn biến của hành động chứ không có cái “tôi” hành động nào trong đó. Hãy thể nghiệm rồi bạn ắt tự thấy.

Chương 5
Nhiệt tâm cần mẫn
(Chánh tinh tấn)

Làm việc gì chúng ta cũng cần có sự cố gắng, chuyên cần, siêng năng, nỗ lực, hăng hái, nhiệt thành vừa đủ để thực hiện công việc đó; nếu không chúng ta sẽ không thể hoàn thành bất cứ việc gì dù dễ hay khó. Thái độ tiêu cực, lười biếng, buông xuôi, chểnh mảng, phóng dật, hay “nhắm mắt đưa chân” đều là đầu mối của sự thoái hóa, sa đọa, suy đồi và thất bại trong mọi lãnh vực.

Tích cực hay cần mẫn chín chắn được gọi là chánh tinh tấn, một trong bốn yếu tố quyết định để hoàn thành mọi việc:

1) Nguyện vọng chính đáng

2) Tinh cần đúng mức

3) Chuyên chú nhất tâm

4) Thông hiểu sự lý

Đầy đủ bốn yếu tố này chúng ta có thể thực hiện thành công bất cứ việc gì dù khó đến đâu. Giả sử chúng ta có nguyện vọng chính đáng và đã hiểu biết thành thạo sự việc, mà thiếu nỗ lực thích ứng thì không thành tựu nào có thể đạt được.

Trong thiền Vipassanā, chánh niệm tỉnh giác là hai yếu tố cốt lõi, nhưng nếu thiếu tinh tấn thì vẫn không đủ lực để thể hiện giác niệm một cách đúng mức cần thiết cho sự quán chiếu trung thực.

Như con dao hai lưỡi, tinh tấn tự nó là trung tính, nhưng khi ứng dụng vào hành động của thân tâm thì nó quyết định mức độ đúng, sai, thiện, ác. Tinh tấn thích ứng, vừa đủ là đúng; tinh tấn yếu kém hay dư thừa là sai. Siêng năng trong điều lành là thiện, hăng hái trong việc ác là bất thiện, vì vậy mới có chánh tinh tấn và tà tinh tấn.

Mặc dầu nhiệm vụ của chánh tinh tấn là ngăn ngừa và từ bỏ điều xấu ác (pháp bất thiện), đồng thời, gieo trồng và phát triển điều tốt lành (pháp thiện), nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta phải cố gắng trừ khử điều ác một cách chủ quan, và phát triển điều lành theo quan điểm luân lý nào đó hay quan niệm đạo đức của riêng mình. Bao lâu chưa thấy bản chất thật của thiện ác, đúng sai mà nỗ lực hành động theo quan niệm đạo đức sẵn có thì chúng ta vẫn còn bị dính mắc hay ỷ lại vào khuôn sáo, đâu phải là chánh tinh tấn! Dù chúng ta có cố gắng rập khuôn đúng mẫu đạo đức nào đó thì vẫn hàm nghĩa lười biếng, vì sâu trong tiềm thức chúng ta có khuynh hướng bắt chước theo khuôn mẫu có sẵn hơn là tự mình khám phá sáng tạo.

Giống như khi bạn đi trên con đường phẳng phiu đã dọn sẵn, thì bạn đâu cần phải dọ dẫm thận trọng từng bước chân, nhưng đồng thời bạn cũng dần dần đánh mất khả năng sáng tạo và tinh tế để khám phá những chuyển biến bất ngờ. Vậy khi chọn cho mình con đường phẳng phiu dọn sẵn, chắc hẳn trong đáy sâu của tâm thức đang ẩn chứa một sự biếng lười, không dám đối mặt với bản chất vô thường của đời sống.

Ví như, bạn nói, nhờ cố gắng theo một phương pháp thiền nào đó bạn sẽ giác ngộ nguyên lý vô thường, nhưng hãy coi chừng, đó có thể chỉ là vô thường mà bạn tưởng tượng theo công thức đã có sẵn được mô tả trong kinh điển, không phải là bản chất vô thường thật sự trong đời sống hàng ngày mà bạn cố tình lẩn tránh! Đây chắc chắn không phải là chánh tinh tấn mà chúng ta cần đến.

Cần khám phá xem chúng ta đang cố gắng như thế nào và vì mục đích gì? Không phải lúc nào tinh tấn cũng đúng, dù tinh tấn để hỗ trợ giác niệm. Vì khi giác niệm sai hoặc không chính xác thì càng tinh tấn càng tệ hại hơn. Trong trường hợp này, tinh tấn chỉ uổng phí công sức và thời gian vô ích mà thôi. 

Nhiều hành giả than phiền rằng họ đã cố gắng giác niệm hết mình để diệt trừ sân hận, nhưng thất bại. Người khác hành thiền hết sức tinh tấn để mong đạt được định tuệ, mà vẫn không thành công. Tại sao? Lý do là vì họ đã tinh tấn sai lầm, áp dụng giác niệm sai lầm và hướng đến mục đích sai lầm!

Tinh tấn với một mức độ không thích hợp (quá nhiều hoặc quá ít) là sai lầm thứ nhất. Giác niệm một cách chủ quan (theo tư ý của mình) là sai lầm thứ hai. Và nếu mục đích tinh tấn giác niệm cốt để loại trừ điều không thích hoặc đạt được điều ưa thích thì đó là sai lầm thứ ba. Mắc phải ba sai lầm này, dĩ nhiên, không hành giả nào gặt hái được lợi ích gì mà chỉ tự mình chuốc hại vào thân, dù có tinh tấn đến đâu đi nữa.

Ý chí thúc đẩy bạn tinh tấn giác niệm để loại trừ tâm sân cũng chính là một tâm sân khác, như vậy chẳng khác nào đổ dầu để dập lửa. Theo cách đó, bạn càng cố gắng càng tạo ra xung đột trong chính bạn. Trong cuộc xung đột nội tại này dù thắng hay thua, thì thực ra bạn vẫn thất bại, vì chỉ tạo điều kiện cho phiền não khổ đau gia tăng áp lực mà thôi. Giống như khi bạn ép một trái bóng càng mạnh thì không khí bên trong càng gia tăng áp lực.

Vậy tại sao bạn phải tiêu hao năng lực để chống lại cái không thích (sân) khi nó chính là cơ hội tốt giúp bạn thấy ra chính mình - thấy ra bản chất của tâm trạng không vừa lòng mà đàng sau đang ẩn giấu “cái ta” nguy hiểm?

Mặt khác, cố gắng đạt được điều ưa thích là tham, lúc đó càng tinh tấn càng tạo ra lực ly tâm lớn hơn. Thế rồi chính sự hướng cầu bên ngoài này làm bạn tiêu hao và phân tán năng lực. Trong lãnh vực này, một lần nữa bạn lại thất bại vì đã tạo thêm điều kiện cho khổ đau phiền não gia tăng.

Vì vậy, bao lâu còn chưa thấy ra sự thật thì sự nỗ lực phản ứng vội vàng của chúng ta chỉ làm cho sự việc rắc rối và tệ hại hơn mà thôi. Giống như gỡ một đống chỉ rối mà không thấy ra đâu là đầu dây mối nhợ thì càng cố gỡ càng làm cho nó rối bời thêm.

Tinh tấn chỉ nên hiểu theo nghĩa phủ định như là không buông xuôi, không lơ là, không lười biếng, không tiêu cực thụ động v.v... Vì nghĩa xác định dễ bị hiểu lầm theo kiến thức của mỗi người, rồi được ứng dụng chủ quan, theo một kiểu mẫu sai lầm. Mức độ cố gắng phải thích ứng với từng trường hợp khác nhau. Nếu không đủ minh mẫn bén nhạy để điều hợp đúng mức nỗ lực của mình thì có thể chúng ta chỉ phí công vô ích mà thôi. Thông thường chỉ cần chúng ta không buông xuôi, giải đãi, tiêu cực, thì sau đó chính nỗ lực sẽ tự điều chỉnh mức độ cần yếu theo luật vận hành tự nhiên của pháp.

Ví dụ, khi lên hay xuống dốc, khi qua đường lầy lội hoặc gồ ghề v.v... sự nỗ lực của chúng ta biết tự động điều chỉnh mức độ thích ứng như thế nào cho từng bước chân theo phản xạ tự nhiên, mà chúng ta không cần cố gắng can thiệp một cách chủ quan. Những người khôn khéo chơi lướt sóng, biểu diễn xiếc, thả bè trên thác v.v... đều biết học cách thuận ứng theo phản xạ tự nhiên hơn là gắng gượng dụng công theo phỏng đoán của mình. Giống như khi bạn ngồi xe ô-tô đi qua một đoạn đường đèo quanh co hiểm trở, để khỏi ngã tất nhiên bạn phải vịn vào một điểm tựa nào đó, nhưng nếu bạn cố ghì nắm tay quá chặt thì sớm muộn gì bạn cũng sẽ không còn sức để nắm vững được nữa. Vì vậy, bạn chỉ cần ngồi thoải mái để tay thư thả tự nhiên, thì khi xe qua khúc quanh tay bạn sẽ tự động nắm vào chỗ vịn vừa đủ để không bị ngã, mà không mất sức hay bị tê cứng. Những gì bạn cần là yếu tố tự tin, nhẫn nại, trầm tĩnh, chánh niệm tỉnh giác v.v... để thấy sự tinh tấn của thân tâm bạn tự thích ứng như thế nào hơn là cố gắng dụng công một cách chủ quan.

Tinh tấn thiếu thiền định dẫn đến bồn chồn dao động. Thiền định thiếu tinh tấn đem lại thụ động hôn trầm. Tinh tấn thiếu trí tuệ phát sinh kiêu căng ngã mạn, trí tuệ thiếu tinh tấn gây nên lãnh đạm thờ ơ. Tinh tấn thiếu đức tin chỉ là nỗ lực của bản ngã; đức tin thiếu tinh tấn là ỷ lại vào tha lực v.v... Vì vậy những yếu tố này cần được chánh niệm phối hợp điều hòa một cách cân đối mới phát huy được hiệu năng tốt nhất.

Có một vị Tăng sau khi xuất gia đã hết sức tinh tấn hành trì nhưng không đạt được kết quả mong đợi. Vị ấy vô cùng thất vọng chán nản, xin phép đức Phật từ bỏ đời sống xuất gia trở về thế tục, phàn nàn rằng giáo pháp của Ngài không đem lại lợi lạc nào. Nhân đó đức Phật dạy hàng Tăng Chúng đệ tử không nên quá tinh tấn, dù với mục đích chính đáng, huống chi chỉ vì mục đích tham cầu ước vọng. Quá nhiều tinh tấn hay quá nhiều buông lung đều là những thái quá sai lầm. Ví như sợi dây đàn quá căng hay quá chùng không thể phát ra âm thanh du dương trầm bổng.

Mong cầu sở đắc tạo ra một sự cố gắng hướng về mục đích ở tương lai, nghĩa là chúng ta cần có một thời gian để nỗ lực hoàn thành sở nguyện. Chính nỗ lực hăng say và ý chí cuồng nhiệt này tạo ra mộng mơ, tưởng tượng, đợi chờ, hy vọng v.v...

Trong trường hợp không đat được sở cầu thì bạn thất vọng, nản lòng, khổ đau, phiền muộn, phát xuất từ nỗi khổ “cầu bất đắc”. Còn nếu đạt được sở cầu thì ngã mạn, kiêu căng sẽ phát sinh, vì bạn cho đó là kết quả do nỗ lực của chính mình. Nhưng rồi trước sau gì bạn cũng chán ngán với những thành tựu đạt được, bởi vì cái gì có sinh tất có diệt, và cái gì có được từ tham cầu thì không bao giờ thỏa mãn, nên bạn lại tiếp tục săn đuổi những mong cầu sở đắc khác. 

Thực ra, mọi thành tựu đều do pháp vận hành, không phải đạt được bởi ý chí cá nhân. Nỗ lực cá nhân chỉ có thể khởi động cho tiến trình vận hành của pháp mà thôi.

Trong cả hai trường hợp thất vọng hay thỏa mãn thì cũng đều đã tiêu phí biết bao chân khí nội lực. Hơn nữa, sự cố gắng đạt được cái bạn kỳ vọng ở tương lai, luôn đi kèm với nỗ lực loại trừ cái bạn đang bất mãn trong hiện tại. Như vậy bạn rơi vào một sự mâu thuẫn đối kháng giữa cái đang là và cái sẽ là, điều này chắc chắn đưa đến tâm lý căng thẳng, bất an, bức xúc và phiền muộn.

Như vậy, một khi đã có mong cầu, hy vọng và có sở đắc để giữ lại cho mình, thì bạn đã bị trói buôc vào thời gian và bản ngã, không còn khả năng đối diện với sự thật vô thường. Biến dịch vốn là để hanh thông nay bỗng nhiên trở thành chướng ngại do tham cầu của bạn.

Trong Kệ Dhammpada 21 đức Phật dạy: “Không buông lung là sinh lộ, phóng dật là tử lộ”; và trong Kinh Aṅguttara Nikāya Ngài nói rõ hơn: “Ta không thấy một pháp nào khác… có thể đưa đến lợi ích lớn như tinh cần tinh tấn… do pháp ấy các pháp thiện chưa sinh được sinh khởi, các pháp bất thiện đã sinh bị đoạn tận”.

Vì vậy, khi tinh tấn đúng chỗ, đúng lúc, chính xác và phù hợp với hoàn cảnh thì nó sẽ thể hiện được bốn công năng chính:

- Ngăn ngừa pháp bất thiện chưa sinh: Ngăn ngừa không phải là chờ pháp bất thiện đến rồi cố gắng chận đứng lại không cho nó sinh khởi, mà khi bạn tinh tấn đúng mức thì các pháp bất thiện không thể sinh lên. Giống như khi ngọn đèn tỏa sáng thì bóng tối không thể đến được.

- Đoạn trừ pháp bất thiện đã sinh: Đoạn trừ cũng không có nghĩa là nỗ lực tiêu diệt pháp bất thiện đã sinh, mà khi tinh tấn đúng đắn thì pháp bất thiện tự rút lui. Giống như khi mặt trời lên thì bóng đêm tự tan biến.

- Khởi sinh pháp thiện chưa sinh: Điều này rất dễ hiểu lầm, nên nhiều người cố gắng tập luyện để sở hữu được những phẩm chất đạo đức, hay làm nhiều thiện sự để có nhiều công đức. Thực ra, khi tâm không còn bị pháp bất thiện chiếm giữ thì pháp thiện sẽ tự khởi sinh một cách tự nhiên chứ không phải kết quả nỗ lực của bản ngã.

- Phát huy pháp thiện đã sinh: Như chúng ta vừa nói trên, thiện pháp tự sinh, và khi không còn bị che lấp bởi pháp bất thiện của vọng ngã thì sẽ tự phát huy diệu dụng viên mãn chứ không phải do bản ngã dụng công phát triển. 

Bốn công năng này không được thực hiện riêng rẽ mà thường tiến hành cùng lúc, nghĩa là khi một trong bốn công năng dẫn đầu thì ba công năng kia cũng tự động có tác dụng.

Ví dụ, khi bạn tinh tấn thực hành thiền phát triển tâm từ thì các thiện tâm sở tương ứng liền cùng phát sinh (khởi sinh pháp thiện chưa sinh), đồng thời tâm sân tự biến mất (đoạn trừ pháp bất thiện đã sinh) và không thể sinh khởi trở lại khi tâm từ đang hiện diện (ngăn ngừa pháp bất thiện chưa sinh). Chính sự tinh tấn này duy trì và phát triển tâm từ ngày càng rộng lớn hơn (phát huy thiện pháp đã sinh).

Ngoài ra chánh tinh tấn còn giúp chúng ta:

- Dễ thành công trên mọi lãnh vực: Người tinh tấn, không thối chí nản lòng nên không bỏ cuộc nửa chừng vì vậy họ dễ dàng đạt được mục đích của mình.

- Thêm bạn bớt thù: Tinh tấn là loại bỏ điều ác, làm những hạnh lành, nghĩa là luôn sống lợi mình lợi người nên gieo ân nhiều hơn kết oán.

- Thân tâm an lạc: Người siêng năng luôn năng động, phấn khởi, tích cực; không rơi vào tình trạng trì trệ, buông xuôi, tiêu cực; không dễ sinh buồn phiền, chán nản, hay say sưa, nghiện ngập, vì vậy, luôn tự tin và hoan hỷ. 

- Danh thơm tiếng tốt: Người tinh tấn luôn vượt trội hơn giữa những người thiếu chí, giống như con ngựa khỏe giữa đám ngựa yếu gầy. Vì vậy, dù không cần danh vọng địa vị họ vẫn được trọng vọng hơn người.

Hỏi:

- Con hành thiền Vipassanā, phải thường tinh tấn giác niệm để loại trừ tham sân. Bây giờ thầy nói tinh tấn như vậy có thể sai, làm con hoang mang không hiểu vì sao đã là tinh tấn giác niệm mà lại còn có thể sai được?

Đáp:

- Dĩ nhiên, chánh tinh tấn,  chánh niệm và tỉnh giác không sai. Nếu sử thực hiện đúng, đó là những yếu tố quyết định cho sự giác ngộ giải thoát. Nhưng khi bạn ứng dụng những yếu tố này với thái độ không đúng, mục đích không đúng thì chỉ mang lại phản tác dụng mà thôi.

Thế nào là mục đích và thái độ sai? Khi bạn tinh tấn với ý định muốn diệt tham/sân thì ý định đó cũng là một kiểu tham/sân khác. Như vậy, ngay từ đầu, tinh tấn bị thúc đẩy bởi động cơ tham/sân đã là thái độ thất niệm làm sao có thể gọi là tinh tấn chánh niệm tỉnh giác được?

Có thể bạn đã hiểu lầm lời dạy của Đức Phật trong Kinh Tứ Niệm Xứ: ”Ở đây,…chế ngự tham sân ở đời, vị tỳ kheo sống quán thân trên thân…, quán thọ trên các thọ…, quán tâm trên tâm…, quán pháp trên các pháp, với tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm”. Cho nên bạn đã tinh tấn với ý định diệt trừ tham/sân. Nhưng lời dạy này ám chỉ rằng trong khi quán chiếu bạn không được để cho tham hay sân xen vào đối tượng sở quán. Nếu bạn quán chiếu vì thích hay ghét đối tượng thì bản ngã đã xen vào, ngăn che sự thấy biết trong sáng của bạn, trong khi mục đích của tinh tấn chánh niệm tỉnh giác là phát hiện ra cấu trúc của bản ngã cùng với những hoạt động tạo tác ngăn che thực tánh pháp, chứ không phải để khước từ pháp này hay nắm bắt pháp nọ theo ý đồ của tham/sân. Bởi vì đó không phải là tinh tấn trong chánh niệm tỉnh giác mà là trong thất niệm bất giác. Và tinh tấn trong thất niệm bất giác dĩ nhiên là sai, vì làm thế nào mà tham/sân lại loại trừ tham/sân được?

Ngay cả giác niệm cũng có thể chẳng mang lại hiệu quả nào, chẳng có khả năng thấy được thực tánh, nếu tầm nhìn không đúng hướng, không đủ mức độ thích nghi. Huống chi giác niệm mà đa số thiền giả thể hiện là theo kiến thức chủ quan và giới hạn của mình về truyền thống kinh điển hoặc khuôn mẫu Sớ Giải hơn là y cứ trên thực tại khách quan. Thật là một nhầm lẫn tai hại biết bao!

Hỏi:

- Cố gắng loại trừ điều xấu, trau dồi điều tốt là lý do tu hành chính đáng sao gọi là tham sân được?

Đáp:

- Lý do chính đáng nhưng động tác thực hiện sai thì bạn vẫn không đạt được mục đích. Giống như bạn thêm dầu để chữa cháy là đúng hay sai? Cũng vậy, bạn không thể loại trừ điều xấu bởi tham hay sân được. Nói vậy không có nghĩa là cứ để mặc cho thói hư tật xấu phát triển tự do chẳng cần cải thiện gì cả, vì như vậy lại rơi vào buông xuôi phóng dật. Nếu như một bộ phận nào đó trong ô-tô của bạn bị hỏng, dĩ nhiên là bạn phải sửa chữa hoặc loại bỏ nó đi và tìm mua một cái mới để thay vào. Nhưng trước tiên bạn hay người thợ máy phải thấy biết chính xác chỗ thật sự cần sửa đổi mới được.

Khi bạn cố gắng loại trừ điều xấu, trau dồi điều tốt do thấy biết đúng, đó là nỗ lực thuận pháp chứ không phải tham sân. Nhưng khi bạn cố gắng một cách chủ quan thiếu thấy biết đúng để loại trừ điều xấu, trau dồi điều tốt thì bạn chỉ làm cho vấn đề phức tạp thêm theo quan niệm thiện ác của bạn. Giống như người cứ cố uống thuốc để chữa bệnh nhưng không biết rõ bệnh mình cũng không am tường về thuốc thì không phải tự hại mình sao?

Hỏi:

- Khi tôi tập luyện yoga hay thực hành thiền định tất nhiên tôi phải cố gắng  điều hòa hơi thở và tập trung tâm ý. Sự cố gắng ổn định hai yếu tố như vậy là để phát triển năng lực sao có thể gọi là tiêu hao năng lực được?

Đáp:

Có hai loại năng lực:

- Một là nội lực tự sinh, năng lực này ẩn tàng, và bình sinh dường như không có dấu vết, nên không cần giữ gìn phát triển. Tuy nhiên khi cần nó sẵn sàng đáp ứng vô hạn mà không bao giờ bị hao tổn.

- Hai là năng lực thủ đắc do khổ công rèn luyện, năng lực này có giới hạn, tùy điều kiện, nên phải kiên trì gìn giữ, phát huy, mới không mai một. Nhưng khi đem ra sử dụng thì nó rất dễ bị tổn thương và cạn kiệt.

Trong trường hợp thứ nhất, một sự cố gắng chủ quan do tham vọng đạt được năng lực có thể chỉ cản trở tính linh hoạt của nội lực tự sinh. Năng lực này chỉ đến khi tâm bạn lặng lẽ rỗng rang, theo nguyên lý “Điềm đạm hư vô chân khí tùng chi”. Vì vậy bạn phải thận trọng xem lại việc luyện tâp yoga hay thiền định của bạn có thật sự là một nhu cầu tự nhiên hay chỉ là ý muốn chủ quan của bản ngã.

Trong trường hợp thứ hai, năng lực có thể đạt được nhờ khổ luyện với điều kiện bạn phải nỗ lực đúng và nhận thức đúng về sự tương quan vận hành của thân tâm. Nếu không bạn sẽ chỉ tiêu phí năng lực vô ích. Tất nhiên, cố gắng phát triển năng lực loại này bạn có thể thành công, nhưng năng lực nhân tạo này sẽ dễ dàng bị tiêu mòn ngay nếu bạn ngưng khổ luyện.

Hơn nữa, bạn phải sử dụng một năng lực để thủ đắc một năng lực mà bạn kỳ vọng, rồi lại phải mất một năng lực khác để duy trì phát triển năng lực đã đạt được. Như vậy có nghĩa là để đổi lấy năng lực bạn mong muốn thì bạn phải hao tổn năng lực của mình, đúng không?

Vì vậy, luyện công có vẻ như gia tăng công lực nhưng đồng thời cũng chính là đang tiêu phí năng lực. Giống như một võ sĩ vận lực tung ra một cú đấm mạnh bao nhiêu thì cũng tiêu hao bấy nhiêu công lực. Nên đánh càng lâu anh ta càng thấm mệt.

Nội lực tự sinh vốn vận hành một cách tự nhiên, tạo ra sự sống linh động, hài hòa, hanh thông bất trệ, đã bị phá hỏng bởi chính những nỗ lực chủ quan của chúng ta phát xuất từ bất mãn, tham vọng và vô minh tà kiến của “cái ta chấp thủ”.

Nếu bạn tập yoga hay hành thiền định như một cố gắng của cái ngã tham vọng thì bạn sẽ chỉ đạt được năng lực hữu hạn, nhưng khi bạn thật sự chánh niệm, khách quan và vô tư thì tinh tấn của bạn sẽ tùy cơ ứng biến một cách tự nhiên. Vì vậy, bạn không cần gắng sức mà tâm ý tự định tĩnh, năng lực tự điều hòa. Đó mới chính là yoga, thiền định đích thực và vô ngã. 

Hỏi:

- Phải chăng nói thế có nghĩa là mọi ý chí rèn luyện tu tập cho tương lai tốt đẹp hơn hay để hoàn thiện chính mình đều sai?  

Đáp:

- Không phải tất cả. Tuy nhiên, nếu chúng ta tự hỏi: “Ai mong muốn một tương lai tốt đẹp? Ai hy vọng hoàn thiện chính mình?” thì liệu câu trả lời sẽ là gì? Bạn có đủ can đảm đối mặt với sự thật này không? Phải chăng luôn có cái ta ẩn núp bên trong, thúc đẩy bạn thực hiện ý đồ của nó? Nếu vậy, càng đạt được nhiều sở đắc, cái ta của bạn càng kiên cố hơn. Để rồi chính cái ngã hoàn thiện đó trói buộc bạn chặt hơn trong luân hồi sinh tử. Làm thế nào bạn thoát khỏi hệ lụy này?

Ý chí hoàn thiện có thể chỉ là chiêu bài của tham vọng cầu toàn, mà thực chất chỉ là ảo tưởng “đứng núi này trông sang núi nọ” mà thôi. Vì vậy, nỗ lực loại bỏ cái này chiếm hữu cái kia trong sự chọn lựa chủ quan chỉ là sự vẽ vời của cái ta không ngừng vọng động.

Nếu tu tập là chiếu soi, khám phá thực tại để hóa giải cái ta ảo tưởng, cùng với toàn bộ qui trình vận hành của nó thì dĩ nhiên không sai. Và nếu rèn luyện là kỹ thuật đáp ứng những nhu cầu cần yếu hay điều chỉnh những vấn đề thiết thực hiện tại thì hoàn toàn đúng. Ví dụ như khi bạn bị đau lưng, bạn nên tập thể dục để điều chỉnh thì tốt hơn. Nhưng nếu nỗ lực rèn luyện để đáp ứng tham vọng của bản ngã thì chắc chắn là sai rồi.

Có ba khuynh hướng hoàn thiện chính mình:

- Khuynh hướng tinh tấn bao gồm những người dựa vào nỗ lực cá nhân để hoàn thiện chính mình. Nhưng phải mất một thời gian rất dài để giác ngộ, vì khó mà hóa giải được chấp thủ “cái ta” và “của ta” trong sự hoàn thiện ấy.

- Khuynh hướng đức tin bao gồm những người đặt niềm tin vào sự chỉ dẫn của bậc thầy để hoàn thiện chính mình. Vì dựa vào niềm tin nên dễ ỷ lại vào tha lực, nhưng không tự đắc về nỗ lực cá nhân của mình nên ít bị ý niệm “ta” và “của ta” chi phối, do đó thời gian giác ngộ nhanh hơn.  

- Khuynh hướng trí tuệ bao gồm những người dựa vào thấy biết khách quan để quan sát, quán chiếu thực tại và khám phá thực tánh của các pháp nên dễ dàng phát hiện ra bản chất vô ngã của sự hoàn thiện. Vì vậy, thời gian giác ngộ nhanh nhất.

Hỏi:

- Xin lỗi. Có phải vì sợ rằng nỗ lực là công cụ của bản ngã, mà phần lớn các nước theo Phật giáo đều nghèo, trong khi các nước phương Tây nhờ nỗ lực cầu tiến mà văn minh giàu có?

Đáp:

- Đây quả là một vấn đề khá tế nhị, và nhạy cảm, không thể đánh giá hời hợt qua hiện tượng bên ngoài. Thực ra, nghèo khó không chỉ dành riêng cho những nước châu Á theo Phật giáo, mà nhiều nước châu Phi không theo Phật giáo còn tệ hại hơn nhiều. Ngay cả ở trong các nước Âu Mỹ phồn thịnh cũng có không ít giai cấp bần hàn cơ cực.

Phật giáo không khuyến khích ai phải chịu nghèo khó. Chính đức Phật khen ngợi những người làm giàu một cách chân chính bằng trí tuệ và sức lực của mình, rồi còn biết sử dụng tài sản đó để lợi mình lợi người một cách hợp tình hợp lý. Vậy nguyên nhân thực sự của nghèo khó không phải vì giáo lý vô ngã của nhà Phật.

Nhân đây tôi xin đưa ra một vài gợi ý để chúng ta cùng suy gẫm hơn là vội vàng kết luận. Nghèo khó có thể phát xuất từ nhiều nguyên nhân khác nhau tùy từng trường hợp như:

- Vì lười biếng, thiếu nỗ lực hoặc thiếu ý chí tiến thủ.

- Vì không có điều kiện thuận lợi để làm giàu như: năng lực, phương tiện, vốn đầu tư…

- Vì bị các nước đề quốc, thực dân giàu mạnh xâm lăng, cai trị, bóc lột, cướp đoạt.

- Vì người thật thà chất phác đã bị những người giàu có bất lương –  cường hào, ác bá –  đẩy  vào chỗ khốn cùng. 

- Vì lương tâm không cho phép làm giàu bất chính.

- Vì đánh giá sự giàu có tinh thần (trí tuệ, đức hạnh) cao hơn sự thịnh vượng vật chất (tài sản, địa vị).

- Vì đánh giá đời sống an bình hạnh phúc hơn là sở hữu tài sản.

Vậy tại sao chúng ta không đặt câu hỏi ngược lại để xét xem: “Bên cạnh những cống hiến khoa học và cung ứng tiện nghi vật chất, sự giàu mạnh của các nước phương Tây có thật sự đem lại hạnh phúc cho nhân loại không hay chính vì cố làm giàu mà các nước công nghệ tiên tiến đã trở thành thủ phạm hủy diệt sự sống trên trái đất chúng ta?” Xin bạn tư duy thật kỹ lưỡng về điều này.

Chương 6
Bình thản chịu đựng
(Nhẫn nại)

Ứng phó với một sự kiện hay một vấn đề, chúng ta thường có thói quen hành động vội vàng, thiếu ý thức minh bạch, theo cảm tính hoặc quan niệm đã được lập trình sẵn trong bộ nhớ của chúng ta. Điều gì trái ý chúng ta liền giận dữ phản kháng, và cố gắng loại trừ càng sớm càng tốt; điều gì vừa lòng thì thích thú nắm bắt ngay và nỗ lực chiếm hữu cho bằng được. Hai thái độ cảm tính và quán tính này thiếu hẳn sự sáng suốt tỉnh thức và sự trầm tĩnh nhẫn nại.

Người trầm tĩnh sáng suốt, thường biết quan sát khách quan mọi sự vật theo bản chất tự nhiên, sẽ không vội vàng phản ứng một cách vô thức như vậy, vì họ biết rằng bất cứ điều gì xảy ra đều có nguyên nhân và điều kiện của nó theo qui trình vận hành tự nhiên của nhân quả. Muốn thấy rõ bản chất của mọi tình huống, chúng ta cần phải biết kham nhẫn, chịu đựng, kiên trì để quan sát rõ ràng, chiêm nghiệm trung thực và lắng nghe trọn vẹn bài học khám phá bản chất sự thật.

Ngay cả khi bạn cố gắng hành thiền với tham vọng loại bỏ phiền não khổ đau để đạt đến lý tưởng an lạc, hoặc sở hữu những khả năng siêu nhiên, cũng chứng tỏ rằng bạn thiếu kiên nhẫn trong quán chiếu khách quan những phiền não khổ đau này để thấy ra bản chất thực của chúng. Vì vậy, thực ra, bạn đang cố gắng lẫn tránh thực tại như nó đang hiện hữu.

Trốn tránh thực tại để theo đuổi một viễn ảnh lý tưởng chỉ là thả mồi bắt bóng, vì không biết rằng mọi sự tốt đẹp nhất đều đã viên mãn ngay nơi thực tại hiện tiền này. Cho nên để thấy ra thực tại vi diệu đó, chúng ta không thể tránh đối diện sự thật mà cần phải có đủ can đảm, chân thành mới có thể kham nhẫn chịu đựng tất cả mọi pháp đến và đi như những yếu tố cần thiết cho bài học từ bi và giác ngộ.

Điều chúng ta cần không phải là những sở đắc tương lai mà là khám phá thực tại. Vô minh, tức không thấy ra sự thật tại đây và bây giờ, là khởi đầu của phiền não khổ đau trong luân hồi sinh tử. Không thể chấm dứt những phiền não khổ đau này khi vô minh còn đó, hay khi thực tại vẫn chỉ là ảo tưởng trong tâm thức chúng ta.

Khi nghe có một vị đạo sư ở một chân trời nào đó có thể truyền dạy phương pháp đạt được những khả năng siêu việt như thần thông, pháp thuật v.v… thì ít người kiềm chế được lòng tham của mình. Bạn chẳng ngần ngại, từ bỏ tình trạng thực tại của mình, lên đường tầm sư học đạo, sẵn sàng tuân thủ mọi chỉ dẫn hay luật lệ của ông ta, với hy vọng mau chóng đạt được trạng thái siêu huyền lý tưởng, mà bấy lâu bạn hằng mơ ước. Nhưng lý do nào thúc đẩy những ước mơ đó? Đơn giản chỉ vì bạn không kham nổi tình trạng bất toàn, bất như ý của cái ngã hiện tại, nên luôn tìm cầu một bản ngã toàn bích, như ý, ở tương lai.

Thực ra, không có năng lực nào tốt hơn khả năng có thể kiên trì nhẫn nại trước mọi thử thách cam go đầy phiền não khổ đau trong cuộc sống để học ra bài học giác ngộ của chính mình, với một tâm hồn bình thường giản dị. Bởi vì, tâm chúng ta càng giản dị càng dễ dàng nhẫn nại, càng nhẫn nại càng trầm tĩnh, khi có trầm tĩnh mới sáng suốt thấy rõ lẽ thật của cuộc sống. Vậy vấn đề không phải là tránh né phiền não khổ đau hay mong cầu bình an hạnh phúc mà an lạc chỉ đến khi chúng ta nhận ra bản chất thật của cuộc đời.   

Giác ngộ giải thoát không có nghĩa là tìm đến một chân trời lý tưởng thường, lạc, ngã, tịnh, mà chính là nhận chân bản chất của đời sống là vô thường, khổ não, vô ngã, bất tịnh. Và chính nhẫn nại giúp chúng ta có đủ can đảm đối mặt với sự thật khó chịu này để nhận chân ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Nhờ đó mọi phiền não mới thực sự chấm dứt hoàn toàn để bạn có thể ung dung trong ràng buộc, tự tại giữa khổ đau với một nụ cười an nhiên, vô úy.

Cuộc sống, quả thật, đầy phiền não khổ đau, nhưng đó cũng chính là cơ hội tốt nhất cho giác ngộ giải thoát. Khổ đau là lời cảnh tỉnh sống thực nhất cho chúng ta biết mình đã mắc phải sai lầm nào. Theo Đông y “Thống tất bất thông” (Đau tức không ổn). Như đau bụng cho chúng ta biết đã ăn uống thiếu vệ sinh, chẳng hạn. Vậy thật thông minh, chính xác khi nói rằng:

Con người là kẻ học nghề,
Mà thầy là nỗi ê chề đớn đau,
Không ai tự biết mình đâu,
Nếu chưa từng trải đớn đau nhiều bề.

Điều chính yếu là bạn có biết cách lấy khổ đau làm bài học giác ngộ không hay để cho khổ đau đẩy bạn vào vực thẳm, như một danh ngôn đã nói: “Cảnh khổ là nấc thang cho bậc anh tài, là kho tàng cho người khôn khéo và là vực thẳm cho kẻ yếu đuối”.

Vậy cuộc đời là một trường học giác ngộ mênh mông vô tận. Và những vị thầy lỗi lạc nhất chính là những cảnh ngộ mà chúng ta gặp trong suốt đời mình. Những vị thầy tận tụy này, không ngừng chỉ dạy chúng ta biết cách sống, cách ứng xử, cách học ra chân lý nơi chính mình và cuộc đời; huấn luyện chúng ta những đức tính cần yếu như nhẫn nại, yêu thương, cảm thông, chia sẻ v.v.

Nói cách khác, đời là tấm gương phản ánh trung thực nhất diện mạo chúng ta trong mọi tình huống. Và bài học giác ngộ chính xác nhất không phải là một phương pháp cố định nỗi tiếng nào để chúng ta phải tuân thủ suốt đời, mà chính là những diễn biến luôn đổi thay trong thái độ chúng ta nơi sự tương giao với từng cảnh ngộ hàng ngày.

Ví dụ, khi có người mạt sát bạn, đó là vị thầy đang trực tiếp chỉ cho bạn thấy chính xác nhất diễn trình phản ứng của bạn ngay lúc đó là gì: bình tĩnh hay nóng giận, dịu dàng hay hung dữ. Vậy mà bạn không đủ kiên nhẫn để học và nhận chân sự thật ngay đó trong tình trạng hiện thực của nó. Bạn để nó qua đi, ẩn vào đáy sâu vô thức, rồi loay hoay tìm kiếm cây đũa thần từ một vị đạo sư lừng danh, hay một phương pháp thiền của một thiền sư nổi tiếng, tin rằng nhờ đó tương lai bạn sẽ đạt đến thiền định, trí tuệ, thần thông, Cực Lạc hay Niết-bàn. Nhưng nếu bạn không trở lại để thấy nó (ehipasiko) trên chính nó  (opanayiko), thì làm sao tự mình thấu rõ (paccttam veditabbo) thực tại ngay đây (sandiṭṭhiko)

Nhẫn nại là khả năng kiềm chế thân tâm trước những xung động quá mức hay những tình cảm bốc đồng, không những chỉ sân hận mà cả tham lam, ngạo mạn, ích kỷ, tật đố v.v. đặc biệt là những thói hư tật xấu hay sự nghiện ngập đã tập nhiễm lâu ngày. Như vậy, người nhẫn nại là người biết làm chủ bản thân không bị lôi cuốn theo những cảm xúc vô thức.

Nhẫn nhịn là sự nhượng bộ khi bạn sẵn sàng tự nguyện nhường bước trước một áp lực, không phải vì sợ hãi, mà vì bạn biết rõ rằng giương buồm trước bão tố không những vô ích mà còn tự rước họa vào thân. Ví dụ như trước sự đe dọa hung dữ, ương ngạnh của dạ-xoa Alavaka, đức Phật vẫn nhu thuận, không tỏ thái độ bực tức, khinh mạn, ghét bỏ, kinh sợ hay thù nghịch. Nhưng cuối cùng dạ-xoa Alavaka kẻ tự phụ hiếu thắng lại bị khuất phục trước đức tính nhu hòa nhẫn nhịn của Phật.

Kham nhẫn là sự chịu đựng những hoàn cảnh khó chịu đựng. Ví dụ như kham nhẫn với cảm giác đau đớn, thời tiết khắc nghiệt, lời chỉ trích phỉ báng v.v. Người có thể dễ dàng kham nhẫn những tình huống khó khăn như vậy phải là người không nệ khó khăn và có đủ trầm tĩnh sáng suốt. Nếu không đôi lúc chỉ một vết bẩn trên áo, một con muỗi vo ve, một tia nắng hay một giọt mưa v.v. cũng có thể làm cho anh ta bực mình, cáu kỉnh.

Dễ bất bình, nóng giận dù chỉ với chuyện nhỏ nhặt không đâu, là dấu hiệu của sự thiếu kham nhẫn, và cũng là triệu chứng của suy nhược thần kinh. Vì vậy, hãy coi chừng, khi bạn thiếu kham nhẫn sẽ gây ra sự bực tức hoặc phản kháng, đó là nguyên nhân của tình trạng bất an và căng thẳng.

Kiên nhẫn là sự chịu đựng bền bỉ khi bạn muốn hoàn thành một công việc nào đó. Không phải chỉ những việc khó khăn, lâu dài mà đơn giản như sự chờ đợi cũng cần phải có lòng kiên nhẫn. Vì khi chờ đợi một người nào hay một việc gì, bạn càng nôn nóng bao nhiêu càng chịu nhiều áp lực bấy nhiêu. Nhiều người khởi sự rất hăng say nồng nhiệt nhưng khi gặp trở ngại thì liền nản chí ngã lòng, bỏ cuộc nữa chừng. Đó là vì thiếu lòng kiên nhẫn lâu bền.

Nhẫn nhục là sự chịu đựng khổ nhục khi bạn chấp nhận gánh chịu sự vu khống, mạ lỵ, đàn áp dã man, tra tấn tàn nhẫn v.v. mà vẫn không sinh lòng thù hận. Đây không phải là đành chịu nhục nhã vì vô phương chống đỡ, vì đợi thời cơ trả thù rửa hận, hay chỉ là khổ nhục kế để mưu lợi về sau như suy nghĩ thường tình. Có thể nói nhẫn nhục là đức tính khó nhất trong tất cả loại nhẫn. Người có thể kiên gan chịu đựng nỗi khổ nhục mà tâm vẫn thản nhiên tự tại phải là người có một tấm lòng khoan dung vô lượng và một sức nhẫn nại khôn cùng.

Lợi ích của nhẫn nại

Không ai thích khó khăn, gian khổ, đơn giản chỉ vì những điều này rất khó chịu. Nhưng như chúng ta đã biết, không phải tất cả những gì khó chịu đều vô ích hay có hại. Thực ra, phần lớn khổ đau giúp chúng ta thăng hoa rất nhiều phương diện nếu chúng ta biết kiên nhẫn lắng nghe, học hỏi và chiêm nghiệm kỹ càng. Muốn biết vàng ròng phải cần thử lửa, cũng như muốn vượt qua những thử thách gian khổ để hoàn thành bài học giác ngộ của mình thì trước hết bạn phải có lòng nhẫn nại.

Khi bạn đã có đủ nhẫn nại để vượt qua những trắc nghiệm gian khó thì đồng thời dù không mong đợi bạn vẫn gặt hái được những thành quả xứng đáng bất ngờ.

- Luôn trầm tĩnh sáng suốt: Nhẫn nại và trầm tĩnh luôn đi đôi với nhau, nhờ đó chúng ta có đủ sáng suốt để nhận ra sự thật. Ngược lại “giận mất khôn” luôn là nhược điểm của người thiếu nhẫn nại.

- Sống nhu hòa khả ái: Người nhẫn nại  sống nhu hòa hơn cương mãnh, nên họ dễ dàng thích nghi với mọi hoàn cảnh mà vẫn không đánh mất mình. Nói theo Lão Tử thì “Nhu thắng cương, nhược thắng cường” nên họ được nhiều người kính yêu hơn là thù oán.

- Tránh bệnh tật, tai họa: Người nhẫn nại sẽ dễ dàng tự chủ trong nói năng, hành động và suy nghĩ nên tránh được những tai họa gây ra do nóng nảy bộp chộp. Tránh được những bệnh tật bắt nguồn từ tình trạng căng thẳng, bức xúc.

- Tâm thanh thản thoải mái: Người thiếu nhẫn nại thường tự thiêu đốt mình bằng ngọn lửa sân hận, lo âu và sợ hãi. Trong khi người giàu đức nhẫn nại luôn có cảm giác thư thái, an bình thoải mái.

- Phát triển từ bi hỷ xả:  Sau khi vượt qua được sự nóng giận trước những đối tượng không vừa lòng, tâm người nhẫn nại trở nên dịu dàng mát mẻ, đó là biểu hiện của lòng từ ái. Đã làm chủ được tâm sân thì lòng ganh tỵ cũng được loại trừ, vì vậy tâm thường hoan hỷ. Đồng thời, là người từng trải nghiệm khổ đau họ dễ dàng cảm thông và chia sẻ với những nỗi khổ đau của kẻ khác, đó là lòng bi mẫn. Và họ cũng là người ít cố chấp, câu nệ nên tâm dễ dàng buông xả, quân bình. 

Hỏi:

- Đối với những kẻ xấu ác, có hại cho nhiều người, nếu chúng ta chỉ biết nhẫn nại thì làm sao trấn áp hoặc ngăn chận chúng khỏi gây ra hành vi phạm tội?

Đáp:

- Ở đây chúng ta đang nói về đức tính nhẫn nại, chứ chưa nói đến biện pháp giải quyết. Biện pháp thì có rất nhiều như: thương yêu, giáo dục, cải tạo, ngăn ngừa, trừng phạt v.v. và thậm chí khai trừ, loại bỏ, tùy theo từng đối tượng, từng hoàn cảnh. Nhưng để thực hiện những biện pháp này một cách chính xác, có hiệu quả, đúng đối tượng, đúng hoàn cảnh thì trước hết phải có lòng nhẫn nại. Càng thiếu nhẫn nại xác suất sai lầm trong xét xử càng cao. Và coi chừng, xét xử sai cũng chính là xấu ác thì làm sao cải thiện được những người xấu ác?

Hỏi:

- Tôi có kinh nghiệm là càng nhẫn nhịn càng dễ dàng cho kẻ xấu thực hiện mưu đồ đen tối. Dường như sự nhẫn nhịn luôn bị kẻ xấu lợi dụng, vậy có nên nhẫn nhịn mãi không?

Đáp:

- Thế thì xem ra bạn chưa đủ nhẫn nại hoặc còn có điều gì sai lầm trong đó, bởi vì mặc dù bạn nói đã nhẫn nại nhưng rõ ràng là bạn vừa mới tỏ ra còn ít nhiều ấm ức bất mãn, phải không? Nhẫn nhịn không có nghĩa là nuốt hận chịu thua để cầu an hoặc để  phục hận về sau. Người có thể nhẫn nhịn thường rất trầm tĩnh và tự tin, vì vậy người ấy có đủ sáng suốt để tránh được những cách xử sự nóng nảy hấp tấp, và biết sống sao cho hài hòa với mọi người, dù xấu hay tốt, một cách hợp tình hợp lý, không độc tài cũng không xu nịnh. Nhẫn nại là mảnh đất vững chắc thích hợp để nảy nở tình thương yêu, thông cảm và sự hiểu biết đúng đắn, nh đó bạn có thể cảm hóa người xấu hơn là cạnh tranh với họ.

Chúng ta cần phải thận trọng trong việc đánh giá người xấu kẻ tốt. Chẳng hạn như người đối nghịch với mình chưa hẳn là xấu, kẻ ủng hộ mình chưa hẳn là tốt. Xấu hay tốt tùy thuộc vào bản chất đạo đức của mỗi người. Nói chung, kẻ xấu thường hành động, nói năng, suy nghĩ hại mình, hại người. Ngược lai, người tốt không những không làm hại ai mà còn đem lại lợi ích cho mọi người. Thực ra, người xấu thật bất hạnh, nên được thương yêu tha thứ, vì dù thế nào đi nữa, họ sẽ phải chịu nhiều khổ đau khi phải trả cái giá cho tâm địa xấu xa tội lỗi của mình. Dù khi nhẫn nại, nếu cần bạn có thể nghiêm khắc để họ khỏi quấy phá, nhưng bạn phải chắc rằng đó không phải là phản ứng phát xuất từ giận dữ, thù ghét, mà bạn chỉ muốn giúp họ trở nên tốt hơn hoặc ngăn chận sự thiệt hại cho nhiều người khác mà thôi. Bạn không nên trừng trị kẻ ác một cách chủ quan theo kiểu “thay Trời hành đạo” mà cứ để ác hữu ác báo theo luật nhân quả tự nhiên.

Hỏi:

- Một số tôn giáo tin vào thuyết định mệnh, cho rằng mọi sự đều đã được an bài. Nhờ vậy họ dễ dàng nhẫn nại hơn. Điều đó có tốt không?

Đáp:

- Thật sự nhẫn nại thì không do áp lực. Niềm tin ở điều gì chưa biết rõ chính là sự sợ hãi áp lực từ bên ngoài. Nhẫn nại không có từ sự phục tùng hay do một giả định mà vì thấy rõ vấn đề và vì sự cần thiết của chính nhẫn nại. Theo Phật giáo, nhẫn nại cũng là một hình thức chịu trách nhiệm về hành vi của chính mình đã làm trong quá khứ, đồng thời qua hậu quả đó thấy rõ sai lầm để tự điều chỉnh hành vi của mình. Ví dụ, một học sinh có điểm toán thấp, phát hiện ra do mình ham chơi và thiếu chú ý. Bởi vậy, bây giờ em học hành siêng năng và chú ý vào môn toán hơn để tự điều chỉnh sai lầm của mình và tất nhiên sẽ cải thiện được điểm toán của em về sau. Đó hoàn toàn là do nhận thức đúng của em, không phải do định mệnh nào từ bên ngoài.

Hỏi:

- Có mấy người láng giềng luôn ngấm ngầm hãm hại gia đình tôi. Tôi không thể chịu đựng được nữa. Như vậy, tôi nên cố gắng nhẫn chịu hay nên dời nhà đến nơi an toàn để dễ dàng hành thiền hơn? Nếu chấp nhận ở lại không chịu khai thông trở ngại làm sao tôi có thể đạt được giải thoát?

Đáp:

- Trước khi trả lời câu hỏi, tôi xin kể vắn tắt câu chuyện đức Phật bị sỉ nhục khi đi vào thành Kosambi khất thực. Để trả mối thù tự ái bị tổn thương trước đây, bà thứ phi Migandiyā xứ Kosambi đã xúi giục dân chúng mắng chửi, nhục mạ đức Phật một cách thậm tệ. Tôn giả Ananda thấy vậy liền xin thỉnh đức Phật đi qua thành khác khất thực. Đức Phật hỏi, nếu qua chỗ khác cũng bị mắng chửi nữa thì sao? “Bạch Thế Tôn, thì đi chỗ khác nữa.” Phật nói: “nếu đi đến đâu cũng bị mắng chửi, thì chúng ta cứ đi, đi mãi, hay sao? Này Annda, hãy để cho phiền não tự diệt nơi đâu chúng khởi sinh.” Quả nhiên, bảy ngày sau dân chúng thành Kosambi không còn nhục mạ đức Phật nữa.

Đừng tưởng rằng bạn càng tu lên cao thì càng được an toàn hơn. Ngược lại, nếu bạn muốn được tốt hơn thì phải đối đầu với nhiều thử thách hơn. Ngay cả Đức Phật, sau khi giác ngộ vẫn còn chịu tám nạn lớn trong đó có sự mưu sát của Devadatta. Cũng vậy, Đức Chúa bị Juda phản bội và phải chịu cực hình đóng đinh trên thập tự giá. Thánh Gandhi bị thảm sát mặc chủ trương bất bạo động.

Nếu chướng ngại là quả của nghiệp thì không có cách nào tránh né được. Như đức Phật dạy trong Kệ Pháp Cú 127: “Không phải trên hư không, không phải giữa biển cả, không phải vào hang sâu, không nơi nào trên đời có thể tìm thấy được chỗ tránh quả ác nghiệp”. Vì vậy, bậc thiện trí thức sợ gieo nhân chứ không sợ gặt quả. Nhiều người làm ác hay làm lành mà chẳng thấy báo ứng đâu cả nên không tin nhân quả nghiệp báo, nhưng đó là vì chưa đến lúc trổ quả mà thôi. 

Thực ra, nghiệp quả có ý nghĩa giáo dục rất cao:

1) Giúp chúng ta biết chịu trách nhiệm về hành vi đạo đức của mình.

2) Chỉ cho chúng ta thấy ra nguyên nhân đã tạo trong quá khứ.

3) Thấy nhân thấy quả chính là thấy bản chất vô thường, khổ và vô ngã của vạn pháp.

4) Rèn luyện chúng ta những đức tính cao quí như nhẫn nại, cảm thông, thương yêu, tha thứ v.v.

5) Người sẵn sàng đón nhận nghiệp quả mà vẫn định tĩnh sáng suốt, vẫn vượt khỏi tham ưu, chắc hẳn là người đã thong dong tự tại.

Vậy tại sao bạn không nhận sự quấy rầy của những người hàng xóm để trưởng dưỡng đạo tâm như nhẫn nại, thương yêu, cảm thông và trí tuệ? Thật ra khi trong tâm còn phiền não thì dù đi tới chân trời góc biển nào khổ vẫn bám theo. Chúng ta luôn muốn đổi mới nhưng thực ra chỉ đổi cái khổ này qua cái khổ khác. Rồi chúng ta không ngừng chọn lựa, nhưng khi đã chọn bề mặt thì chúng ta cũng phải lấy luôn bề trái.

Hỏi:

- Mặc dù tôi cũng tin như vậy, nhưng thật khó mà nhẫn nhục được với hạng người vừa hung ác vừa xảo quyệt. Họ vừa ăn cướp vừa la làng, hại người này rồi đổ tội cho người khác. Khổ nỗi họ khéo nịnh bợ cấp trên nên luôn được che chắn, ô dù. Cho nên hạng người này cần được triệt hạ đi vì sự an lạc của mọi người, sao lại phải cam tâm chịu nhịn với chúng?

Đáp:

- Tôi hoàn toàn thông cảm với bạn, và hầu như phần lớn chúng ta đều muốn như vậy. Nhưng trên thực tế triệt hạ người ác đâu có dễ, phải không? Ai mà biết chúng ta triệt hạ họ hay họ triệt hạ chúng ta trước rồi! Dù sao, bình tĩnh chịu đựng sẽ tốt hơn, vì cuối cùng nhẫn nại vẫn là thượng sách. Biết đâu bạn càng cố thanh trừng gắt gao, kẻ xấu càng trở nên ma mãnh hơn trong khi nếu bạn trầm tĩnh nhẫn nại thì mọi việc sẽ được giải quyết sớm sủa hơn nhiều.

Lúc đầu phần lớn chúng ta đều cảm thấy khó chịu khi quan hệ với người xấu, nhưng sau một thời gian ứng phó với họ xem ra chúng ta trưởng thành hơn, bản lãnh hơn, khôn ngoan hơn và tiến bộ hơn rất nhiều. Phải chăng đó là những thử thách mà mọi người phải trải qua trên đường chuyển hóa? Không chừng một ngày nào đó bạn sẽ nhận ra rằng chính hạng người này đã vô tình giúp bạn tự khám phá, tự điều chỉnh để hoàn thiện chính mình. Không có những thử thách đó làm sao bạn có thể biết mình và biết người một cách rõ ràng cụ thể? Nhận ra điều này hẳn bạn sẽ cám ơn những kẻ khó chịu này.

Người làm ác cũng có nỗi khổ riêng của họ: những toan tính bạc đầu, những lo âu sợ hãi, những ray rứt khôn nguôi trong lòng lại còn bị căm thù, phỉ nhổ, nguyền rủa, khinh khi… từ bên ngoài. Vậy bạn đừng phản ứng khinh suất. Hãy để họ học ra bài học của mình từ quả đắng tự nhiên của hành động ác, một cách công minh xác đáng. Dù sao, họ cũng đáng thương để cảm thông hơn là ghét bỏ. Hãy cầu nguyện cho họ sớm học ra bài học của mình để biết hồi đầu hướng thiện. Cái chính là bạn phải tự khám phá xem chính mình có xấu xa đê tiện không trước khi quan tâm sửa trị những điều thị phi của người khác.

Hỏi:

- Sống thì phải có ước mong, hy vọng một tương lai tươi sáng hơn, chẳng lẽ chỉ nhẫn nại với hiện tại là đủ sao? Sự việc là vợ chồng tôi đang nỗ lực kiếm sống, nhưng chưa đủ tiền để mua nhà nên phải ở nhà trọ. Vậy chúng tôi có quyền hy vọng và phấn đấu để có được một ngôi nhà, hay cứ cam tâm nhẫn chịu tình hình hiện tại?

Đáp:

- Tôi cũng chúc bạn có thể sớm sở hữu một ngôi nhà như ý. Nhưng muốn đạt được mục đích như vậy trước tiên bạn phải biết bình tĩnh đợi chờ. Bình tĩnh đợi chờ là cốt cách của lòng nhẫn nại. Bạn có quyền hy vọng và phấn đấu cho tương lai của mình. Không ai bắt bạn phải bằng lòng với hiện tại. nhưng trước hết phải có lòng nhẫn nại, nếu bạn nóng vội thì thất bại là cái chắc.

Khi bạn đang trong tình trạng không vừa ý thì càng mong một tương lai tốt đẹp hơn bạn càng bị đè nặng bởi áp lực thời gian, và cảm thấy hiện trạng của mình tồi tệ hơn. Và cứ thế bạn kéo dài sự bất an căng thẳng làm phá hỏng không khí đầm ấm của gia đình bạn, thậm chí có thể làm cho nó đổ vỡ trước khi bạn nhìn thấy giấc mơ của mình có trở thành hiện thực hay không. Nếu nhẫn nại bạn sẽ không còn tạo ra áp lực thời gian và có thể dễ dàng đối mặt với thực trạng của mình. Hơn nữa bạn sẽ có đủ trầm tĩnh sáng suốt để biết cần làm gì tốt nhất cho căn hộ tương lai mà bạn hằng mong đợi.

Chương 7
Hành vi tinh tế
(Giới luật)

Giới hạnh (sīla) không những là yếu tố không thể thiếu trong hành trình giác ngộ giải thoát, mà còn là nhu cầu thiết yếu cho mọi sinh hoạt tốt đẹp trên đời. Giới là nền móng vững chắc để ngôi nhà thiền định (samādhi) và trí tuệ (paññā) được xây dựng hoàn mỹ. Một lâu đài không thể xây trên cát mà không cần nền móng vững chắc. Cũng vậy, không có giới hạnh chắc chắn không có thiền định và trí tuệ. Không có trí tuệ làm sao có giác ngộ giải thoát?

Tuy nhiên, chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa đích thực của giới là gì, nếu không dù bạn cố gắng giữ gìn giới luật thật nghiêm ngặt vẫn không thể nào phát sinh thiền định và trí tuệ. Thậm chí, nhiều khi giới còn gây trở ngại cho việc phát huy thiền định và trí tuệ nữa. Giới, định, tuệ tuy ở ba phương diện khác nhau, nhưng luôn phối hợp chặt chẽ và hỗ trợ nhau trong mọi pháp môn tu tập. Giới, định, tuệ cũng có chung nhiều yếu tố thiện pháp, trong đó nổi bật nhất là chánh niệm sự thận trọng (appamāda).

Giới mà chúng ta nói ở đây không phải là những qui điều bắt buộc được đặt ra một cách chủ quan theo ý riêng của một hay nhiều người có thẩm quyền, như vua chúa, giáo chủ hay bất cứ nhà làm luật nào. Cũng không phải là những qui định mà mỗi người đặt ra để tự ràng buộc vì lợi ích của chính mình .

Khi sống thành gia đình, đoàn thể, cộng đồng, quốc gia hay một tổ chức xã hội theo bất cứ mô hình chính trị nào, tất nhiên phải có luật lệ để giữ gìn an ninh trật tự cho đời sống an bình hạnh phúc của mọi người . Cho nên, dù tự nguyện hay bị bắt buộc thì mọi người cũng phải tuân theo luật định vì quyền lợi và bổn phận của mỗi thành viên trong cộng đồng xã hội đó.

Tuy nhiên, không có luật lệ nào hoàn hảo, vì bản chất của luật lệ thường được qui định dưới hình thức cấm đoán, để ngăn ngừa hay chận đứng những hành vi gây tổn hại hoặc đối phó với tình trạng bất ổn trong đời sống cộng đồng mà thôi. Không chỉ những cấm đoán khắt khe của những bạo chúa hay những kẻ độc tài, ngay cả những luật lệ tốt nhất cũng chỉ tốt đối với người này không tốt cho người kia, hợp mỗi thời, không hợp mọi lúc. Luật lệ có vẻ như để nhiếp phục người xấu, bảo vệ người tốt, nhưng nhiều khi người xấu chưa chế ngự được mà người tốt đã bị thiệt thòi không nhỏ.

Giới luật mà đức Phật chế định được các nhà làm luật đánh giá là rất khoa học, công bằng, dân chủ và mang tính nhân bản rất cao. Khi đi sâu hơn vào nội dung tinh yếu nhất của một số giới luật, chúng ta còn nhận ra được ý nghĩa thâm sâu hơn nữa, có thể gọi đó là tính siêu nhân bản, hay siêu phàm nhập thánh. Tuy nhiên, trên phương diện tục đế, dù là giới luật nhà Phật vẫn không tránh khỏi tính bất toàn như đã nói trên. Phần lớn những giới luật loại này không mang tính cốt lõi, chỉ tùy duyên ứng xử mà thôi.

Như vậy, chúng ta cần phân ra các loại giới luật khác nhau được chế định phù hợp với nhiều tính chất, tình huống và hoàn cảnh khác nhau, như sau:

- Do người đời chê trách.

- Để ngăn ngừa hành động và nói năng tai hại.

- Vì lợi ích đời sống tập thể.

- Để thoát khỏi những sai lầm bất thiện.

- Làm cho thanh tịnh thân khẩu.

- Làm nền tảng cho sự phát triển định tuệ.

Ba điều trước có liên quan đến người khác trong cộng đồng xã hội, nên đó là cách xử thế bên ngoài. Ba điều sau hướng về hoàn thiện chính mình, nên có tính đối nội và là cốt lõi trong giới luật Phật giáo.

Mặt khác, giới còn có hai phương diện: hữu hạn và vô hạn. Giới hữu hạn là một số giới điều cố định cho từng đối tượng hành giới khác nhau. Ví dụ, năm giới, tám giới dành cho Phật tử tại gia. Giới xuất gia dành cho sa-di, tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni. Giới vô hạn bao gồm tất cả biểu hiện tốt đẹp của thân hành qua nói năng và hành động. Nói chung, dù hữu hạn hay vô hạn, giới thường được gọi tên theo tác dụng hay ý nghĩa của nó, chẳng hạn như điều học, hành vi đạo đức, sự tự chủ, sự thanh tịnh v.v.

Giới là điều học vì qua đó, nếu khéo quan sát, chúng ta học được tình trạng, tính chất và động lực thúc đẩy đàng sau của mỗi hành vi đạo đức hoặc phi đạo đức. Nghĩa là chúng ta có thể học ra từ những điều học này nguyên nhân, điều kiện và hậu quả của những hành vi bên ngoài đang biểu hiện qua hành động nói năng. Nhờ những điều học đó mà sự tinh tấn và chánh niệm được chính xác hơn. Đáp lại, chánh tinh tấn và chánh niệm giúp chúng ta hiểu thấu ý nghĩa đích thực của giới, làm cho giới được trong sạch và không còn giới hạn, không để cho hành vi rơi vào máy móc hay quán tính vô thức.

Giới hành vi đạo đức nhưng không có nghĩa là những giáo điều mẫu mực cố định để qui định khuôn khổ một hành vi đạo đức phải như thế nào, mà chỉ đưa ra những gợi ý nhằm gây ý thức cảnh giác để ngăn ngừa, chế ngự hoặc từ bỏ hành vi phi đạo đức mà thôi. Qui định một hành vi tốt như thế nào khác hẵn với việc học hỏi có ý thức để từ bỏ một hành vi xấu. Bởi vì, một khi hành vi tốt đã bị qui định trong khuôn khổ thì không còn là hành vi thật sự tốt nữa, nó chỉ còn là một sự bắt buộc hoặc bắt chước, không phát xuất từ ý thức tự do.  Một hành vi đạo đức thật sự thì tự do và vô hạn.

Giới là sự phòng hộ, như áo giáp để phòng thân có thể ngăn ngừa những tai hại đến từ bên ngoài. Khi chúng ta khéo tránh những hành vi bất thiện, không để cho thân buông theo khuynh hướng xấu của bản năng hay tình cảm thì chắc chắn chúng ta tránh được vô số hiểm họa như bệnh tật, tai ương, thù oán, nợ nần hay nghiện ngập…v.v.

Giới là sự thận trọng,  vì hành động đạo đức chỉ được hoàn hảo khi có sự cẩn thận, khéo léo, kỹ lưỡng, nghiên túc trong mọi hành vi. Những người không buông lung hời hợt, tuy họ hành động tự nhiên nhưng rất kỹ cương, chính xác, chuẩn mực và đạo đức. Họ rất tinh tường trong giới luật cho dù có thể họ không biết đến một hệ thống luật lệ nào. Họ có phong thái rất chững chạc nhưng không hề cố ý tạo ra một mẫu phong cách riêng nào cho mình cả. Chuẩn mực của họ không phải là khuôn mẫu cố định nào mà chính là sự thận trọng, tinh tế, cẩn mật, chu toàn và luôn mới mẻ trong từng hành động nhỏ nhặt nhất hàng ngày.

Giới là sự tự chủ vì những điều học nhắc nhở chúng ta biết dừng lại đúng lúc, biết tự điều chỉnh hành vi của mình, và biết trường hợp nào cần tự chế, tiết giảm hay điều độ. Thái quá hay vượt qua giới hạn cho phép là thái độ sống buông thả, thiếu kỹ cương và kém hiểu biết, kết quả không những chuốc họa vào thân mà còn vạ lây người khác. Sự chế ngự các giác quan khi thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm cũng là một hình thức tự chủ của giới. Nói chung, về phương diện tự chủ, giới giúp chúng ta không sống phóng túng cẩu thả theo bản năng thể xác, không hành động buông lung theo quán tính vô thức.

Giới là sự thanh tịnh vì nó làm lắng dịu những phiền não thô thiển biểu hiện qua hành động và lời nói. Những người có thể tự chế thân khẩu thì giác quan của họ cũng được thanh tịnh khi tiếp xúc với hoàn cảnh xung quanh. Đây là hệ quả của sự tự chủ, như đã nói trên, được gọi là giới thanh tịnh do chế ngự các giác quan.

Giới là sự giải thoát  vì một khi tránh được điều sai xấu nào thì chúng ta không bị sa lầy hay trói buộc trong diễn biến nhân quả của hành vi tai hại đó. Nhờ giới chúng ta không bị ray rứt, nóng nảy, dày vò của những mặc cảm tội lỗi, mà còn giúp chúng ta thoát được biết bao hậu quả thảm hại do những hành động, nói năng sai trái gây nên.

Nếu giữ giới đúng như những ý nghĩa vừa nêu thì vô cùng lợi ích mà không hề bị ràng buộc. Tuy nhiên, như chúng ta đã nói, nếu không hiểu được ý nghĩa và nội dung đích thực của giới luật nói chung và từng điều học nói riêng thì giới trở thành những ràng buộc vô ích, thậm chí có hại về nhiều mặt. Lúc bấy giờ giới chỉ còn là:

- Một sự phô trương hay trang điểm bề ngoài.

- Những khuôn sáo khô chết làm suy yếu hành động mới mẻ sáng tạo.

- Những phong cách giả dối thiếu tự nhiên.

- Những ảo tưởng tự tôn hoặc tự ti về hành vi đạo đức của mình.

- Sự ức chế, dồn nén làm phát sinh biến chứng tâm lý và sinh lý bất thường.

- Những con bài lận của lắm kẻ lừa đảo.

Chúng ta đã nói có hai loại giới: hữu hạn và vô hạn phù hợp với hai hạng người giữ giới tương ứng:  Hạng hành giả thiên về tinh tấn hoặc đức tin dễ dàng “y giáo phụng hành”  những qui củ, mực thước đã được các bậc thầy đáng tin cậy qui định sẵn cho họ. Họ không đủ tự tin và sáng suốt để biết mình nên làm gì và không nên làm gì, nên nếu ai đó có thể chỉ cho họ biết cách làm thế nào thì họ sẵn sàng tuân thủ vì như vậy họ cảm thấy dễ dàng hơn.

Hạng hành giả thiên về trí tuệ do thường xem xét thận trọng, quan sát rõ ràng hành động của mình, có thể tự phát hiện cái đúng, cái sai, cái xấu, cái tốt một cách tinh tế, tự nhiên trong từng hành vi cử chỉ của mình. Họ cũng tự biết làm thế nào để điều chỉnh ngay tại chỗ những khiếm khuyết mà không cần áp dụng theo một khuôn mẫu đạo đức nào có sẵn dưới dạng giới luật. Hạng trí giả này thích hợp với giới vô hạn.

Trên thực tế, hạng người thiện trí thức rất ít so với hạng đức tin và tinh tấn,  trong khi đó hạng đức tin và tinh tấn lại còn ít hơn rất nhiều so với hạng người buông lung, phóng túng, mê muội. Vậy luật lệ, qui tắc, mẫu mực, khuôn định v.v. là điều không thể thiếu trong xã hội loài người, nếu không cuộc đời không mấy chốc sẽ biến thành địa ngục trần gian. Đó cũng là lý do tại sao đức Phật phải chế định giới luật trong khi Ngài biết rất rõ rằng không cần bất kỳ khuôn định nào giới hạnh vẫn có thể hoàn hảo. Trong quá khứ có nhiều vị Phật không ban hành giới điều nào vì Tăng Chúng của các Ngài rất tinh tường giới vô hạn.

Ngày nọ, một vị tỳ kheo đến tu tập trong một ngôi chùa có vị nữ thí chủ là bậc thánh có tha tâm thông. Vị ấy e ngại không thể giữ trọn quá nhiều giới luật như vậy. Vị thí chủ có thể sẽ biết được mình có sai phạm giới điều nhỏ nhặt nào mà mình không nhớ thì sao. Để tháo gỡ gút mắt này, đức Phật hỏi vị tỳ kheo nếu giữ một điều thôi có nhớ được không. Vị ấy phấn khởi chấp nhận. Đức Phật dạy vị ấy chỉ cần canh chừng cẩn mật cái tâm thôi là được. Và chẳng bao lâu vị ấy hoàn toàn giác ngộ.

Vì vậy, bên cạnh giới luật hữu hạn đã được ban hành cho phù hợp với hoàn cảnh xã hội, thời gian và trình độ của mỗi người, đức Phật còn dạy giới vô hạn cho những ai có thể tự mình sống trong tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác. Hay nói cách khác, một người đang giữ giới hữu hạn, chỉ cần thường thận trọng, chú tâm quan sát tỏ tường ngay nơi hành động nói năng của mình, thì khi đó giới hữu hạn tự trở thành vô hạn. Nghĩa là lúc đó người ấy có thể không nhớ bao nhiêu giới cần phải giữ nhưng mọi hành vi cử chỉ của anh ta đều thuận theo giới luật. Và đó chính là bước chuyển hóa từ giới tục đế sang giới chân đế.

Đức Phật biết rất rõ mức độ nhận thức của mỗi người, nên để giúp họ có thể tự giác Ngài đã không ngần ngại sử dụng cả hai phương diện tục đế lẫn chân đế. Giới hữu hạn dựa trên khái niệm đã được chế định sẵn, trong lãnh vực tục đế; còn giới vô hạn dựa vào thực tánh của sự kiện đang diễn ra, trong  lãnh vực chân đế. Trong giới hữu hạn, khái niệm sai đối chiếu với khái niệm đúng đã được ấn định. Trong giới vô hạn chỉ có thể thấy đúng hoặc sai ngay nơi bản chất của sự việc chứ không có khái niệm nào để so sánh. Vì vậy, tuy sống trong giới hạnh bạn vẫn tự do không có gì ràng buộc.

Ví dụ, ở Anh bạn đi bên trái, còn ở Mỹ bạn đi bên phải mới đúng. Khái niệm về sự đúng hay sai hoàn toàn do qui định của con người, chỉ có giá trị tương đối. Tuy vậy, nếu bạn không tuân thủ thì có thể xảy ra tai nạn chết người. Đó là cái đúng hữu hạn. Trong khi nếu bạn bị trượt chân, bạn sẽ tự động gượng lại để giữ thăng bằng. Bạn thấy sai ngay lập tức và điều chỉnh nó một cách tự nhiên ngay nơi thực trạng của sự kiện mà không cần phải mất thời gian so sánh với bất cứ khái niệm đúng nào. Đó là cái đúng vô hạn.

*

Giới luật là nền tảng đạo đức, là mảnh đất màu mỡ để gieo trồng những hạt giống lành. Người biết sống thận trọng, kỷ cương, tinh tế, hiền thiện, trong lành, v.v. không những tự mình an lạc mà còn đem lại ổn định hạnh phúc cho người khác. Trong một cộng đồng xã hội nếu mọi người biết hành động, nói năng thận trọng thì sẽ tránh được biết bao khổ đau bất hạnh mà hầu hết do buông lung, bất cẩn, thiếu kỷ cương gây nên. Quả thật giới luật đóng vai trò tối trọng trong việc đem lại lợi ích bất tận cho đời sống con người:

- Tránh những thói hư tật xấu: Sống buông lung, cẩu thả, không kỷ cương, không tự chế là tiến trình hình thành những thói quen sa đọa, những thói hư tật xấu có thể làm thân bại danh liệt cả một đời. Người biết sống thận trọng, tự chế trong từng hành vi cử chỉ không thể nào rơi vào thói hư tật xấu được. Và nếu có thói quen xấu nào thì cũng dễ dàng thoát ra nhờ đức tính thận trọng giúp anh ta biết nhận thức cái đúng cái sai nên có thể tự mình điều chỉnh.

- Không gây ra những hậu quả tai hại: Người không biết tự chế sẽ gây ra tai hại cho mình và người khác bằng hành động, lời nói sai trái của mình. Trầm trọng hơn, sự bất cẩn có thể đưa đến tai nạn, gây thương tật, bệnh hoạn hay tử vong. Ví dụ như một người lái xe cẩu thả, một công nhân bất cẩn, một bác sĩ tắc trách, v.v. không những gây họa cho mình mà cho nhiều người khác. Người thận trọng, kỹ lưỡng có thể tránh được những hậu quả tai hại như thế dễ dàng.

- Không hối tiếc ray rứt: Người hành động bất cẩn sau khi gây ra lỗi lầm, bên trong thường tự dày vò, cắn rứt, đồng thời bên ngoài bị người đời đàm tiếu mỉa mai, vì vậy họ luôn căng thẳng, bất an. Ngược lại, người có giới hạnh thân tâm thường mát mẻ, trong lành, an nhiên, thư thái.

- Không bối rối lo sợ trước đám đông: Ngươi có mặc cảm tội lỗi thường thiếu tự tin, vì vậy họ luôn bối rối, e dè, hồi hộp, lo lắng khi ở chỗ đông người. Họ không thích gặp ai vì hầu như tự ám ảnh bởi cảm giác tội lỗi của mình có thể bị người khác phát hiện. Trái lại, giới hạnh giúp bạn tự tin, điềm tĩnh, nên không lo sợ giữa chốn đông người.

- Có phong thái đoan chính tự nhiên: Người hành động nói năng thận trọng sẽ dễ dàng phát hiện cái đúng cái sai để tự điều chỉnh hành vi của mình. Vì vậy, mặc dù không cố tạo cho mình cung cách riêng họ vẫn có phong thái ung dung, đỉnh đạc, thoải mái, tự nhiên khiến nhiều người tin yêu kính mến.

- Lúc lâm chung không hốt hoảng lo sợ: Người tội lỗi chắc chắn sẽ rất sợ hãi, bấn loạn trong giờ phút lâm chung, vì hình ảnh bất thiện của họ tự động tái hiện trước mắt như một cuốn phim. Đôi khi đó là một chi tiết đầy ấn tượng trong hành vi tội lỗi của mình, như con dao đầy máu, mùi thuốc súng cay nòng, v.v. Đôi lúc là một cảnh tượng thật hãi hùng như một điềm báo chẳng lành về sau. Đó là cận tử nghiệp của những người làm ác. Ngược lại, người có giới đức biết rõ hành vi trong sạch của mình, sẽ ra đi một cách nhẹ nhàng thanh thản.

- Làm nền tảng cho thiền định và trí tuệ: Người buông lung cẩu thả thường hành động theo thói quen bất thiện (thiếu giới) nên không có khả năng chú tâm (thiếu định), và vì bị xung động bởi những khuynh hướng vô thức nên không đủ sáng suốt để biết đâu là sự thật (thiếu tuệ). Trong khi người hành động, nói năng thận trọng (có giới) sẽ dễ dàng chú tâm hơn (có định), và do đó có thể thấy biết rõ ràng minh bạch (có tuệ). Nói cách khác, hành động, lời nói trong lành (giới) đưa đến tâm an tịnh (định) và tánh giác sẽ sáng soi vạn pháp (tuệ). Vì vậy, lợi ích quan trọng nhất của giới là làm nền tảng vững chắc cho thiền định, trí tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến.

- Tặng tha nhân món quà vô uý: Bạn có thể nghĩ rằng phục vụ mới là hành động vị tha, còn giữ giới chỉ có lợi riêng cho mình. Đó là quan niệm sai lầm. Người có giới đức không hại ai nghĩa là không gieo rắc lo âu sợ hãi cho người khác. Họ có vẻ như không làm gì cho ai, nhưng thực ra họ đang giúp người khác sống yên tâm, không lo sợ bị hại. Do đó, giữ giới không phải chỉ tự lợi mà còn được xem là hành động vị tha: Một món quà vô úy cho mọi người.

Hỏi:

- Tôi thấy ngày nay trong mối quan hệ xã hội thật khó mà giữ được trọn vẹn năm giới, nhất là giới nói dối và uống rượu. Vậy chúng ta có thể tùy cơ ứng biến cho hợp với hoàn cảnh được không?

Đáp:

- Chẳng ai có quyền bảo bạn được hay không. Chính bạn phải tự chiêm nghiệm, khám phá xem tính chất nhân quả trong hành động của mình như thế nào rồi sẽ tự biết có nên làm hay không. Có nhiều loại luật lệ đặt ra nhằm hạn chế hoạt động của người khác để bảo vệ quyền lợi của người chủ hay của tập đoàn thống trị. Ví dụ như luật lệ của người địa chủ đặt ra cho tá điền, hoặc của nước thực dân áp đặt lên dân thuộc địa. Do đó sẽ có phản kháng để đòi lại công bằng. Trong trường hợp này, phạm luật có khi lại là hành động đúng tốt và can đảm. Trái lại, giới luật nhà Phật chỉ giúp bạn tự ý thức hành vi của mình để trực nhận ra tính chất đứng - sai, thiện - ác, không theo sự đánh giá nào từ bên ngoài. Đó là lý do vì sao giới được gọi là điều học. Vậy tại sao bạn không lấy đó làm bài học để thấy ra chính mình? Đức Phật chỉ vì lợi ích của bạn mà gợi ý thôi, không ai ràng buộc bạn cả, bạn có quyền tự do vận dụng uyển chuyển thế nào tùy bạn. Có điều bạn cần phải tự khám phá tính chất đúng sai thiện ác trong hành động nói năng của mình, vì đó là trách nhiệm và quyền lợi của bạn chứ không phải của bất kỳ ai khác.

Hỏi:

- Người làm nông muốn bảo vệ hoa màu phải diệt trừ sâu rầy, làm sao tránh khỏi tội sát sanh? Vậy đâu là giải pháp?

Đáp:

- Con người, tự cho mình là “ưu việt hơn muôn loài”(Tối linh ư vạn vật), biết cách kiếm sống để bảo vệ chính mình. Nhưng nếu bảo vệ sự sống của mình mà xem thường sinh mạng của muôn loài thì đã trở thành đáng sợ nhất trên đời! Con người quả là chẳng “ưu” chút nào khi chỉ biết đến quyền lợi của riêng mình, tham lam vơ vét mọi thứ, cưỡng đoạt môi trường sống của muôn loài và sẵn sàng xâm hại bất kỳ ai tỏ ra bất lợi cho mình. Ngày nay khoa học đã chứng minh rằng hủy diệt côn trùng bừa bãi đã làm mất cân bằng sinh thái một cách trầm trọng, không những chỉ hãm hại chúng sinh mà còn tự hủy hoại môi trường sống của chính mình.

Chúng ta khai thác rừng, biển, v.v. đến nổi nhiều loài thực vật, cây thuốc, hải sản, cầm thú đã bị tuyệt chủng, cùng với sự biến đổi thời tiết gây nên thiên tai dịch bệnh. Thuốc trừ sâu đã làm mọi thứ trở nên độc hại. Cho nên, ngày nay chúng ta rất cần hoa màu, thực phẩm, không khí, môi trường trong sạch lành mạnh để được sống an toàn.

Để có cái lợi trước mắt mà lờ đi những tai họa lâu dài cho toàn bộ sự sống trên hành tinh nhỏ bé này, quả là điều cần xem xét lại một cách nghiêm túc. Hãy thử xem có phải chúng ta đang bảo vệ sự sống hay đang cổ vũ cho lòng tham không đáy, cho sự ích kỷ, tàn khốc, và hủy diệt? Có lẽ chúng ta vẫn chưa hiểu hết ý nghĩa trong tầm vóc sâu xa của giới như là điều học. Nếu con người thật sự muốn học, thì thiếu gì cách để bảo vệ sự sống mà không cần sự hủy diệt.

Hỏi:

- Chữ Lễ trong Nho giáo có đồng nghĩa với giới luật Phật giáo không?

Đáp:

- Có cái giống nhau, cái khác nhau. Lễ tiết Nho giáo nhấn mạnh đạo làm người, mang tính đối nhân xữ thế trong quan hệ xã hội giữa vua với tôi, cha với con, chồng với vợ, v.v. hoặc là những nghi lễ cúng tế Trời Thần, trong đó có cái thích ứng với đạo đức con người một cách phổ quát, có cái chỉ phù hợp với chế độ quân chủ phong kiến mà thôi.

Trong giới luật Phật giáo cũng vậy, một số điều học chỉ nhằm thích nghi với hoàn cảnh, một số khác tiêu biểu cho đạo đức làm người, nhưng không nhằm vào thời đại hay tầng lớp xã hội đặc thù nào mà là đạo đức tinh yếu và phổ quát, phù hợp với mọi người và mọi thời. Tuy nhiên, mục đích chính của Nho Lễ là ổn định trật tự xã hội loài người, trong khi luật Phật nhằm giải phóng chúng ta ra khỏi hành động sai lầm, bất thiện để có thể hoàn toàn giác ngộ giải thoát.

Chính vì Lễ là những luật lệ qui định cách ứng xử tùy theo tôn ti trật tự giữa địa vị của những người sống trong xã hội phong kiến, nên đặt nặng hiệu quả trong tổ chức thể chế chính trị hơn là thiết lập trên bản chất cốt lõi của đạo đức. Mặc dù “Lễ dĩ chế dục”, nhưng chỉ chế ngự những dục vọng bên ngoài còn dục vọng sâu kín lại bị dồn nén, ẩn ức bên trong. Vì vậy mà Lão Tử đã than rằng: “Ôi! lễ ấy là sự mỏng manh của lòng trung tín, là đầu mối của loạn lạc”. Trong khi đó giới luật Phật giáo được xem là yếu tố đưa đến an lạc giải thoát (Sīlena nibbutiṃ yanti).

Hỏi:

- Con đã từng thấy nhiều người giữ giới luật rất nghiêm túc, nhưng sao hình như họ có vẻ cố chấp và ngã mạn, họ luôn xem thường và lên án người không giữ giới nghiêm khắc như họ. Vì sao lại như vậy?

Trả lời:

- Đơn giản chỉ vì những lý do sau đây:

1) Họ chỉ chú trọng giữ hình thức bên ngoài của giới mà không thấy được ý nghĩa đích thực bên trong, nên họ quá nghiêm khắc với mình và người khác.

2) Họ mượn giới để tạo uy tín và hư danh cho bản thân mình hay cho tổ chức của họ hơn là sống hiền lương, trung thực với chính mình và mọi người.

3) Họ chỉ căn cứ trên giới điều hữu hạn để đánh giá đúng sai, xấu tốt, chứ không lấy đó làm điều học để thấy ra và điều chỉnh hành vi đạo đức của chính mình.

4) Họ chỉ đơn giản tin vào khuôn khổ mà giới luật qui định để tuân thủ hơn là tin vào sự thận trọng khám phá những diễn biến tâm - sinh - vật lý thực tế giữa cái đúng-sai-xấu-tốt trong hành vi đạo đức của mình.

5) Họ luôn ở một trong hai thái độ tâm lý: tự ti hoặc tự tôn. Khi giữ giới nghiêm túc họ trở nên tự cao ngã mạn, nhưng khi phạm giới thì dễ rơi vào tình trạng tự ti mặc cảm.

Hỏi:

- Thưa thầy, có khi nào không phạm giới mà vẫn có tội, ngược lại, phạm giới mà lại không có tội không?

Trả lời:

- Chà, đây quả là câu hỏi khó! Tôi đang phân vân không biết nên trả lời như thế nào đây? Khó có một câu trả lời xác định có hay không từ người khác. Bạn cần phải hiểu thật tường tận mọi học giới, cụ thể trong từng trường hợp mới có thể tự trả lời có hay không. Nếu không mọi câu trả lời đều chỉ là giả thuyết vô nghĩa. Mặt khác, nếu bạn giữ giới quá cố chấp thì khó có thể nhận ra tính chất uyển chuyển sáng tạo mà chỉ thấy mặt cứng nhắc, khô chết của giới mà thôi.

Sau đây là những tình huống để bạn tự vận dụng trí tuệ của mình xem trường hợp nào có tội, trường hợp nào vô tội.

Tình huống thứ nhất là ai đó muốn giết người cướp của nhưng thực hiện không thành công, nghĩa là anh ta chưa sát sanh, trộm cắp nên không vi phạm giới điều nào cả. Hoặc một người khác, xảo quyệt hơn để luồn lách cho khỏi phạm giới, chẳng hạn như anh ta thích uống rượu, nhưng đó là một giới luật, trừ phi sử dụng rượu với thuốc. Thế là anh ta tha hồ uống cái gọi là rượu thuốc vì có phạm giới tửu đâu. Vậy bạn nghĩ người đó có tội không?  

Tình huống thứ hai là một câu chuyện thật bi thương được kể lại rằng: Một đội quân phải khẩn cấp rút khỏi chiến trường đang giao tranh ác liệt, đành để lại một người lính đang bị trọng thương, không còn hy vọng sống sót, cũng không thể mang theo cùng đồng đội. Không nỡ nhẫn tâm để bạn một thân một mình quằn quại đau đớn dữ dội trong sự kinh hoàng của chiến trận, nên đội trưởng đã quyết định bắn chết đồng đội của mình. Xét về giới đạo cũng như luật đời thì người đội trưởng đều vi phạm, thậm chí anh ta có thể bị xử tội. Nhưng nếu bạn là người đội trưởng thì lúc đó lương tâm bạn sẽ bảo bạn làm thế nào? Bạn cho đó là phước hay tội?

(Còn nữa)


[Ðầu trang[Trở về trang Thư Viện]

updated: 2009