Trung Tâm Hộ Tông  Trang Chủ


Thiền Ngay Bây Giờ

Tác giả: Goenka
Dịch giả: Pháp Thông


 

Sân Hận

Đây là bài cuối trong ba bài nói chuyện của Goenkaji[1] tại Diễn Đàn Kinh Tế Thế Giới, Davos, Thụy Sỹ, Tháng Giêng, năm 2000.

Điều gì sẽ xảy ra khi một người sân hận? Quy luật tự nhiên cho thấy rằng khi người nào phát ra sân hận họ sẽ là nạn nhân đầu tiên của nó. Bạn chắc chắn sẽ trở nên đau khổ khi bạn phát ra sân hận cho dù hầu hết mọi lần bạn không nhận ra rằng bạn đang tự hại mình do nổi sân như vậy. Ngay cả nếu ai đó nhận ra được điều này, sự thực là họ vẫn không thể tự mình tránh khỏi sân hận; tự mình thoát ra khỏi cơn giận. Bây giờ chúng ta hãy xem tại sao người ta lại trở nên sân hận.

Sự thực hiển nhiên cho thấy là sân hận phát sinh khi một điều gì đó không vừa ý xảy ra, khi một người nào đó gây chướng ngại cho việc hoàn thành những ước muốn của bạn, khi người nào đó sỉ nhục bạn hoặc khi người nào đó trong lúc nói sau lưng đã bộc lộ những nhận xét có vẻ khinh thường bạn. Tất cả những lý do đại loại như vậy khiến cho người ta bùng lên ngọn lửa sân hận và là những lý do rõ rệt khiến cho người ta trở nên giận dữ. Bây giờ thử hỏi liệu có thể một người có được thật nhiều quyền lực đến độ không ai dám nói hay làm điều gì nghịch ý anh ta không? Điều này chắc chắn là không thể có. Ngay cả với người quyền thế nhất trên thế gian này, những điều không mong muốn vẫn cứ xảy ra và anh ta hay cô ta hoàn toàn bất lực trong việc ngăn chặn nó. Cho dù chúng ta có thể ngăn được một người không cho xỉ vả chúng ta hay nói điều gì đó chống lại chúng ta thì cũng không có gì bảo đảm được rằng người này sẽ không lập lại việc ấy. Tuy nhiên trong khi chúng ta không thể thay đổi được thế gian bên ngoài theo ước muốn của chúng ta, chúng ta chắc chắn có thể thay đổi chính bản thân chúng ta để loại trừ cái khổ mà chúng ta phải chịu do phát ra sân hận. Để làm được điều này chúng ta phải truy tìm nguyên nhân sâu xa của sân hận trong chính bản thân chúng ta thay vì bên ngoài.

Chúng ta phải hiểu lý do đích thực khiến cho sân hận phát sinh ở bên trong chúng ta. Chẳng hạn, từ quan điểm của Vipassanā hay thiền Minh sát, chúng ta hiểu lý do đích thực khiến chúng ta nếm trải sân hận nằm ở bên trong chúng ta. Nếu bạn học được nghệ thuật quan sát thực tại trong chính bản thân bạn thì điều sẽ trở nên thật rõ ràng cho bạn ở mức kinh nghiệm rằng lý do đích thực khiến phát sanh sân hận nằm ở bên trong chứ không phải bên ngoài.

Ngay khi bạn gặp một điều không vừa ý nào đó ở bên ngoài, liền có một cảm thọ ở trên thân. Và do đối tượng là không vừa ý nên cảm thọ sẽ rất khó chịu. Chính ra chỉ sau khi cảm giác cảm thọ khó chịu (thọ khổ) này bạn mới phản ứng lại với sân. Nếu bạn học được cách làm thế nào để quan sát những cảm thọ trên thân này với thái độ bình thản hay xả ly không phản ứng lại chúng, bạn sẽ thoát ra khỏi thói quen cũ của bừng bừng nổi giận và tự làm hại mình. Thực hành Minh sát sẽ giúp bạn phát triển được khả năng quan sát mọi loại cảm thọ khác nhau mà bạn kinh nghiệm trên những thân phần khác nhau từ lúc này đến lúc khác và giữ được thái độ xả do không phản ứng lại với chúng. Thói quen cũ của bạn trước đây là khi bạn cảm giác một cảm thọ dễ chịu (thọ lạc) bạn sẽ phản ứng lại với tham ái và chấp thủ, và khi bạn cảm giác những cảm thọ khó chịu bạn liền phản ứng lại với nóng giận và sân hận. Vipassanā dạy bạn biết quan sát mọi cảm thọ, cả dễ chịu lẫn khó chịu, một cách khách quan và giữ thái độ xả với sự hiểu biết rằng mọi cảm thọ đều có bản chất sanh và diệt hay vô thường. Không có cảm thọ nào tồn tại vĩnh hằng cả.

Nhờ thực hành thường xuyên việc quan sát cảm thọ một cách xả ly bạn thay đổi được lề thói quen của phản ứng mù quáng tức thời đối với các cảm thọ này. Như vậy, trong cuộc sống hàng ngày bất cứ khi nào bạn tiếp xúc với một điều gì không vừa lòng bạn để ý thấy rằng một cảm thọ khó chịu đã phát sanh trong thân và bạn bắt đầu quan sát nó không để cho đùng đùng nổi giận như trước. Dĩ nhiên, phải mất một thời gian mới đạt đến được giai đoạn ở đây bạn hoàn toàn giải thoát khỏi sân hận. Song khi bạn thực hành Vipassanā ngày một nhiều hơn bạn sẽ nhận ra rằng giai đoạn bạn lăn quay trong sân hận đang trở nên ngày càng ngắn hơn. Cho dù bạn không thể cảm giác được cảm thọ liền khi nó khởi lên, có thể sau một ít phút bạn mới bắt đầu nhận ra rằng do phản ứng mù quáng của sân hận bạn đang làm cho các cảm thọ thậm chí căng thẳng hơn, bằng cách ấy cũng tự làm cho mình đau khổ hơn. Ngay khi bạn nhận ra sự kiện này thì bạn cũng bắt đầu thoát khỏi sân hận. Với việc thực hành Minh sát đều đặn giai đoạn nhận thức được khổ đau liên quan đến cảm thọ khổ này sẽ ngày càng trở nên ngắn hơn khi bạn hiểu được tức thời sự tai hại mà bạn đang tự gây ra cho mình do phát ra sân hận. Đây là cách duy nhất để tự giải thoát bản thân khỏi thói quen phản ứng điên rồ với sân hận này.

Dĩ nhiên cũng có một cách khác là ngay khi bạn nhận ra rằng mình đã phát sanh sân hận bạn có thể chuyển hướng sự chú ý của mình sang một đối tượng khác nào đó và nhờ kỹ thuật này bạn có thể cảm thấy như rằng mình đang thoát ra khỏi sân hận. Tuy nhiên, thực sự chỉ có phần bề mặt của tâm thoát ra khỏi sân hận. Tận sâu bên trong bạn vẫn tiếp tục sôi sục với ngọn lửa sân vì bạn đã không đoạn trừ được sân mà chỉ đè nén nó. Vipassanā dạy bạn không chạy trốn thực tại mà, thay vào đó, đối diện với thực tại và bắt đầu quan sát cơn giận trong tâm và cảm thọ khó chịu trong thân một cách khách quan. Nhờ quan sát thực tại của những cảm thọ khó chịu trong thân bạn không chuyển hướng sự chú ý của mình sang một nơi khác cũng không đè nén cơn giận của bạn vào mức sâu hơn của tâm. Nếu bạn tiếp tục duy trì việc quan sát các cảm thọ một cách buông xả bạn sẽ nhận thấy rằng, một cách tự nhiên, cơn giận đã khởi lên ấy trở nên càng lúc càng yếu đi và cuối cùng thì biến mất.      

Sự thực là có một rào cản giữa phần tâm nhỏ, đó là bề mặt của tâm, với phần tâm lớn hơn, phần tâm thường được gọi là tiềm thức (hay tâm hữu phần-bhavanga). Phần tâm lớn nằm ở mức sâu kín nhất này luôn luôn tiếp xúc với các cảm thọ của thân và đã trở thành kẻ nô lệ cho mô thức thói quen phản ứng mù quáng đối với những cảm thọ này. Do lý do này hay lý do khác mà có những loại thọ khác nhau ở khắp toàn thân trong từng sát-na. Nếu cảm thọ là dễ chịu hay lạc thời mô thức thói quen là phản ứng lại với tham ái và chấp thủ và nếu cảm thọ là khó chịu hay khổ mô thức thói quen là phản ứng lại với ác cảm và sân hận. Do sự ngăn cách giữa phần bề mặt nhỏ bé của tâm và phần tâm còn lại nên phần bề mặt hoàn toàn không hay biết về sự kiện rằng sự phản ứng không ngớt này đang diễn ra ở mức sâu hơn. Vipassanā sẽ giúp bạn phá bỏ rào cản này và toàn bộ cơ cấu tâm trở nên rất ý thức. Nó sẽ cảm giác được các cảm thọ từ sát-na này đến sát-na khác và, với sự hiểu biết về quy luật vô thường, nó giữ được thái độ bình thản hay buông xả. Thật dễ luyện tập cho mức bề mặt của tâm giữ được thái độ bình thản với sự hiểu biết ở mức tri thức song bức điện văn của sự hiểu biết tri thức ấy lại  không đến được mức sâu hơn của tâm bởi vì rào cản này. Khi rào cản này bị Vipassanā phá bỏ toàn bộ tâm duy trì liên tục sự hiểu biết về quy luật vô thường đồng thời mô thức thói quen phản ứng mù quáng bắt đầu thay đổi. Đây là cách tốt nhất để bạn tự giải thoát mình ra khỏi khổ đau của sân hận.

Những Viên Sỏi Và Ghè Bơ Lỏng

Ngày nọ, một thanh niên vừa đi vừa khóc sướt mướt đến gặp Đức Phật; anh ta không thể nào ngưng tiếng khóc. Đức Phật hỏi anh ta, “Có chuyện gì thế, này chàng trai?”

“Bạch Ngài, cha con vừa mất hôm qua.”  

“Thế à, có thể làm được gì nào? Nếu ông ta đã chết, khóc lóc cũng chẳng làm ông ta sống lại.”

“Vâng, thưa Ngài, con hiểu điều đó; khóc lóc sẽ không làm cho cha con sống lại được. Nhưng con tìm đến Ngài, bạch đức Thế Tôn, với một lời thỉnh cầu đặc biệt: xin Ngài hoan hỷ làm một điều gì đó cho người cha đã chết của con!”

“Ồ? Ta có thể làm được điều gì cho người cha quá cố của con nào?”

“Bạch Ngài, xin Ngài hoan hỷ làm một điều gì đó. Ngài thực là một đấng quyền năng, chắc chắn Ngài có thể làm được điều đó. Cứ nhìn xem, Các vị giáo sĩ, các thầy tu làm phép xá tội,và các vị khất sĩ làm đủ mọi loại nghi lễ để giúp cho người chết. Ngay khi nghi lễ được thực hiện ở đây, cửa thiên đường liền bị chọc thủng và người chết được tiếp nhận vào đó; họ có được một tấm giấy phép nhập cảnh. Bạch Ngài, ngài có quyền năng như vậy! Nếu Ngài thực hiện một nghi lễ cho cha con, chẳng những ông sẽ nhận được giấy nhập cảnh, mà không chừng ông còn được cấp một tấm Thẻ Xanh (Green Card), thường trú nữa đấy! Xin Ngài hãy hoan hỷ làm điều gì đó giúp cho cha con!”

Gã thanh niên tội nghiệp bị sầu khổ áp đảo đến mức không còn biết nghe một lý lẽ hợp lý nào nữa. Đức Phật phải dùng cách khác để giúp anh ta hiểu. Vì thế Ngài nói, “Thôi được rồi. Hãy đi ra chợ mua hai cái ghè[2]> bằng đất mang về đây.” Người thanh niên rất sung sướng, nghĩ rằng Đức Phật đã đồng ý thực hiện một nghi lễ cho cha mình. Anh ta chạy vội ra chợ và mua hai chiếc ghè mang về. “Được rồi,” Đức Phật nói, “Hãy đổ đầy bơ lỏng vào ghè này.” Người thanh niên làm theo. “Hãy bỏ đầy sỏi vào ghè kia.” Anh ta cũng làm theo. “Bây giờ hãy đậy kín các miệng ghè lại cho cẩn thận.” Anh ta làm theo. “Xong đem đặt các ghè ấy vào trong hồ nước ở đằng kia.” Người thanh niên làm đúng như vậy, và cả hai chiếc ghè đều chìm xuống đáy. “Bây giờ,” Đức Phật nói, “hãy đem đến đây một cây gậy thật lớn và đập bể những cái ghè ấy ra.” Người thanh niên rất sung sướng, nghĩ rằng Đức Phật đang thực hiện một nghi lễ kỳ diệu cho cha mình.

Theo phong tục cổ Ấn độ, khi một người chết, con trai họ sẽ mang cái xác vào nghĩa địa, đặt nó lên giàn thiêu, và châm lửa đốt. Khi cái xác cháy được phân nửa, người con trai lấy một cây gậy lớn và đập vỡ toang cái sọ ra. Và theo niềm tin cổ truyền, ngay khi cái sọ toác ra ở trần gian này, thì cửa thiên đàng ở trên đó cũng mở ra. Vì thế lúc này người thanh niên tự nhủ, “Xác cha ta đã thiêu ra tro ngày hôm qua rồi. Có lẽ bây giờ Đức Phật muốn ta đập bể những cái ghè này như một biểu tượng chăng!” Anh ta rất vui mừng với nghi lễ ấy.

Cầm lấy cây gậy theo lời Đức Phật nói, người thanh niên đánh thật mạnh và cả hai chiếc ghè đều vỡ toang. Ngay lập tức chất bơ lỏng chứa trong một chiếc ghè nổi lên và bắt đầu trôi lềnh bềnh trên mặt nước. Còn những viên sỏi trong chiếc ghè kia đổ ra và vẫn chìm dưới đáy hồ. Lúc ấy Đức Phật nói “Tốt lắm, này chàng trai, Như Lai đã làm nhiều tới mức này rồi. Bây giờ hãy đi mời tất cả các vị giáo sĩ và những người làm phép mầu nhiệm lại và bảo họ tụng kinh và cầu nguyện: ‘Hỡi những viên sỏi kia, hãy nổi lên, hãy nổi lên! Hỡi bơ lỏng hãy chìm xuống, chìm xuống!’ Để Ta xem sự việc diễn ra như thế nào.”

“Ồ bạch Ngài, Ngài có nói đùa không đấy chứ! Sao chuyện đó có thể xảy ra được, bạch Ngài? Những viên sỏi nặng hơn nước, chúng chắc chắn phải ở lại dưới đáy hồ. Những viên sỏi ấy không thể nổi lên được đâu, bạch Ngài; đây là quy luật tự nhiên! Bơ lỏng nhẹ hơn nước nó chắc chắn cứ nổi trên mặt nước, chớ không thể chìm xuống được: đây cũng là quy luật tự nhiên!”         

“Này chàng trai, anh biết khá nhiều về quy luật tự nhiên đấy, song anh lại không hiểu quy luật tự nhiên này: nếu suốt cuộc đời mình cha anh đã làm những nghiệp nặng giống như những viên sỏi, ông ta buộc phải đi xuống (các cõi khổ ); ai có thể mang ông lên được? Và nếu mọi hành động của ông đều nhẹ giống như bơ lỏng này, ông ta chắc chắn sẽ đi lên; ai có thể kéo ông ta xuống được?”

Chúng ta hiểu được quy luật của tự nhiên và sống theo quy luật ấy sớm chừng nào, chúng ta sẽ thoát khỏi khổ đau sớm chừng ấy vậy.

Nghệ Thuật Sống

Mỗi người chúng ta ai cũng cố gắng tìm cách để có được sự bình yên và hòa hợp, bởi vì đây là những gì chúng ta thiếu trong cuộc sống. Đôi lúc mọi người chúng ta phải trải qua những kích động, bực bội, bất hòa, khổ đau; và khi chúng ta khổ đau vì sự kích động, chúng ta không chỉ ôm cái khổ này riêng cho mình. Chúng ta còn đem phân phát nó cho mọi người nữa. Sự kích động thấm vào bầu không khí quanh con người đau khổ ấy. Những người khác vô tình tiếp xúc với họ cũng trở nên bực bội, kích động như vậy. Chắc chắn đây không phải là cách sống thích đáng.

Chúng ta phải sống sao cho thật bình an trong chính mình, và bình an với mọi người. Suy cho cùng, con người là một phần tử của xã hội. Chúng ta phải sống trong xã hội - sống và quan hệ với những người khác. Làm thế nào để sống một cách bình an? Làm thế nào để giữ được sự hòa hợp trong chính mình, và giữ được sự bình an và hòa hợp chung quanh chúng ta, để cho những người khác cũng có thể sống một cách bình an và hòa hợp đây?

Khi bạn bị kích động, lúc đó, để thoát khỏi nó bạn phải biết lý do cơ bản khiến cho có sự kích động ấy, hay nói đúng hơn là bạn phải tìm ra nguyên nhân của cái khổ ấy. Nếu bạn xem xét vấn đề, chẳng bao lâu sự việc sẽ trở nên rõ ràng, bất cứ khi nào bạn phát ra một tiêu cực hay phiền não trong tâm, bạn chắc chắn trở nên kích động. Một tiêu cực trong tâm - một phiền não hay bất tịnh trong tâm - không thể cùng tồn tại với sự bình an và hòa hợp được.

Chúng ta bắt đầu phát ra tiêu cực như thế nào? Xem xét lại một lần nữa, sự việc rồi cũng rõ. Tôi trở nên rất đau khổ khi tôi thấy ai đó cư xử với tôi theo cách tôi không thích, hoặc khi tôi thấy một điều gì đó mà tôi ghét đang xảy ra. Nói chung, những điều không mong muốn xảy đến, và tôi tạo ra căng thẳng trong chính mình. Những điều tôi mong đợi lại không xảy ra, hoặc một số chướng ngại cản trở, v.v… và tôi lại tạo ra căng thẳng trong chính bản thân mình; tôi bắt đầu thắt những gút thắt bên trong tôi. Suốt cuộc đời mình, những điều không mong muốn cứ tiếp tục xảy ra, những điều mong muốn có thể hoặc không thể xảy ra, và tiến trình phản ứng, tiến trình thắt những gút thắt làm cho toàn bộ cấu trúc tâm - vật lý thật căng thẳng và tràn đầy những tiêu cực. Cuộc sống trở nên vô cùng khổ đau.

Có một cách để giải quyết vấn đề là cố gắng sắp xếp làm sao để cho những điều không mong muốn như vậy không xảy ra trong cuộc đời tôi, và mọi việc cứ tiếp tục diễn ra chính xác như tôi mong ước. Tôi phải phát triển một khả năng như vậy - hoặc một người nào khác phải có năng lực ấy và sẵn sàng đến trợ giúp bất cứ khi nào tôi yêu cầu - rồi mọi điều tôi mong muốn phải cứ tiếp tục diễn ra nữa. Nhưng đây là chuyện không tưởng. Vì chẳng có ai trên thế gian này mà những điều họ mong muốn luôn luôn thành tựu, hoặc trong đời họ mọi việc cứ diễn ra theo ý họ muốn, không có bất cứ điều gì không mong muốn xảy ra. Mọi thứ cứ tiếp tục diễn ra trái với ước muốn và hy vọng của chúng ta. Vì thế, làm thế nào để không phản ứng một cách mù quáng bất chấp những điều mà tôi không thích này? Làm thế nào để không tạo ra những căng thẳng? Làm thế nào để giữ được sự bình an và hòa hợp ?

Ở Ấn độ cũng như ở các xứ sở khác, những con người thánh thiện và trí tuệ trong quá khứ đã nghiên cứu vấn đề này - vấn đề khổ đau của nhân loại - và họ đã tìm ra một giải pháp. Nếu có một điều gì không mong muốn xảy ra và ta bắt đầu phản ứng lại bằng cách phát ra sân hận, sợ hãi, hoặc bất cứ một tiêu cực nào khác, thì ngay khi có thể được ta nên chuyển hướng sự chú ý của mình sang chuyện khác. Chẳng hạn, đứng dậy, lấy một ly nước, và bắt đầu uống - cơn giận của bạn sẽ không tăng thêm; bạn có thể thoát ra khỏi cơn giận. Hoặc bắt đầu đếm; một hai, ba, bốn… Hoặc lặp đi lặp lại một chữ, một câu, hay có thể sử dụng một bài chú nào đó. Sẽ trở nên dễ dàng hơn nếu bạn dùng tên của một vị thần hay một vị thánh mà bạn có đức tin với họ. Tâm được chuyển hướng, và cho tới một mức độ nào đó bạn thoát khỏi được tiêu cực, thoát khỏi cơn giận.

Giải pháp này hữu ích; nó đã hiệu quả và vẫn sẽ có hiệu quả. Thực hành theo giải pháp này, tâm cảm thấy như thoát khỏi sự kích động. Tuy nhiên, trong thực tế giải pháp này chỉ tác động ở mức ý thức. Do chuyển hướng sự chú ý thực sự bạn đã đẩy tiêu cực vào sâu trong vô thức, và ở mức này bạn tiếp tục phát ra và làm sinh sôi nảy nở cũng cái phiền não ấy. Ở bề mặt có một lớp bình an và hoà hợp, nhưng tận sâu trong tâm là một ngọn núi lửa ngủ ngầm của những tiêu cực bị đè nén, thỉnh thoảng vẫn tiếp tục phun ra những vụ nổ mãnh liệt.

Các nhà khám phá sự thực nội tại khác đã đi xa hơn nữa trong công cuộc tìm kiếm của họ. Nhờ kinh nghiệm thực tại của tâm và vật chất hay danh và sắc trong chính bản thân, họ nhận ra rằng chuyển hướng sự chú ý chỉ là cách chạy trốn vấn đề. Chạy trốn không phải là giải pháp; bạn phải đối diện với vấn  đề. Bất cứ khi nào một tiêu cực phát sinh trong tâm, chỉ cần quan sát nó, đối diện với nó. Ngay khi bạn bắt đầu quan sát bất kỳ một tâm phiền não nào, nó sẽ mất đi sức mạnh của nó. Nó từ từ tàn lụn và bị bứng gốc.

Một giải pháp hay, tránh được hai cực đoan - đè nén và cho phép phiền não tự  do hoạt động. Giữ phiền não hay tiêu cực trong vô thức sẽ không đoạn trừ được nó, còn để cho nó thể hiện ra bằng lời nói hay hành động sẽ chỉ tạo ra nhiều vấn đề thêm nữa. Nếu bạn chỉ quan sát (mà không phản ứng), thì phiền não sẽ biến mất: bạn đã đoạn trừ được tiêu cực đó, thoát khỏi phiền não đó.

Điều này nghe có vẻ tuyệt diệu thật, nhưng liệu có thực tiễn không? Khi cơn giận nổi lên, nó áp đảo chúng ta nhanh đến nỗi thậm chí chúng ta còn không kịp nhận ra nó nữa. Rồi, do bị cơn giận áp đảo, chúng ta phạm vào những hành động có hại cho mình và có hại cho người khác. Sau đó, khi cơn giận đã qua, chúng ta bắt đầu khóc than và hối hận, xin người này người nọ hoặc xin thượng đế tha lỗi: “Ôi, con đã phạm một lầm lỗi, xin vui lòng thứ lỗi cho con!” Lần tới, trong một tình huống tương tự, chúng ta lại phản ứng theo cách đó nữa. Mọi sự ăn năn như vậy hoàn toàn không giúp ích được gì cả.

Cái khó là ở chỗ chúng ta không biết được khi nào thì một phiền não khởi lên. Nó bắt đầu ở sâu trong mức vô thức của tâm, và vào lúc nó ngoi lên mức ý thức, nó đã gom góp được thật nhiều sức mạnh đến độ áp đảo cả chúng ta, khiến chúng ta không thể nào quan sát được nó nữa.

Vậy thì tôi phải có một người thư ký riêng đi kèm, để khi cơn giận bắt đầu anh ta sẽ nhắc: “Coi chừng, ông chủ! Cơn giận đang bắt đầu đó!” Bởi lẽ tôi không biết khi nào thì cơn giận sẽ nổi lên, tôi phải có ba người thư ký riêng cho ba ca, suốt cả ngày lẫn đêm; hay đúng hơn, phải bốn người vì còn có những ngày nghỉ xen kẽ!

Giả sử tôi có đủ bốn người thư ký như vậy đi, và khi cơn giận bắt đầu khởi lên. Lập tức người thư ký của tôi nhắc, “Ông chủ, coi chừng! Cơn giận đã bắt đầu đấy.” Lúc đó điều đầu tiên tôi làm là tát cho hắn một bạt tai và chửi: “Đồ điên! Bộ mày nghĩ mày sẽ dạy được tao sao?” Tôi bị cơn giận áp đảo đến độ không có lời khuyên tốt nào giúp ích được cho tôi nữa.

Gỉa sử lúc ấy trí tuệ thắng thế và tôi không tát tai anh ta. Thay vào đó tôi nói, “Cám ơn bạn rất nhiều. Bây giờ tôi phải ngồi một lát để quan sát cơn giận.” Có thể được chăng? Ngay khi tôi nhắm mắt lại và cố gắng quan sát cơn giận, lập tức đối tượng của cơn giận, người hay tình huống vì nó mà tôi nổi giận, đi vào trong đầu tôi. Thế là tôi không quan sát cơn giận được nữa. Thay vào đó tôi lại quan sát những kích thích của cảm xúc ở bên ngoài. Điều này sẽ chỉ làm cho cơn giận tăng trưởng thêm mà thôi. Đây cũng không phải là giải pháp. Thực sự rất khó mà quan sát bất kỳ một tiêu cực trừu tượng, cảm xúc trừu tượng, tách rời khỏi đối tượng bên ngoài làm phát sinh ra nó.

Tuy nhiên, một bậc đã đạt đến chân lý hay sự thực tối hậu, và trong trạng thái  giác ngộ viên mãn đã tìm ra một giải pháp đích thực. Ngài đã khám phá ra rằng bất cứ khi nào một phiền não phát sinh trong tâm, cùng một lúc, hai điều bắt đầu xảy ra ở mức vật lý (thân). Một là hơi thở mất đi nhịp điệu bình thường của nó. Tôi bắt đầu thở nặng nề hơn khi một tiêu cực đi vào trong tâm. Đây là một thực tại mà ai cũng có thể cảm nghiệm, dù nó rất thô và rõ rệt. Đồng thời, ở một mức vi tế hơn, một loại phản ứng sinh hoá - hay cảm thọ nào đó bắt đầu khởi động trong thân. Mỗi phiền não sẽ tạo ra một cảm thọ thế này hay thế khác, nơi một bộ phận nào đó của thân.

Đây là một giải pháp thực tiễn. Một người bình thường không thể nào quan sát được những phiền não trừu tượng của tâm - sợ hãi trừu tượng, sân hận trừu tượng, hay tham dục trừu tượng. Song với sự luyện tập và thực hành thích hợp, họ rất dễ quan sát hơi thở và các cảm thọ, cả hai đều liên quan trực tiếp đến những phiền não của tâm.

Hơi thở và các cảm thọ sẽ giúp tôi theo hai cách. Thứ nhất chúng sẽ là những người thư ký riêng của tôi. Ngay khi một phiền não khởi lên trong tâm, hơi thở của tôi sẽ mất đi sự bình thường của nó. Nó sẽ bắt đầu la lên: “Coi chừng, có điều gì đó trục trặc rồi!” Tất nhiên tôi không thể tát tai hơi thở; tôi phải chấp nhận lời cảnh báo của nó. Tương tự, các cảm thọ nhắc tôi: “Có cái gì trục trặc rồi đó.” Tôi phải chấp nhận điều này. Lúc đó, sau khi đã được cảnh báo, tôi bắt đầu quan sát hơi thở, quan sát các cảm thọ, và tôi nhanh chóng thấy ra rằng phiền não diệt mất.

Hiện tượng tâm - vật lý này cũng giống như một đồng tiền có hai mặt. Ở mặt này là những ý nghĩ hay cảm xúc khởi lên trong tâm. Ở mặt kia là hơi thở và cảm thọ trên thân. Bất kỳ ý nghĩ hay cảm xúc nào (dù ý thức hay vô thức), bất kỳ tâm phiền não nào cũng đều thể hiện ra trong hơi thở hoặc cảm thọ vào lúc đó. Như vậy khi quan sát hơi thở hay cảm thọ, tôi cũng đang gián tiếp quan sát tâm phiền não. Thay vì chạy trốn vấn đề, tôi đối diện với thực tại như nó hiện đang là. Khi ấy tôi sẽ thấy rằng phiền não mất đi sức mạnh của nó; và không còn có thể áp đảo tôi như nó đã từng trước đây nữa. Nếu tôi kiên trì, phiền não cuối cùng sẽ biến mất hoàn toàn và tôi giữ được sự bình an và hạnh phúc.

Theo cách này, kỹ thuật tự quan sát chỉ ra cho chúng ta thấy thực tại trên hai phương diện của nó, bên ngoài và bên trong. Trước đây, ta luôn luôn nhìn ra ngoài với đôi mắt mở, bỏ quên sự thực nội tại. Tôi luôn luôn đi tìm nguyên nhân khổ đau của tôi ở bên ngoài. Tôi luôn luôn đổ lỗi và cố gắng thay đổi thực tại bên ngoài. Do không biết gì về thực tại bên trong, tôi chẳng bao giờ hiểu được rằng nguyên nhân của khổ nằm ở bên trong, nó nằm ngay trong những phản ứng mù quáng của tôi.

Thật khó mà quan sát một tiêu cực trừu tượng khi nó khởi lên. Nhưng bây giờ, nhờ luyện tập, tôi có thể thấy mặt bên kia của đồng tiền: tôi có thể nhận ra hơi thở và cũng nhận ra những gì đang xảy ra bên trong tôi. Dù cho nó là gì, hơi thở hay bất kỳ cảm thọ nào, tôi học cách chỉ quan sát nó, không để mất sự quân bình của tâm. Tôi không còn làm cho những khổ đau của tôi tăng thêm nữa. Thay vào đó, tôi để cho phiền não thể hiện ra và tự diệt đi.

Bạn càng thực hành kỹ thuật này nhiều chừng nào, bạn sẽ càng thấy mình có thể thoát ra khỏi tiêu cực nhanh chóng hơn chừng ấy. Dần dần tâm cũng thoát khỏi những tiêu cực; nó trở nên thanh tịnh. Một cái tâm thanh tịnh luôn luôn tràn ngập tình yêu thương, tình yêu thương không dính mắc hay còn gọi là tâm từ ái đối với tất cả mọi người; tràn ngập lòng bi mẫn đối với những thất bại và khổ đau của người khác; tràn ngập lòng hoan hỷ trước những sự thành công và hạnh phúc của họ; tràn ngập sự xả ly khi đối diện với bất cứ tình huống nào.

Khi một người đạt đến giai đoạn này, lúc đó toàn bộ mô thức sống của họ bắt đầu thay đổi. Họ không còn có thể làm một điều gì bằng thân hay bằng lời nói vốn sẽ gây xáo trộn sự bình an và hạnh phúc của tha nhân được nữa. Thay vào đó, tâm quân bình chẳng những tự nó trở nên bình an, mà nó cũng còn giúp người khác được bình an. Bầu không khí chung quanh một con người như vậy sẽ được thấm nhuần với sự bình an và hoà hợp, và tất nhiên điều này cũng sẽ ảnh hưởng đến mọi người.

Đây là một nghệ thuật sống, là những gì Đức Phật đã dạy. Đức Phật không bao giờ thiết lập hay giảng dạy một hình thức tôn giáo nào cả. Ngài không bao giờ hướng dẫn những người theo ngài thực hành một lễ nghi hay nghi thức tôn giáo, hoặc bất kỳ môt hình thức rỗng không, mù quáng nào. Thay vào đó, Ngài chỉ dạy mọi người cách quan sát thiên nhiên đúng như nó là, bằng cách quan sát thực tại bên trong tự thân mỗi người. Do vô minh, trước đây chúng ta cứ liên tục phản ứng theo cách có hại cho chính bản thân chúng ta và có hại cho những người khác. Bây giờ khi trí tuệ sanh -­­ trí tuệ do quan sát thực taị đúng như nó là - chúng ta thoát ra khỏi sự phản ứng mù quáng này. Khi chúng ta dừng lại việc phản ứng mù quáng, chúng ta có khả năng hành động đích thực - hành động diễn tiến từ một cái tâm quân bình (không tham cũng không sân), và buông xả, một cái tâm thấy và hiểu đúng sự thực. Một hành động như vậy chỉ có thể là hành động tích cực, sáng tạo, và lợi ích cho bản thân và cho tha nhân.

Vậy thì, cái được xem là cần thiết ở đây là “hãy biết chính mình” - đây là lời khuyên mà các bậc hiền trí đã đưa ra. Bạn phải biết mình không chỉ ở mức tri thức, ở mức khái niệm và lý thuyết. Điều này cũng không có nghĩa là biết mình ở mức đức tin hay tình cảm, chỉ đơn giản chấp nhận một cách mù quáng những gì bạn nghe hay đọc. Kiến thức như vậy là không đủ.

Đúng hơn, bạn phải biết thực tại ở mức kinh nghiệm. Bạn phải kinh nghiệm trực tiếp thực tại của các hiện tượng tâm-vật lý này. Chỉ có làm như thế mới giúp chúng ta thoát ra khỏi những phiền não, thoát ra khỏi khổ đau.

Kinh nghiệm trực tiếp thực tại trong chính tự thân hay kỹ thuật tự quan sát chính mình này, là những gì được gọi là Vipassanā hay thiền Minh sát. Trong ngôn ngữ của Ấn độ vào thời Đức Phật, passanā có nghĩa là nhìn, là thấy với mắt mở, theo cách thông thường. Nhưng Vipassanā là quan sát hay quán chiếu mọi vật như chúng thực sự là, không chỉ như chúng dường như là. Sự thực rõ rệt bề ngoài phải được thể nhập hay chọc thủng qua, cho đến khi bạn đạt đến sự thực tối hậu của toàn bộ cơ cấu tâm-vật lý hay tâm và thân. Khi bạn kinh nghiệm sự thực này, bạn biết cách dừng lại sự phản ứng mù quáng, biết cách dừng lại việc tạo tác những phiền não. Một cách tự nhiên, những phiền não cũ cũng bị đoạn trừ dần. Bạn thoát khỏi mọi khổ đau, và cảm nghiệm sự hạnh phúc.

Có ba bước tu tập được đưa ra trong một khoá thiền Vipassanā. Trước hết bạn phải tránh bất kỳ hành động bằng thân hoặc khẩu nào làm xáo trộn sự bình an và hoà hợp của người khác. Bạn không thể thực hành để tự giải thoát mình ra khỏi những phiền não trong tâm trong khi vẫn tiếp tục thực hiện những hành động bằng thân và lời nói mà vốn chỉ làm tăng trưởng thêm những phiền não ấy. Do đó một căn bản giới luật là bước đầu cần yếu của việc thực hành. Bạn phải cam kết không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, và không dùng các chất gây say. Nhờ tránh những hành động như vậy, bạn để cho tâm lắng dịu xuống.

Bước kế tiếp là phát triển một mức độ làm chủ nào đó đối với cái tâm hoang dã này, bằng cách tập luyện cho nó trụ vững trên một đối tượng duy nhất, hơi thở. Bạn cố gắng giữ cho sự chú tâm của bạn trên hơi thở trong thời gian càng lâu càng tốt. Đây không phải là một bài tập thở nên bạn không được điều khiển hơi thở. Thay vào đó bạn chỉ quan sát hơi thở tự nhiên, khi nó đi vô và khi nó đi ra đúng như nó đang là. Theo cách này bạn làm cho tâm lắng dịu thêm, nhờ thế nó không còn bị những tiêu cực mãnh liệt áp đảo nữa. Đồng thời, bạn còn tập trung tâm lại, làm cho nó nhạy bén và minh mẫn, có khả năng làm công việc minh sát.

Hai bước đầu - sống một cuộc sống đạo đức và kiểm soát tâm - tự nó rất cần thiết và lợi ích. Song chúng sẽ chỉ dẫn đến sự tự chế thôi nếu bạn không bước thêm bước thứ ba: thanh tịnh tâm khỏi các phiền não, bằng cách phát triển khả năng nhìn thấu sự thực hay minh sát vào ngay bản chất của bạn. Thực sự ra Vipassanā có nghĩa là kinh nghiệm thực tại của chính mình, qua việc quan sát có hệ thống và buông xả các hiện tượng tâm-vật chất hay danh và sắc luôn luôn thay đổi, tự nó thể hiện ra như những cảm thọ trong bản thân. Đây là tột đỉnh của giáo pháp Đức Phật: tự thanh tịnh qua việc tự quán chiếu.

Việc tự quán chiếu này mọi người ai cũng thực hành được. Căn bệnh không riêng cho một bộ phái nào, do đó cách chữa cũng không thể giới hạn trong phạm vi bộ phái: nó phải là của chung. Mọi người chúng ta ai cũng phải đối diện với vấn đề khổ đau. Khi bạn sân hận, đó không phải là sân hận của người Phật tử, sân hận của người Hindu, hay sân hận của người Thiên Chúa. Sân hận là sân hận. Do sân hận bạn trở nên kích động, thì đó cũng không phải là sự kích động của người Thiên Chúa hay Hindu (Ấn giáo), hay sự kích động của người Phật tử. Bệnh tật là chung. Cách chữa cũng phải là chung.

Vipassanā là một cách chữa mang tính phổ quát như vậy. Sẽ không ai phản đối một quy tắc sống biết tôn trọng sự bình an và hòa hợp của những người khác. Sẽ không ai chống lại việc tu tập kiểm soát tâm. Sẽ không ai ghét việc tu tập Minh sát qua đó người ta có thể giải thoát tâm khỏi những tiêu cực. Đó là một đạo lộ phổ quát. Đó không phải là sự sùng bái. Đó không phải là một giáo điều. Đó không phải là đức tin mù quáng.

Quan sát thực tại đúng như nó là, bằng cách quan sát sự thực bên trong - đây là biết mình ở mức kinh nghiệm thực sự. Và khi bạn thực hành, bạn bắt đầu đi ra khỏi cái khổ của phiền não. Từ sự thực rõ rệt và thô ở bên ngoài, bạn thể nhập vào sự thực tối hậu của tâm và vật chất hay danh và sắc. Rồi bạn vượt qua sự thực tối hậu ấy và kinh nghiệm một sự thực nằm ngoài tâm và vật chất, nằm ngoài thời gian và không gian, nằm ngoài lĩnh vực tương đối do duyên sanh hay điều kiện tạo thành: sự thực của giải thoát hoàn toàn khỏi mọi phiền não, mọi bất tịnh, mọi khổ đau. Bất kỳ cái tên nào bạn gán cho sự thực cùng tột này cũng đều không thích hợp. Nó là mục đích cuối cùng của mọi người.

Cầu mong tất cả các bạn đều kinh nghiệm được sự thực cùng tột này. Cầu mong tất cả mọi người ở khắp mọi nơi trên thế gian này thoát khỏi những phiền não của họ, thoát khỏi khổ đau của họ. Cầu mong mọi người hưởng được hạnh phúc chân thực, sự bình an chân thực, và hòa hợp chân thực.

Toa Thuốc Của Bác Sĩ

Một người đàn ông kia bị bệnh và đi đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám xong rồi kê cho anh ta một toa thuốc. Người đàn ông này rất tin tưởng vị bác sĩ của mình. Anh ta trở về nhà và trong phòng cầu nguyện của mình anh đặt một bức tượng rất đẹp của vị bác sĩ ấy. Rồi, anh ngồi xuống dập đầu kính lễ bức tượng ấy ba lần, và dâng lên hương hoa. Xong anh móc cái toa thuốc mà vị bác sĩ đã ghi cho anh ra và trịnh trọng đọc: “Sáng hai viên! Trưa hai viên! Tối hai viên!” Suốt cả ngày, suốt cả đời anh ta cứ mãi miết đọc toa thuốc vì anh có đức tin lớn nơi vị bác sĩ, nhưng toa thuốc vẫn không giúp ích được gì cho anh.

Người đàn ông quyết định là mình cần phải biết thêm thông tin về toa thuốc này, và thế là anh tức tốc chạy đến hỏi vị bác sĩ, “Tại sao bác sĩ lại kê toa thuốc này? Nó sẽ giúp cho tôi như thế nào?” Là một người trí thức, vị bác sĩ giải thích, “Này, hãy xem nhé, đây là bệnh của anh, và đây là nguyên nhân sanh ra bệnh của anh. Nếu anh uống thuốc mà tôi đã kê toa đó, nó sẽ loại trừ căn nguyên của bệnh. Khi nhân đã được loại trừ, bệnh sẽ tự động biến mất thôi.” Người đàn ông suy nghĩ, “A, thật tuyệt vời! Bác sĩ của ta rất thông thái! Toa thuốc của ông thật vô cùng lợi ích đấy chứ!” Thế là anh ta lại trở về nhà và bắt đầu tranh cãi với những người hàng xóm láng giềng của mình, khăng khăng rằng, “Bác sĩ của tôi là đệ nhất! Các ông bác sĩ khác đều vô dụng!” Nhưng anh ta được gì khi tranh cãi như thế? Suốt cuộc đời anh ta có thể cứ tiếp tục tranh cãi, song điều ấy cũng hoàn toàn chẳng giúp ích được gì cho anh. Nếu anh ta uống thuốc, chỉ lúc đó anh ta mới vơi nhẹ được nỗi khổ của mình, mới dứt được căn bệnh của mình. Chỉ lúc đó thuốc mới giúp ích được cho anh ta.

Mỗi con người giải thoát cũng giống như một vị lương y vậy. Vì lòng bi mẫn, vị ấy đưa ra một toa thuốc khuyên mọi người cách làm thế nào để tự giải thoát mình ra khỏi khổ đau. Nếu người nào phát sinh đức tin mù quáng nơi vị ấy, họ sẽ biến toa thuốc thành kinh điển và rồi bắt đầu tranh cãi với các bộ phái khác, cho rằng giáo lý của bậc sáng lập ra tôn giáo của họ mới là cao siêu. Nhưng chẳng ai màng đến việc thực hành theo lời dạy, chẳng ai màng đến việc uống thuốc theo toa đã kê để loại trừ căn bệnh.

Thực ra, có niềm tin nơi vị bác sĩ sẽ là hữu ích nếu nó khuyến khích được bệnh nhân theo lời khuyên của ông ta. Hiểu rõ thuốc có hiệu quả như thế nào cũng là điều lợi ích nếu nó khích lệ bạn uống thuốc. Nhưng nếu không thực sự uống thuốc, bạn không thể nào chữa được bệnh. Bạn phải tự mình uống thuốc mới mong hết bệnh.

Nhân Gần Của Khổ

Thế giới thực không giống như thế giới của các câu chuyện thần tiên trong đó mọi người sống với nhau một cách hạnh phúc cho đến mãi về sau. Chúng ta không thể tránh được sự thực phũ phàng rằng cuộc đời là bất toàn, bất túc, bất toại nguyện - sự thực về sự hiện hữu của khổ.

Khi xét đến hiện thực này, điều quan trọng chúng ta muốn biết là khổ có (nguyên) nhân hay không, và, nếu có, liệu chúng ta có thể loại trừ được nhân ấy để cho khổ được loại trừ hay không. Nếu trường hợp nhân sanh ra cái khổ của chúng ta chỉ là những chuyện xảy ra tình cờ qua đó có thể chúng ta không có quyền kiểm soát hay ảnh hưởng gì được, thì chúng ta cũng đành bất lực và nên từ bỏ mọi cố gắng truy tìm con đường thoát khổ đi thì hơn. Hoặc nếu những khổ đau của chúng ta được định đoạt bởi một đấng quyền năng nào đó làm việc theo lối độc đoán và bí ẩn, thời chúng ta phải tìm cách  làm nguôi cơn thịnh nộ của đấng này để ông sẽ không còn giáng khổ đau lên chúng ta nữa.

Đức Phật thấy rõ rằng khổ đau của chúng ta không phải là sản phẩm của sự tình cờ. Có những nguyên nhân nằm đằng sau nó, vì mọi hiện tượng hay các pháp đều  do nhân duyên sanh. Quy luật nhân quả - kamma (nghiệp) - là quy luật phổ quát và cơ bản cho sự hiện hữu. Những nhân ấy không nằm ngoài quyền kiểm soát của chúng ta.

Kamma

Chữ kamma (hay, trong hình thức Sanskrit phổ biến rộng rãi hơn của nó, karma) thường được mọi người hiểu theo nghĩa “số phận.” Tiếc thay hàm ý của từ này ngược hẳn với những gì Đức Phật có ý định muốn nói bằng từ kamma. Số phận là cái gì đó nằm ngoài quyền kiểm soát của chúng ta, là mệnh trời hay ý của Thượng đế, những gì đã được định trước cho mỗi người chúng ta. Tuy nhiên kamma nghĩa đen là “hành động.” Những hành động của chúng ta là nhân của những gì chúng ta cảm thọ trong cuộc đời: “Các chúng sanh là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự của nghiệp, được sanh ra từ nghiệp, bị trói buộc bởi nghiệp; nghiệp là nơi nương nhờ của họ. Nghiệp họ làm thấp hèn hay cao thượng như thế nào, cuộc sống của họ sẽ thấp hèn hay cao thượng như thế ấy.”[3]

Mọi việc chúng ta gặp trong cuộc đời là kết quả của những hành động hay nghiệp riêng của chúng ta. Do đó, mỗi người chúng ta có thể làm chủ được số phận của mình bằng cách làm chủ những hành động chúng ta làm. Mỗi người chúng ta phải có trách nhiệm đối với những hành động làm phát sinh ra khổ đau của chúng ta. Đức Phật nói,

Ta là chủ nhân của ta,

Ta tạo tương lai cho chính ta.[4]

Theo đó, mỗi người chúng ta cũng giống như một người bịt mắt chưa hề học lái xe, ngồi đằng sau tay lái của một chiếc xe tốc hành trên một xa lộ đông đúc. Chắc chắn anh ta không thể về đến nơi đã định mà không gặp rủi ro. Anh ta có thể nghĩ rằng mình đang lái xe, nhưng thực sự là xe đang lái anh ta. Nếu anh ta muốn tránh tai nạn, chưa nói đến việc về đến đích, anh ta phải bỏ cái khăn bịt mắt ra, phải học cách điều khiển xe, và biết cách tránh sự hiểm nguy càng nhanh càng tốt. Tương tự, chúng ta phải biết những gì chúng ta làm và cũng phải học cách thực hiện những nghiệp nào sẽ dẫn chúng ta đến chỗ chúng ta thực sự muốn đến.

Ba Loại Nghiệp

Có ba loại nghiệp: thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Thông thường chúng ta coi thân nghiệp là quan trọng nhất, khẩu nghiệp trung bình, và ý nghiệp là ít quan trọng nhất. Đánh một người đối với chúng ta có vẻ như là một hành động nghiêm trọng hơn nói những lời xỉ vả người ấy, và cả hai (đánh và chửi) dường như nghiêm trọng hơn một ác ý không bộc lộ ra đối với người ấy. Tất nhiên, nhận định này sẽ được quan niệm tùy theo luật lệ của mỗi xứ sở, và do con người chế ra. Nhưng theo Pháp (Dhamma), quy luật của thiên nhiên hay quy luật tự nhiên, ý nghiệp là quan trọng nhất. Một hành động bằng thân hay bằng lời nói sẽ mang ý nghĩa hoàn toàn khác nhau tùy theo ý định thực hiện hành động ấy.

Một bác sĩ phẫu thuật dùng con dao mổ của mình để hực hiện một ca mổ cấp cứu mà cuối cùng hóa ra lại không thành công dẫn đến cái chết của bệnh nhân; một tên sát nhân dùng con dao của mình để đâm nạn nhân cho đến chết. Về thân mà nói, hai hành động của họ giống nhau, với cùng kết quả (là chết người), nhưng về mặt tâm lý, họ lại khác biệt nhau rất xa về ý định. Người bác sĩ phẫu thuật hành động vì lòng bi mẫn, trong khi tên sát nhân vì lòng sân hận. Quả báo mà mỗi người gặt sẽ hoàn toàn khác nhau, tùy theo ý nghiệp của họ.

Tương tự, trong trường hợp của lời nói, ý định là quan trọng nhất. Một người cãi nhau với bạn đồng nghiệp của mình và xỉ vả người này, gọi họ là đồ ngu. Anh ta nói lời đó xuất phát từ lòng sân hận. Cũng người này khi nhìn thấy con mình chơi đùa trong vũng bùn nhơ nhớp và nhẹ nhàng gọi nó là đồ ngu. Lời nói này của anh ta xuất phát từ tình thương. Trong cả hai trường hợp cùng một lời nói được nói ra, song thực tế lại bộc lộ hai trạng thái tâm trái ngược nhau. Chính ý định nằm trong lời nói sẽ quyết định quả báo.

Những lời nói và hành động hoặc những tác động bên ngoài của họ chỉ là những hệ quả của ý nghiệp. Chúng được phán xét một cách thích đáng theo tính chất của ý định qua đó chúng tìm được sự bộc lộ ra. Chính ý nghiệp mới là nghiệp (kamma) thực sự, là nhân sẽ cho quả trong tương lai. Hiểu được đạo lý này Đức Phật công bố,

Tâm đi trước các pháp, 

Tâm làm chủ, tâm tạo.

Nếu với tâm bất tịnh,

Nói năng hay hành động,

Khổ não sẽ theo sau,

Như bánh xe lăn theo,

Chân con vật kéo xe.

Nếu với tâm thanh tịnh,

Nói năng hay hành động,

An lạc sẽ theo sau,

Như bóng chẳng rời hình.[5]

Nhân của Khổ

Nhưng những ý nghiệp nào sẽ quyết định số phận của chúng ta? Nếu tâm chỉ là thức, tưởng, thọ, và hành (những phản ứng), thì yếu tố nào trong số này làm phát sanh khổ đau? Thực sự mỗi trong những yếu tố ấy có liên can một mức độ nào đó trong tiến trình khổ đau. Tuy nhiên, ba yếu tố đầu - thức, thọ, và tưởng - chủ yếu là thụ động. Thức chỉ đơn thuần tiếp nhận những dữ liệu chưa xử lý của kinh nghiệm, tưởng phân loại dữ liệu, thọ báo hiệu sự xảy ra của các bước trước. Công việc của ba yếu tố này chỉ là để thu nhận những thông tin đưa vào. Nhưng khi tâm bắt đầu phản ứng, tình trạng thụ động nhường chỗ cho sự hấp dẫn hay ghê tởm, cho thích hay ghét. Sự phản ứng này làm chuyển động một chuỗi các sự kiện mới mà khởi đầu của nó là sự phản ứng hay hành, saṇkhāra. Đây là lý do tại sao Đức Phật nói,

Phàm khổ gì phát sinh,

Tất cả duyên các hành.

Do đoạn diệt các hành

Khổ không còn hiện hữu.[6]

Nghiệp (kamma) đích thực, hay nhân đích thực của khổ là sự phản ứng của tâm. Một phản ứng thoáng qua của cảm giác thích hay không thích có thể không mãnh liệt lắm và không cho ra quả báo nhiều, nhưng nó sẽ có một hiệu quả tích lũy. Sự phản ứng được lập đi lập lại hết lúc này sang lúc khác, qua mỗi lần như vậy cường độ sẽ gia tăng, và cuối cùng phát triển thành tham ái hoặc sân hận. Đây là những gì trong bài pháp đầu tiên (Kinh Chuyển Pháp Luân) Đức Phật gọi là taṇhā, nghĩa đen là “khát ái”: thói quen khao khát không bao giờ thỏa mãn của tâm đối với những gì không có, cũng hàm ý một sự bất toại nguyện tương đương và không thể sửa chữa được đối với những gì đã có.[7] Khát ái và bất toại nguyện càng mãnh liệt bao nhiêu, ảnh hưởng của chúng trên ý nghĩ của chúng ta, trên lời nói của chúng ta, và trên hành động của chúng ta càng sâu đậm hơn bấy nhiêu - đồng thời cái khổ mà chúng gây ra cũng sẽ nhiều hơn bấy nhiêu.

Một số phản ứng, Đức Phật nói, giống như chữ viết trên mặt nước: ngay khi vừa viết xong chúng liền bị xóa đi. Những phản ứng khác giống như chữ viết trên bờ cát: nếu viết vào buổi sáng thì buổi tối cũng bị thủy triều hoặc gió xóa sạch. Những phản ứng khác thì giống như chữ khắc sâu trong đá với búa và đục. Tất nhiên, chúng cũng bị xóa nhòa đi khi đá mòn, nhưng muốn cho chúng mất hẳn sẽ phải mất hàng thế kỷ.[8]

Mỗi ngày trong suốt cuộc đời của chúng ta tâm cứ tiếp tục phát ra những phản ứng, nhưng nếu cuối ngày chúng ta cố gắng nhớ lại, chúng ta chỉ có thể nhớ được một hoặc hai phản ứng tạo ấn tượng sâu đậm nhất ngày hôm đó mà thôi. Lại nữa, nếu cuối một tháng chúng ta cố gắng nhớ lại tất cả những phản ứng của chúng ta, may ra chúng ta chỉ nhớ được một hay hai phản ứng nào tạo ấn tượng sâu sắc nhất trong tháng đó. Cũng vậy, cuối một năm chúng ta sẽ chỉ có thể nhớ lại được một hoặc hai phản ứng để lại ấn tượng sâu sắc nhất suốt năm đó. Những phản ứng sâu đậm như vậy rất là nguy hiểm vì chúng đưa đến khổ đau vô cùng.

Bước đầu tiên hướng đến sự xuất ly khỏi khổ là biết chấp nhận hiện thực của khổ, không phải như một khái niệm triết học hay như một tín điều, mà như một thực tế của hiện hữu ảnh hưởng đến mỗi người chúng ta trong cuộc đời. Cùng với sự chấp nhận này là một sự hiểu biết về khổ là gì và tại sao chúng ta phải khổ, lúc đó chúng ta mới có thể không còn bị (xe) lái đi mà bắt đầu biết lái chiếc xe của đời mình. Nhờ biết cách trực nhận bản chất của chính mình, chúng ta có thể tự đặt mình trên đạo lộ dẫn đến giải thoát khỏi khổ đau.

Hai Chiếc Nhẫn

Một ông nhà giàu nọ chết để lại hai đứa con. Hai đứa tiếp tục sống chung với nhau một thời gian theo tập tục Ấn độ, trong một căn nhà chung, một gia đình chung. Nhưng sau đó hai đứa cãi nhau và quyết định tách riêng, chia đôi toàn bộ gia tài. Thế là mọi thứ được đem ra chia đều nhau, và từ đó chúng ổn định công việc của mình. Tuy nhiên, sau khi mọi việc ổn định thì mới phát hiện ra một gói nhỏ mà cha chúng đã cất giấu rất cẩn thận. Chúng mở cái gói ấy ra và thấy rằng trong đó có hai chiếc nhẫn, một chiếc có gắn một viên kim cương rất giá trị , còn chiếc kia là một chiếc nhẫn bằng bạc giá trị chỉ vài rupees[9].

Thấy kim cương, người anh liền khởi lên tâm tham, anh ta bắt đầu giải thích cho người em, “Theo anh nghĩ thì chiếc nhẫn này không phải của cha chúng ta làm ra, mà đúng hơn là một bảo vật từ đời tổ tiên chúng ta. Đó là lý do tại sao cha lại để riêng nó khỏi những vật sở hữu khác. Và vì lẽ  nó đã được lưu truyền qua các thế hệ trong gia tộc của chúng ta, nó phải được giữ gìn cho các thế hệ tương lai. Do đó anh, là anh cả, sẽ giữ nó. Em nên lấy chiếc nhẫn bạc hơn.”

Người em mỉm cười và nói, “ Được thôi, anh hãy vui với chiếc nhẫn kim cương, còn em sẽ vui với chiếc nhẫn bạc.” Cả hai người cùng đeo nhẫn vào tay và đường ai nấy đi.

Người em tự nhủ. “Thật dễ hiểu tại sao cha lại giữ kỹ chiếc nhẫn kim cương; vì nó rất giá trị. Nhưng tại sao ông lại giữ chiếc nhẫn bạc tầm thường này nữa? Anh xem xét kỹ chiếc nhẫn và thấy có hàng chữ khắc trên đó: “Điều này rồi cũng sẽ đổi thay”. Ồ, đây là câu mật chú của cha ta chăng: ‘Điều này rồi cũng sẽ đổi thay!’ ” Anh đeo chiếc nhẫn vào ngón tay của mình trở lại.

Cả hai anh em đã phải đương đầu với mọi thăng trầm của cuộc đời. Khi mùa xuân đến (ám chỉ khi thành công trong cuộc đời), người anh cảm thấy rất là phấn chấn, mất đi sự quân bình của tâm. Khi mùa thu hay mùa đông đến (ám chỉ khi thất bại), anh rơi vào tình trạng chán chường cay đắng, cũng lại mất đi tâm quân bình của mình. Anh ta trở nên căng thẳng, mắc chứng bệnh huyết áp cao, không thể ngủ được vào ban đêm. Anh ta bắt đầu dùng đến những viên thuốc ngủ, thuốc giảm đau, và những loại dược phẩm  mạnh hơn. Cuối cùng, anh đến giai đoạn đòi hỏi phải có những ca điều trị tâm thần bằng điện. Đây là trường hợp của người anh với chiếc nhẫn kim cương.

Còn về người em với chiếc nhẫn bạc, khi mùa xuân đến, anh thọ hưởng nó; anh không tìm cách tránh né nó. Anh thọ hưởng nhưng không quên nhìn vào chiếc nhẫn của mình để nhớ rằng, “Điều này rồi cũng sẽ đổi thay.”  Và khi nó thay đổi, anh có thể mỉm cười và tự nhủ, “À, ta biết rằng nó sẽ thay đổi mà. Giờ đây nó thay đổi, thì đã sao nào!” Khi mùa thu hay mùa đông đến, anh lại nhìn vào chiếc nhẫn và nhớ, “Điều này rồi cũng sẽ thay đổi.”  Anh không than khóc, biết rằng điều này rồi cũng sẽ thay đổi. Và đúng vậy, nó đã thay đổi, nó đã qua đi. Đối với mọi việc thành bại, thăng trầm trong cuộc đời, anh biết rằng chẳng có gì vĩnh cửu cả, rằng mọi thứ đến chỉ để ra đi. Anh không mất sự quân bình của tâm và sống một cuộc sống bình an và hạnh phúc.

Đây là trường hợp của người em với chiếc nhẫn bạc.



[1] Xem lại chú thích trang 1.

[2] Cái ghè: một loại bình bằng đất tựa như cái lu nhưng nhỏ hơn.

[3] M.135, Cūḷa Kamma Vibhaṅga Sutta.( Kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt.Trung Bộ III.)

[4] Dhammapada,XXV.21(380).

[5]  Dhammapada, I. 1&2.(Pháp Cú Kinh)

[6] Sutta Nipāta, III.12, dvayatānupassanā Sutta.

[7] S.LVI(XII).ii.1, Dhamma-cakkappavattana Sutta

[8] A.III.xviii.130, Lekha Sutta.

[9] Rupee ,đồng rupi, đơn vị tiền tệ ở Ấnđộ và Pakistan

Tiếp theo


[Ðầu trang][Trở về trang Mục Lục][Trở về trang Thư Viện]

updated: 2007