| Truyện đức Vê-xanh-ta
 
Đức Vê-xanh-ta do sự thỉnh mời của 
						trời Đế Thích nên từ cung trời Tu-si-ta giáng sanh vào kinh đô Kế-tư-đà làm con 
						của đức vua Thệ Sanh và hoàng hậu Trầm Hương. Sở dĩ gọi là Trầm Hương vì lý do 
						nhân duyên quá khứ, bà bố thí trầm hương đến Đức Phật Tỳ-bà-thi nên trầm hương 
						bao giờ cũng tỏa ngát nơi bà qua các cõi trời và người. Từ khi thọ thai đức Vê-xanh-ta, mỗi 
						ngày bà bố thí sáu mươi ngàn đồng tiền vàng, sống đời đức tin thanh khiết với 
						thiện pháp. Đức Vê-xanh-ta giáng thế thì đồng 
						thời, sáu muôn chư thiên cũng giáng sanh xuống rải rác trong quốc độ để sau này 
						làm kẻ tùy tùng hầu hạ. Vì là dòng dõi của chư Phật nên đức Vê-xanh-ta có dung 
						nghi và tư cách khác thường. Vua Thệ Sanh coi vị hoàng nam này như 
						ngọc báu của quốc độ. Ngài cho xây bốn tòa cung điện. Mười thầy Bà-la-môn uyên 
						bác đảm trách về giáo dục. Hai mươi thị nữ săn sóc và hầu hạ. Mười vị lương y 
						trứ danh túc trực sẵn sàng để coi về sức khỏe cho hoàng tử. Ngoài ra, võng 
						lọng, kiệu xe, ngựa voi, thú vui, vật lạ - chẳng có gì là không đầy đủ. Lên tám tuổi, đức Vê-xanh-ta xin vương 
						phụ cho được tự do bố thí. Mỗi ngày, ngài bố thí mười ngàn đồng tiền vàng với 
						lời đại nguyện: - Xin nguyện bố thí bất nghịch ý đến 
						tất cả chúng sanh, không những bạc tiền và sở hữu có được - mà còn bố thí tứ 
						chi, mắt tim, thân thể và luôn cả tính mạng! Lời nguyện vô thượng làm cho địa cầu 
						rung chuyển, lan xa đến mấy cõi trời. Chư thiên hữu tình rải hoa ca ngợi. Vô 
						lượng chúng sanh cảm thấy trong tâm phát sanh hỷ lạc. Trong khi ấy có con vương 
						tượng từ núi Tu Di đi qua hư không hạ xuống kinh thành, biếu tặng đức 
						Vê-xanh-ta một con voi báu bốn ngà vàng cao quý. Biết đây là thần linh ban cho 
						nên đức Vê-xanh-ta đặt tên là Voi Thần. Khi ngài ngự trên voi báu, vẻ uy nghi 
						và sáng rỡ của cả hai khiến người người chiêm ngưỡng trầm trồ khen ngợi cho sự 
						tương hợp kỳ lạ giữa chúa loài người và chúa loài voi. Đôi khi thích chí, Voi 
						Thần bỏ mặt đất, bước qua cổng thành, chở đức Vê-xanh-ta dạo chơi giữa hư 
						không. Mười ngàn thớt tượng của đức vua mỗi khi thấy Voi Thần đi ngang qua thì 
						run rẩy, hai chân trước khuỵu xuống, phủ phục không dám ngẩng đầu lên. Từ khi đức Vê-xanh-ta được Voi Thần 
						cũng là lúc vua Thệ Sanh được làm chúa chư hầu. Các nước lân bang từ lâu có ý 
						xâm lăng, dòm ngó - nay đều chịu thần phục và xin triều cống. Mỗi năm, của cải 
						từ bốn phương đem về kinh đô Kế-tư-đà còn hơn trăm con sông đổ nước về biển. 
						Vua Thệ Sanh cho xây mười ngàn cung khố, tuyển thêm mười muôn binh để lo việc 
						chuyên chở, săn sóc và bảo quản. Sáu ngàn cung phi mỹ nữ sủng ái, mười ngàn 
						quan đại thần đều được hưởng lộc vạn thặng. Cung điện của đức vua Thệ Sanh từ đây 
						biến thành cảnh thiên đường hạ giới, lúc nào cũng cuộc vui suốt sáng, trận cười 
						thâu đêm! Đức Vê-xanh-ta lúc ấy đã được phong 
						làm Thái tử. Vợ là công chúa Ma-đà-ly. Ít lâu sau, hai bé Ra-ly và Kanh-ha ra 
						đời. Dường như tâm từ bi và lòng quảng đại của ngài lớn dần theo với tuổi tác. 
						Trong khi triều đình càng lúc càng chìm sâu vào cảnh hưởng thụ, vinh hoa và 
						biếng nhác thì đức Vê-xanh-ta đã cho xây thêm trạm phước xá thứ sáu. Và, mỗi 
						ngày thay vì bố thí mười ngàn đồng tiền vàng, bây giờ đã lên đến một trăm ngàn. 
						Đã thế, ngài cho rằng chưa đủ. Mấy ngàn tay chân thân tín đi khắp tất cả các 
						thôn làng hẻo lánh, núi non xa thẳm để rao truyền tin lành về nước Phật phước 
						thiện và từ bi - rồi tìm đủ mọi cách giúp cho kẻ nghèo đói, khốn khổ được về 
						kinh thành chiêm ngưỡng đức Vê-xanh-ta cùng tấm lòng nhân hậu hiếm có của ngài. Cổ đức có dạy: “Ma quỷ thường sợ ánh 
						sáng”. Các quan đại thần triều đình vua Thệ Sanh, hôm kia họp nhau vào quỳ dưới 
						chân đức vua. - Tâu đại vương! Tài sản nước nhà thì 
						có hạn - mà sự bố thí hàng ngày của Thái tử là vô hạn. Xin nghiêm thượng xét 
						lại, quốc độ sẽ có lúc nguy vong. Một vị khác tâu: - Không những thế, hằng muôn người lại 
						bỏ bê, lười biếng trong công việc, ăn không ngồi rồi, chỉ chầu chực miếng cơm, 
						manh áo của Thái tử. Sự hưng thịnh của triều đại, tài sản sẵn có không quyết 
						định - mà chính do của cải tăng vượng mỗi ngày, sự bắt tay góp sức của mọi tầng 
						lớp lao động quyết định. Đây là mối nguy cơ nghiêm trọng cho xã tắc - bọn bầy 
						tôi ngu dốt cảm thấy sợ hãi vô cùng! Trăm người như một, thít tha phụ họa - 
						Vua Thệ Sanh rất lấy làm bối rối. Các đấng tiên hiền có nói: “Ma quỷ 
						thường núp sau những lý luận bằng vàng ròng”. Vua Thệ Sanh dẫu có đem tâm thiên 
						vị Thái tử, rốt lại cũng phải xuôi theo cái nguyện vọng của phần đông. Thái tử 
						được gọi đến. Đức Vê-xanh-ta lẳng lặng nghe vương 
						phụ và triều thần trình bày xong, ngài nhăn mày, tự nghĩ: - Các quan đại thần này vốn không phải 
						là người xấu, nhưng quyền lợi vật chất và đời sống vinh hoa làm cho họ tối ám 
						lương tri. Chúng đã tìm ra kẻ hở của công việc ta làm. Nhưng trí tuệ Ba-la-mật 
						vốn là Kim Cương bất hoại, xin nguyện sẽ đập vỡ những lý luận cứng rắn nhất. Ngài nói: - Cả hai điều mà các quan đại thần đưa 
						ra đều hợp lý. Thế nhưng, mười ngàn cung khố của quốc độ, con đâu có đụng chạm 
						đến? Thưa vương phụ! Tiền bạc và của cải bấy nay con chi dùng vào việc lợi tha, 
						vốn là tài sản mà vương phụ và mẫu hậu đã cho con. Như vậy thì, con đâu có lấy 
						của công mà làm việc tư riêng, dẫu là việc tư riêng có ý nghĩa phước thiện? Đức Vê-xanh-ta lại tiếp: - Còn việc ăn không, ở rỗi của lê dân. 
						Điều này thật là tai hại. Nhưng sự ăn không ở rỗi của đám ngu dân nghèo đói bất 
						hạnh kia - có nguy vong hơn sự ăn không ở rỗi của những kẻ có bạc tiền, thế lực 
						và quyền uy? Sự xa xỉ, vinh hoa của chúng ta, của cung điện, của mấy chục ngàn 
						gia đình quan đại thần, cung phi, thị nữ, tỳ thiếp mấy muôn người... xem chừng 
						tài sản quốc độ còn mau khánh kiệt hơn nhiều. Đừng vì quyền lợi của mình mà bảo 
						vệ lẽ phải một chiều trong cái hàng rào kiên cố bằng vàng, có ẩn dấu móng vuốt 
						của quỷ ma! Các quan đại thần hổ thẹn cúi gầm mặt 
						xuống. Đức Vê-xanh-ta lại quay qua đức vua: - Thưa Phụ vương! Để giúp cho việc 
						phước thiện được hoàn hảo. Các thầy Bà-la-môn hảo tâm, một ngàn thiện-bằng-hữu 
						đã tiếp tay với con - bằng cách kiếm công ăn việc làm cho những người ở rỗi. 
						Mỗi ngày, một trăm cơ quan hoạt động khắp nước, tạo nghề nghiệp cho mấy muôn 
						người. Trong nay mai, con lại mời thêm một 
						trăm thầy Bà-la-môn và chuyên gia lỗi lạc khắp trong các tiểu quốc, mở trường 
						dạy học về chữ nghĩa, đạo đức cùng các công nghệ chánh mạng và thực dụng. Thưa 
						vương phụ! Như vậy, xa rộng con đều đã nhìn thấy, trước và sau con đều có nghĩ 
						suy. Nhân, duyên và quả đều nằm trước tầm mắt, thì làm sao con lại có thể tác ý 
						hoặc hành động lầm lỗi? Lý luận đanh thép chặt chẽ và câu hỏi 
						của đức Vê-xanh-ta như chiếc búa nặng ngàn cân, không ai đỡ nổi. Vua Thệ Sanh nhìn đám quan đại thần 
						như đàn khỉ cáo run sợ trước uy dũng của thái thử, con ngài, đức vua sung sướng 
						đến phát khóc. Lát sau, để trấn tĩnh cái hoan hỷ đang xôn xao, bừng bừng kia 
						lắng dịu - đức vua sai cấp thêm cho Thái tử mười kho vàng và bạc để cho ngài 
						được trọn quyền sử dụng vào các việc công ích. Từ đây, mỗi ngày, con sông Hằng đổ về 
						biển đông bao nhiêu lượng nước - thì đức Vê-xanh-ta đổ tâm từ ái và cơm áo ấm 
						no từng ấy đến cho đám tiện dân đói khổ. Tin đức Vê-xanh-ta bố thí bất nghịch ý 
						đến tất cả mọi người, loan truyền đi chấn động cả mấy trăm tiểu quốc. Kẻ nghèo đói - và dĩ nhiên có kẻ giả 
						bộ nghèo đói - từ khắp nơi lũ lượt tìm đến kinh đô Kế-tư-đà đông như trẩy hội. 
						Thái tử thỏa mãn tất cả mọi người. Và thế là các kho vàng và bạc cứ vơi dần. Hôm kia, sáu người Bà-la-môn y áo phủ 
						đầy bụi đường, mặt mày hốc hác và đôi chân tươm máu xuất hiện trước vương cung. 
						Họ lắc đầu trước những của bố thí và chỉ xin được gặp Thái tử. Đức Vê-xanh-ta tiếp đón họ rất niềm nở 
						và lịch sự, truyền cho nội thị dẫn họ đến nơi tắm rửa, thay áo rồi dọn cơm nước 
						đãi đằng. Sáu người Bà-la-môn đồng thanh đáp: - Chúng tôi lên thác xuống ghềnh, gian 
						khổ nửa năm trường mới đến được nơi đây, chẳng phải là để xin một chiếc áo hoặc 
						một bữa cơm cao sang của bậc vương giả! - Vậy thì các thầy có ước nguyện gì, 
						cứ nói - Thái tử mỉm cười hoan hỷ cho họ an lòng và vững tâm - Chưa có ai gặp 
						ta mà phải thất vọng! Sáu người Bà-la-môn ngập ngừng nhìn 
						nhau, chưa ai dám mở miệng. Sau rốt, có người đứng lên: - Tấm lòng của Thái tử rộng lớn như 
						trời biển! Chúng tôi bạo gan xin đức Đông Cung bố thí cho thớt Voi Thần! Thái tử gật đầu nhận lời. Sáu người 
						Bà-la-môn không ngờ chuyện trọng đại lại chợt trở nên dễ dàng đến thế. Đức 
						Vê-xanh-ta không những sẵn sàng bố thí Voi Thần mà còn bố thí luôn nài, yên 
						cương khảm ngọc, dát vàng; những chuỗi bảo châu làm vật trang điểm, những hạt 
						cườm bằng hổ phách lóng la lóng lánh quý giá vô ngàn. Tất cả đó trị giá là hai 
						triệu tám muôn lượng vàng. Ngài cho đi với cả tấm lòng hoan hỷ và mát rượi tỏa 
						ra trên khuôn mặt. Sáu người Bà-la-môn được Thái tử đổ nước lên tay rồi trao 
						cho Voi Thần, là con voi từ lâu đã làm đức Hộ Pháp cũng như là linh hồn của 
						quốc độ. Với tất cả sức lực của mình, sáu người 
						Bà-la-môn kéo cương, nài la hét, nhưng Voi Thần đứng yên không lay động, đưa 
						đôi mắt đỏ lệ nhìn Thái tử. Hiểu ý thần vật, đức Vê-xanh-ta đến bên voi, khẽ vỗ 
						vào tai và nói những lời dịu dàng: - Con mến! Nếu con thương yêu ta thì 
						hãy đi theo người. Con là một giống vật linh hiển thì ở gần ta hay ở xa ta nào 
						có nghĩa gì. Lấy đức mà cảm hóa mọi người, dùng thần oai mà nhiếp phục kẻ nào 
						tự cường tranh thắng muốn gây nạn binh đao máu lửa. Sứ mạng con ở đâu cũng 
						giống nhau. Xa con ta cũng buồn lắm nhưng lời đại nguyện để thành tự quả Vô 
						thượng bồ-đề lại tối thắng hơn. Bao giờ đạt được Đạo Giác Ngộ, ta sẽ cứu độ cho 
						con. Lạ lùng thay, Voi Thần nghe xong, phủ 
						phục xuống chân Thái tử, rồi chợt đứng lên cất một tiếng rống như sấm động, mặt 
						đất rung rinh, hư không vang động không ngớt. Sáu người Bà-la-môn sắc mặt như 
						chàm đổ, run run đứng không vững. Đức Vê-xanh-ta trấn an, phủ dụ họ rồi lại 
						trao voi. Voi Thần ngoan ngoãn theo chân sáu người Bà-la-môn bước ra cổng 
						thành, phút chốc, cuốn đi như giông như gió. Tin Thái tử bố thí Voi Thần lan đi rất 
						nhanh. Kinh thành xáo động, phố xá đóng cửa, chợ không đông, nơi nơi tập họp 
						nhau lại xì xầm bàn tán, người ca ngợi Thái tử, kẻ tiếc rẻ Voi Thần. Có kẻ dám 
						đánh cá với nhau: mất Voi Thần là mất quốc độ! Tuy thế, phần đông người ta sống 
						bằng trái tim chứ không phải sống bằng đầu óc. Quần chúng ủng hộ đức 
						Vê-xanh-ta. Có người dám đặt cá lại: Voi Thần, các voi chính thống, không bao 
						giờ phản chủ cũ. Phía dân chúng thì như thế, ở triều 
						đình thì vô cùng hỗn loạn. Cái thế an toàn, vững chãi, bức tường thành che chở 
						cho họ trong một đời sống vinh hoa xa xỉ - do Voi Thần đem lại - giờ không còn 
						nữa! Voi Thần mất là mất tất cả. Mấy chục ngàn quan đại thần đến chật 
						cả cung điện. Mười quan Thượng Thư đến quỳ dưới chân vua Thệ Sanh khóc rống 
						lên: - Sáu người Bà-la-môn là sứ thần bí 
						mật của nước Linh Ga, âm mưu xin Voi Thần để đánh cướp quốc độ. Đức hoàng 
						thượng ôi! Đại họa đến rồi! Vua Thệ Sanh bàng hoàng cả người, ngồi 
						chết sững trên ngai vàng. Triều đình ồn ào như vỡ chợ, sự phẫn 
						nộ của họ cuồn cuộn như sóng tràn. Những tiếng la, tiếng hét nổi lên. Tiếng 
						khóc tiếng than xoáy vào tai vua Thệ Sanh như những mũi dùi băng lạnh. Họ không dừng lại ở đó. - Hãy trảm đầu tên bán nước. - Pháp bất vị thân, xin hoàng thượng 
						thẳng tay nghiêm trị. - Hãy treo cổ Thái tử ngay! - Hãy lưu đày biệt xứ...! Đức vua ra lệnh đòi Thái tử vào. Nhìn 
						Thái tử với đôi mắt buồn bã, vua nói: - Việc gì thì hoàng nhi đã hiểu rồi. 
						Hoàng nhi đã không tiên lường hậu quả. Hãy nhìn vào sự phẫn nộ của mọi người. 
						Hãy nhìn vào gương mặt bất mãn của triều thần. Ta biết là ta không thể bênh vực 
						cho hoàng nhi được nữa. Hoàng nhi có tự biện hộ cho mình được không? Đức Vê-xanh-ta không hề bối rối: - Thưa Phụ vương! Nếu quả thật hoàng 
						nhi có tội thì hoàng nhi sẽ tự biện hộ. Nhưng ở đây hoàng nhi không có tội nên 
						chỉ xin trình bày đúng pháp và luật - nghĩa là đúng theo lẽ phải ở đời! Lời mở đầu của đức Vê-xanh-ta làm cho 
						mọi người không tin ở tai mình. Họ lại xôn xao. - Voi Thần là do Vương Tượng từ hư 
						không mang xuống biếu tặng cho hoàng nhi! Thưa vương phụ, vậy thì bố thí một 
						vật sở hữu của mình, lẽ phải xưa nay có ai bắt tội? Pháp và luật của quốc độ có 
						điều khoản nào quy định tội trạng những người cho đi vật sở hữu? Đức vua và triều đình kinh dị. Không 
						ai có thể ngờ chỉ với một câu hỏi, Thái tử trắng án ngay tức khắc. Một cái tội 
						to lớn dường ấy mà Thái tử đã làm cho mình trở thành vô tội! - Có thể có điều này - đức Vê-xanh-ta 
						tiếp - Voi Thần tuy là sở hữu cá nhân, nhưng nó đã trở thành quyền lợi của cả 
						nước! Thưa Phụ vương! Nếu bắt tội hoàng nhi đã không nghĩ đến quyền lợi chung 
						thì quả là hoàng nhi có tội! Nhưng than ôi, cái gọi là quyền lợi 
						chung ấy nó mới hàm hồ và vô nghĩa làm sao! Không có quyền lợi chung cho lê dân 
						và bá tánh mà chỉ có quyền lợi của giới chức trị vì, của trăm quan sống đời 
						vinh hoa và hưởng thụ. Từ muôn đời, đám đông bá tánh vẫn bị hy sinh bởi nhân 
						danh và nhãn hiệu! Đức Vê-xanh-ta lại buộc tội trở lại 
						đức vua và quần thần bằng sự thực không ai chối cãi. Minh thư có dạy: “Ma quỷ 
						không dám nhìn cái bóng của chính mình”. Cũng vậy, sự thật quá trần truồng và 
						gớm ghiếc có ai dám nhìn thẳng bao giờ? Sự thật có thể làm đau xót những trái 
						tim chân thực, nhưng lại là sự phẫn nộ của quỷ ma. Hơn ai hết, đức Vê-xanh-ta 
						biết rõ điều ấy, nên ngài cất giọng dịu dàng: - Nhưng mà thôi! Chân lý người ta 
						thường hiểu là tùy thuộc đám đông! Thưa vương phụ! Ở đây hoàng nhi chỉ có một 
						mình! Để vừa lòng triều thần, xin vương phụ hãy nghiêm trị hoàng nhi! Vua Thệ Sanh bối rối vô cùng. Một vị Thượng Thư dõng dạc nói: - Tâu bệ hạ! Những lời của Thái tử quả 
						là quá nặng nề. Nhưng dám thưa Thái tử một điều: nếu Voi Thần trở lại xâm lăng 
						quốc độ thì Thái tử nghĩ thế nào? Đức Vê-xanh-ta mỉm cười: - Nếu vậy thì ta đúng là một tên bán 
						nước! Nhưng xin lão thần hãy an tâm. Không bao giờ có chuyện đó xảy ra. Voi 
						Thần và ta là đôi bạn thân thiết. Không bao giờ Voi Thần làm cho ta phải bị sự 
						phỉ nhổ của trăm họ! Cuối cùng, vua Thệ Sanh phán: - Căn cứ của hoàng nhi không có vững 
						vàng, không được xây dựng trên thực tế. Thực tế là Voi Thần đã rơi vào tay xứ 
						Linh Ca, một lân bang cừu địch. Ta ngồi giữa quần thần và trên đầu trăm họ, vậy 
						thì ta phán truyền cho hoàng nhi án lưu đày biệt xứ mười hai năm, tại dãy núi 
						Gri-văng-ka thuộc Hy Mã Lạp Sơn. - Con sẽ phục mạng - Đức Vê-xanh-ta 
						nói - nhưng xin vương phụ cho hoãn thêm mấy ngày để con bố thí những gì còn 
						lại. Vua Thệ Sanh y lời. Đức Vê-xanh-ta vào nội cung gặp nàng 
						Ma-đà-ly: - Nàng hỡi! Thái tử nói - Ta mang tội 
						với quốc độ là đã cho Voi Thần đến một lân bang cừu địch. Triều đình phẫn nộ. 
						Cuối cùng, vương phụ đày ta lên núi Gri-văng-ka mười hai năm biệt xứ. Em yêu quý! Vậy thì châu báu hồi môn 
						và của cải mà phụ hoàng, mẫu hậu cùng ta đã biếu tặng, nàng hãy chi dùng vào 
						việc lợi tha. Hãy bố thí cúng dường đến các bậc tu hành đạo sĩ. Hãy nhường cơm 
						xẻ áo đến đám bần dân. Hãy sống đời trong sạch thiêng liêng với thiện pháp. Nàng Ma-đà-ly gục khóc trên vai chồng. Đức Vê-xanh-ta không dấu được xúc 
						động, nhưng trấn tĩnh tiếp rằng: - Sinh ly, tử biệt người đời chẳng ai 
						tránh được. Đừng đau thương thái quá mà hại đến sức khỏe, ảnh hưởng đến hai 
						con. Ta không bắt nàng phải giữ tiết nghĩa, hy sinh cuộc đời son trẻ cho sự đợi 
						chờ vô vọng. Nếu có vị vua nào vừa ý, nàng có quyền được tái giá để sống đời 
						hạnh phúc lứa đôi. Vương phụ, mẫu hậu, nàng khỏi lo đến việc phụng dưỡng. Hai 
						con là cành vàng lá ngọc, nàng lại chẳng cần lo nghĩ đến chuyện cơm áo và tương 
						lai. Còn ta thì có cả đại nguyện trong lòng thì sá gì cam go trở ngại. Thôi! 
						Mấy lời tâm huyết đã bộc bạch cùng nàng, nguồn cơn đã tỏ, sau trước đã tường, 
						ta xin vĩnh biệt! Nàng Ma-đà-ly chợt ngồi thẳng dậy dùng 
						khăn lau ráo lệ, giọng nói trấn tỉnh phi thường: - Thiếp nghe rằng: Gái thì phải có tam 
						tòng và trai thì phải có tứ đức! Từ khi thiếp về gá nghĩa se duyên cùng chàng; 
						chẳng hay thiếp đã có lỗi lầm nào đến nỗi chàng phải đem tâm khi rẻ? Đức Vê-xanh-ta ngạc nhiên, cầm tay 
						nàng, hối hả nói: - Ta đâu dám thế! Nàng quả không có 
						lỗi lầm. Nàng Ma-đà-ly cất giọng giận dỗi: - Thiếp không lỗi lầm! Thế sao Thái tử 
						lại dám coi thường tiết hạnh trung trinh của người đàn bà mà khuyên thiếp nên 
						tái giá với một bậc vương tôn công hầu nào khác? Lại nữa, nếu thiếp không lỗi 
						lầm thì sao Thái tử đành đoạn cắt đứt tình nghĩa mà nói nên lời vĩnh biệt nọ 
						kia? Thiếp có thể nằm trên loan sàng gấm nệm, vào ra gác ngọc lầu vàng; trong 
						lúc Thái tử dãi nắng dầm sương, đi chân đất, mặc áo vải, lót dạ qua ngày trái 
						chua, củ đắng giữa chốn rừng thiêng nước độc ư? Nói xong, nàng Ma-đà-ly quay lưng lại, 
						khóc tấm tức. - Xin lỗi nàng - đức Vê-xanh-ta xuýt 
						xoa nói - Ta đâu dám coi thường nàng. Quả thật ta sợ nàng chân yếu tay mềm, 
						không kham nổi cuộc đời khổ ải. Nàng Ma-đà-ly ngước đôi mắt còn mọng 
						nước: - Nếu thiếp không ngại? - Thì hãy đi - Đức Vê-xanh-ta mạnh mẽ 
						nói - cùng ta chia ngọt xẻ bùi hoặc uống cạn chén đời tân khổ. Nhưng nàng hỡi! 
						Ta còn một điều ngần ngại! Khuôn mặt ngọc đã lóe niềm vui: - Thái tử cứ nói! Trầm ngâm giây lát, đức Vê-xanh-ta 
						nhìn lên ngọn núi Hy Mã ẩn hiện sau làn mây trắng tận cuối trời: - Ở hay đi, trước sau đại nguyện của 
						ta vẫn kiên định, vững vàng như đỉnh núi kia. Ta sẽ cho đi tất cả, dẫu cả cuộc 
						đời. Nếu muốn đi theo, nàng hãy hứa với ta một điều. - Thái tử cứ nói! - Xin nàng đừng ngăn trở bất cứ sở 
						nguyện nào của ta! Nàng Ma-đà-ly cất giọng ôn nhu mà 
						rằng: - Dĩ nhiên! Có bao giờ mà thiếp không 
						theo lệnh chàng? Ngay cả cuộc đời, tánh mạng của thiếp, chàng hãy tùy nghi sử 
						dụng, thiếp quyết không cau mày! Đức Vê-xanh-ta được lời như mở tấm 
						lòng. Sau đó, ngài bố cáo khắp nơi về ba 
						ngày chẩn bần cuối cùng. Hai trẻ Ra-ly và Kanh-ha cũng đem của cải tư trang ra 
						hùn góp. Nàng Ma-đà-ly xin vua cha thêm hay ngày nữa về phần của cải của nàng. 
						Tất cả năm ngày chẩn bần này trị giá có đến tám muôn triệu đồng tiền vàng, còn 
						to hơn ngân khố của một tiểu quốc. Đức Vê-xanh-ta, vợ và hai con thảy đều 
						hoan hỷ khi thấy niềm vui rạng rỡ trên khuôn mặt của đám người bất hạnh. Thời 
						gian bố thí đã qua. Đến ngày lên đường, vua Thệ Sanh ban cho Thái tử sáu muôn 
						thuộc hạ, hai mươi xe lương thực cùng của cải, tư trang và tư dụng. Chiếc long 
						xa bốn ngựa đưa gia đình Thái tử ra khỏi cổng thành. Đức vua Thệ Sanh và hoàng 
						hậu Trầm Hương đỏ lệ trông theo nghẹn ngào. Hai vạn cung nga thể nữ lấy khăn 
						vẫy, ôm nhau khóc như ri. Các quan đại thần, muôn dân bá tánh đưa đi chật 
						đường, kéo dài đến hai do tuần. Chư thiên từ hư không nhìn xuống, rải hoa đưa 
						tiễn bùi ngùi. Ngày thứ hai, đức Vê-xanh-ta cho sáu 
						muôn tùy tùng trở về. Ngày thứ ba, người ta lại xin của bố thí. Đức Vê-xanh-ta 
						cho tư dụng và lương thực, sau đó ngài lại cho luôn bốn ngựa. Bây giờ hai trẻ 
						ngồi trên xe, đức Vê-xanh-ta kéo thay ngựa, nàng Ma-đà-ly đẩy, cùng nhau vượt 
						núi băng đèo. Người ta lại đến xin, ngài cho xe. Thế là chồng bồng trai, vợ ẵm 
						gái tiếp tục con đường vạn dặm... Hôm kia, họ dừng lại giữa một khu rừng 
						già hoang vu, hổ gầm, vượn hú nghe thật ghê rợn. Nhìn lên thì núi cao chớn chở, 
						nhìn xuống thì vực thẳm mịt mùng. Đêm xuống lạnh, lương thực mang theo đã bố 
						thí hết. Nàng Ma-đà-ly nhìn hai con, tuy không dám thở than nhưng ruột đau đòi 
						đoạn. Đức Vê-xanh-ta đi kiếm trái cây trở về cùng ăn lót dạ qua đêm. Lần đầu 
						tiên ăn trái lạ, vì đói, vì rét, hai trẻ ngộ độc, nôn mửa và lên cơn sốt. Nàng 
						Ma-đà-ly chỉ biết vỗ về, hà hởi. Nhìn sự quằn quại của hai con, đức Vê-xanh-ta 
						chắp tay lại, nhìn giữa thinh không, thốt rằng: - Hỡi chư thiên hộ trì thiện pháp của 
						châu Diêm Phù Đề! Nếu đây là sự thử thách của pháp, của các ngài; thì dẫu hàng 
						trăm ngàn vợ con thân quyến có bị sinh ly hay tử biệt; dẫu cho hàng ngàn hố lửa 
						lớn, rắn rít và độc xà làm hại - Vê-xanh-ta này cũng không thể thoái lui con 
						đường, dù chỉ là nửa bước! Lời nguyền vô thượng, một lần nữa, lại 
						làm cho địa cầu chấn động. Chúa trời Đế Thích cảm thấy nóng nảy trên thiên 
						ngai. Các vị thần lập tức hiện xuống tìm cách làm cho hai đứa trẻ dứt bệnh và 
						lành mạnh trở lại. Họ tiếp tục lên đường vào sáng hôm 
						sau. Đến một thị trấn gần biên giới, người ta nghe tin, lại đến xin ngài bố 
						thí. Nàng Ma-đà-ly nói: - Chúng tôi không còn gì! Đức Vê-xanh-ta khẽ vỗ vai nàng nói: - Chúng ta còn rất nhiều, em ạ. Có lẽ 
						em quên đấy thôi. Nói xong, đức Vê-xanh-ta cởi bọc áo 
						quần của mình trao cho người nghèo khổ. Người ta lại đến xin nữa. Nàng Ma-đà-ly 
						noi gương chồng, tặng bọc áo quần. Người ta lại đến xin nữa. Hai trẻ bắt 
						chước cha mẹ chúng, lấy áo quần của mình cho hết. Đến tháng thứ nhất, sau khi rời thành, 
						mỗi người chỉ còn một bộ áo quần trên người, ngoài ra không còn gì nữa. Dãi 
						nắng dầm sương, trải qua ba mươi lăm do tuần, hôm kia, họ đến biên địa một nước 
						lân bang. Đức vua chư hầu nghe tin, tức tốc cùng đoàn tùy tùng năm trăm người 
						bươn bả tới nơi. Dân chúng ở đây vật vả khóc than khi thấy tình cảnh thê thảm 
						của gia đình Thái tử. Gặp đức Vê-xanh-ta, vua chư hầu xuống ngựa, dập đầu xin 
						Thái tử về thành nghỉ ngơi, luôn thể xin nhường lại ngôi báu cho bậc đại hiền. 
						Đức Vê-xanh-ta khiêm cung từ chối. Chẳng biết sao hơn, đức vua biếu tặng tư 
						dụng, y phục và lương thực. Đức Vê-xanh-ta cùng vợ con, dùng vật thực đủ no 
						lòng rồi lại lên đường. Vua chư hầu thở than không ngớt, sau đó đích thân xuống 
						ngựa, tiễn gia đình Thái tử đến chân Hy Mã Lạp Sơn. Dãy núi đầu tiên của Hy Mã Lạp là dãy 
						núi Càng-đà-ma-đằng. Đến đây, đức vua ân cần gởi gắm gia đình Thái tử cho một 
						người thợ săn uy tín - là thủ lãnh mấy trăm thợ săn chốn non thiêng - rồi ngậm 
						ngùi từ giã. Xế trưa, Thái tử dừng nghỉ dưới gốc đa to, tàn phủ mấy chục 
						trượng, có những trái chín và ngọt như mật ong. Độ những trái cây ngon ngọt hy 
						hữu, từ giã Càng-đà-ma-đằng đi đến chóp núi Na-lợi-ka; đức Vê-xanh-ta và gia 
						đình dừng nghỉ nơi một chiếc hồ con xinh đẹp phô thắm tía hồng rực rỡ. Mùi 
						hương sen thoang thoảng dịu dàng. Một đạo sĩ chống gậy sau khóm cây rừng bước 
						ra, không chào hỏi, nhìn Thái tử một hồi lâu. - Bậc hoàng gia quý tộc lại muốn vào 
						non xanh này làm đạo sĩ sao? Đạo sĩ hỏi. Đức Vê-xanh-ta đứng dậy thành kính đáp 
						lễ rồi nói: - Thật chưa dám như thế, thưa tiên 
						nhơn, dẫu là lòng mong muốn lắm. Tôi chỉ là kẻ có tội với quốc độ nên đến 
						Gri-văng-ka sống kiếp lưu đày! Đạo sĩ “a” lên một tiếng, rồi quẳng 
						gậy chạy lại: - Vậy ngài chính là đức Vê-xanh-ta, 
						Thái tử con vua Thệ Sanh nước Kế-tư-đà? - Cái danh của thế tục kia làm dơ tai 
						bậc ẩn sĩ thanh tịnh - Thái tử nói - Còn chẳng hay đạo sĩ pháp hiệu là gì, cho 
						kẻ áo trắng chúng tôi được bái phỏng? - Là Ngu ẩn sĩ - Đạo sĩ đáp một cách 
						mau mắn. Có kẻ lại gọi là Chơn Nhơn đạo sĩ Na-lợi-ka. Ôi! Nhưng mà tên gọi mà 
						làm gì, hư danh mà làm gì! Chính tấm lòng của Thái tử mới làm cho Ngu sơn nhân 
						này bái phục! Họ hàn huyên giây lát. Đạo sĩ 
						Na-lợi-ka lấy cây trái đãi đằng rồi sau đó ân cần chỉ lối cho Thái tử đi đến 
						khu rừng thiêng Gri-văng-ka, chúc ngài một đời sống tịnh tu an lạc. Sau khi đạp qua những cánh rừng hẻo 
						lánh, thâm u, đến chiều tối, họ mới đến được nơi chỉ định. Đây là khu rừng già 
						hiu quạnh, nằm giữa lưng chừng mây. Chim kêu, vượn hú tịch mịch lạ. Ánh nắng 
						mặt trời nhợt nhạt xuyên qua một khoảng đất trống; Thái tử ngạc nhiên xiết bao, 
						ở đây có một hồ sen thiên nhiên kỳ diệu, nước trong xanh biêng biếc, năm sáu 
						màu sen phô sắc và phơi hương. Và ô kìa! Có hai chiếc tịnh thất không xa nhau 
						lắm, dựa lưng một gốc cây cổ thụ với tán lá xanh rì trông thật duyên dáng và 
						ngoạn mục. Đức Vê-xanh-ta, vợ và hai con lần đến 
						nơi. Một tấm biển có đề chữ đập vào mắt mọi người: “Nơi tịnh tu, xin dâng cúng 
						đến hàng xuất gia đạo sĩ tùy nghi sử dụng”. Biết có thần nhân giúp đỡ, Thái tử 
						phát sanh hỷ lạc, gọi vợ và con đến dạy rằng: - Đây là chốn thiêng liêng. Ngoài các 
						vị thiên thần lại có cả các loài phi nhân lẫn ác thú ngụ cư. Từ rày ta phải tu 
						hành cho tinh tấn, ghép mình vào phạm hạnh, trú trong vô lượng tâm. Nếu bê trễ, 
						dễ duôi, thiên thần sẽ không hộ trì ta nữa mà còn bị ác thú, độc trùng, phi 
						nhơn làm hại. Phu nhơn và hai con hãy khá ghi lòng. Đức Vê-xanh-ta lại tiếp: - Phàm phép tu tịnh hạnh thì trước 
						tiên là phải sống đời tịnh hạnh. Ta với nàng ân nghĩa mặn nồng, lại thêm hai 
						con là sợi dây ràng buộc luyến ái - nhưng nay thì ta hẳn tránh xa. Nàng và các 
						con ở một tịnh thất. Ta ở riêng một tịnh thất. Và chắc chắn thiên thần cũng 
						muốn như vậy mới tạo hai tịnh thất ở hai nơi. Đời sống gần gũi thì tránh sao 
						khỏi những giây phút yếu lòng, chỉ làm cho thiên thần khinh khi ghét bỏ. Vậy 
						thì, nàng đừng bao giờ gặp ta trong lúc ban đêm. Nếu là ban ngày thì cũng phải 
						có hai trẻ. Đã sống đời xuất gia đạo sĩ thì ta phải sống xứng đáng là đạo sĩ 
						xuất gia. Điều này, phu nhân hãy khá ghi lòng. Nàng Ma-đà-ly hoan hỷ thọ trì lời giáo 
						huấn của đức Vê-xanh-ta, sau đó lại bạch rằng: - Thái tử chỉ cho thiếp xin một đặc 
						ân, là Thái tử khỏi nhọc công vào non hái trái. Thái tử cho phép thiếp chu toàn 
						mọi bổn phận về cái ăn cái uống cho Thái tử và hai con. Đấy là niềm vui của 
						người đàn bà. Ngoài ra, cây trái, nếu có dư thừa, Thái tử tùy nghi bố thí. Được 
						hầu hạ Thái tử là một hạnh phúc lớn cho thiếp vậy. Với cảm giác khinh khoái nhẹ nhàng, 
						tinh thần phơi phới, đức Vê-xanh-ta và nàng Ma-đà-ly cùng cắt tóc sống đời đạo 
						sĩ. Từ đây, mỗi buổi sáng, nữ đạo sĩ Ma-đà-ly thức dậy sớm, mặc y, quét dọn 
						sạch sẽ trong ngoài tịnh thất; sắp đặt đâu đó thứ tự rồi xuống hồ sen múc nước 
						đổ đầy các chỗ chứa. Nàng chỉ qua tịnh thất của đức Vê-xanh-ta khi thấy cửa đã 
						mở. Nàng múc nước cho ngài rửa mặt, tay và chân. Quét dọn tịnh thất kỹ càng 
						trong ngoài, sau trước; dạy hai con luẩn quẩn chơi ở gần đức Vê-xanh-ta để 
						chàng tùy nghi dạy bảo. Trời vừa hừng đông là nữ đạo sĩ đã 
						xách giỏ vào rừng kiếm trái cây ngon ngọt dùng được. Bao giờ nàng cũng cố gắng 
						về sớm để kịp giờ độ ngọ. Nếu về sớm hơn lệ thường, nàng dẫn hai con xuống tắm 
						ở hồ sen. Đến trưa, nàng soạn phần trái cây ngon và đẹp nhất cho đức 
						Vê-xanh-ta, còn nàng và hai con dùng phần còn lại. Độ ngọ xong, nàng dâng tăm 
						xỉa răng và nước; thu dọn tươm tất mọi nơi mọi chỗ, nói lời phúc chúc đến đạo 
						sĩ rồi nàng dẫn hai con về tịnh thất của mình. Cuộc sống đều đặn trôi qua như thế. 
						Được sự hộ độ chu đáo của nữ đạo sĩ, đức Vê-xanh-ta tu hành tinh tấn. Chỉ một 
						thời gian ngắn là ngài đã có thể trú định một cách vững vàng; tứ vô lượng tâm 
						được làm cho hưng thịnh, viên mãn. Các loài thú dữ trong khuôn vi ba do tuần 
						nhờ tâm từ bi mát mẻ của ngài mà trở nên hiền lành. Rắn rít, độc trùng cùng phi 
						nhơn cũng tránh xa. Nam và nữ đạo sĩ sống đời an tịnh tự 
						tại như vậy trong một thời gian dài không có cáu bợn phiền não nào khởi lên. 
						Trong khi đó, hai trẻ Ra-ly và Kanh-ha đã chập chững đi chơi với nai, khỉ và 
						vượn. Có một chú sư tử con lẫn lộn giữa đám thú vật hiền lành này. Lại có một 
						chú ngựa rừng nhỏ bé nhưng mạnh khỏe hay cõng hai trẻ rong chơi ven suối, bờ 
						hồ. Các chú chim dễ thương, nhảy nhót ca vui đậu trên vai hai trẻ. Mấy chú thỏ, 
						sóc thường rình trong những bụi sim chơi trò cút bắn. Khi trẻ hoặc vật bị xây 
						xát chút đỉnh vì nô giỡn, cả bọn xúm lại hò hét chí chóe rồi tìm cách hái lá 
						đắp vết thương cho nhau! Nữ đạo sĩ mỉm cười, thấy cõi lòng vui 
						lên rộn rã. Xứ kia có người Bà-la-môn già, sống 
						đời ăn xin rày đây mai đó. Suốt bao nhiêu năm trường, lão dành dụm được một 
						trăm đồng tiền vàng. Sợ để trong mình tiêu mất, lão tìm bạn tin cậy gởi số tiền 
						này rồi đi xin ăn phương xa. Hai vợ chồng người bạn thấy lão vắng bóng lâu ngày 
						tưởng là chết mất rồi, liền lấy tiền kia ra tiêu. Khi lão Bà-la-môn trở về thì 
						tiền đã hết sạch. Chẳng biết làm sao, họ xin gả người con gái tên là A Mị cho 
						lão. Về làm vợ người, A Mị vẫn tỏ ra hết 
						lòng siêng năng tháo vác trong mọi công việc; không cảm thấy xấu hổ về việc lấy 
						chồng già mà chỉ thầm thương mình số kiếp không may. Một số thanh niên thấy A 
						Mị có nhan sắc nên đã nhiều khi trêu ghẹo, nhưng nàng thường lãnh đạm hoặc cúi 
						đầu trước lời ong bướm nọ kia. Thời gian lâu, những khi đi xách nước, kiếm củi 
						là mối bận tâm cho nàng vì những chàng trai kia đã hát hò đối đáp những câu sàm 
						sỡ. “- Cô kia mà lấy chồng già Đêm hôm ấm lạnh xương da có gì?” Cậu kia đáp lại: “- Thưa rằng, dẫu có được gì, Xương da ấm lạnh lắm khi cũng buồn!” Cho đến hôm kia thì A Mị không còn 
						chịu được nữa. Đợi khi lão Bà-la-môn về, nàng khóc tức tưởi: - Mấy năm nay tôi bị chúng nó chọc 
						ghẹo, bây giờ thì đến lúc quá rồi, thiếu đường cắt mặt mà thôi. Ông phải kiếm 
						người đỡ đần thay tôi xách nước kiếm củi, nếu không tôi không thể ở với ông 
						được nữa.
					 Lão Bà-la-môn khuyên lơn, an ủi rồi 
						hứa sẽ kiếm trẻ giúp việc cho nàng. Lão tính thầm trong bụng: “- Mình nghèo mạt rệp, sống đời tơi bị 
						thì lấy tiền đâu mà thuê trẻ, thuê người giúp việc. Và nếu có làm được việc ấy 
						thì thiên hạ cũng cười cho thúi ruột, sẽ nói nghèo mà học làm sang. Sự bố thí 
						bất nghịch ý của đức Vê-xanh-ta con vua Thệ Sanh kia còn ai là không biết. Nghe 
						đâu, sau khi cho voi báu, ngài bị đức vua cùng triều đình đày lên núi 
						Gri-văng-ca cùng vợ và hai con. Ta sẽ lặn lội đến nơi xin hai trẻ kẻo người 
						khác xin mất cũng uổng.” Lão lại gật gù: “- Tuy ta xin hai đấng hoàng tôn về 
						làm tôi đòi, nhưng lại giúp cho đức Vê-xanh-ta quý mến mau đạt sở nguyện. Như 
						vậy, kể ra ta vẫn làm người thi ân, là kẻ có lòng nhân hậu!” Lão Bà-la-môn lẩm nhẩm đầy đạo lý như 
						vậy xong, nhờ nàng A Mị kiếm cho một đùm bánh nguội; sau đó, nhắm hướng Hy Mã 
						Lạp Sơn, núi Gri-văng-ca trực chỉ. Ngày đi đêm nghỉ, lặn suối trèo non ròng rã 
						mấy tháng dài, lão Bà-la-môn đến chân núi Càng-đà-ma-đằng. Một cây đa to với 
						những chùm trái chín ngọt như mật ong, lão Bà-la-môn ăn uống, nghỉ ngơi ở đó 
						cho lại sức. Kế khu rừng, cạnh hồ sen nhỏ là chòi lá của người thủ lãnh thợ 
						săn, kẻ được đức vua chư hầu ân sủng gởi gắm Thái tử. Lão Bà-la-môn lần bước 
						tới định hỏi đường. Gã thủ lãnh thợ săn thân to như hộ 
						pháp, thấy lão Bà-la-môn với tơi bị rách rưới, y đanh mặt lại: - Lão già kia! Tới chốn rừng xanh này 
						mà làm gì? Ngươi ỷ cái thân còm hổ báo chê thịt rồi muốn đi đâu thì đi sao? Cút 
						ngay! - Cho tôi hỏi chỗ ở của đức 
						Vê-xanh-ta... Lão Bà-la-môn chưa nói dứt câu, gã thợ 
						săn bước tới, túm cổ lão và quăng ra ngoài gốc cây như bó giẻ. Chưa thôi, đợi 
						cho lão Bà-la-môn lồm cồm ngồi dậy; gã thủ lãnh thợ săn đá văng tuốt xuống hồ. 
						Đợi cho lão Bà-la-môn uống đầy một bụng nước; gã thợ săn sải xuống như con 
						nhái, kéo lên túm chân xách ngược cho nước trào ra rồi lấy dây thừng cột chặt 
						lão vào gốc cây. Y bẻ một khúc củi to làm gậy. Lão Bà-la-môn vừa lai tỉnh mở mắt ra, 
						gã thợ săn đã chỉ vào mặt, quát như sấm nổ: - Chính thị bọn bây! Bọn Bà-la-môn ăn 
						xin độc ác dơ dáy! Chính tại bọn bây, bọn Bà-la-môn tơi bị khốn nạn – mà đức 
						Vê-xanh-ta phải bị đày lên núi cao rừng thẳm. Lòng rắn rít và tâm tham lam vô 
						tận, vô độ của chúng bay chưa đủ hay sao mà còn lê lết đến chốn này tìm đức 
						Vê-xanh-ta? Ngài còn gì nữa mà bố thí? Hả? Gã thợ săn nói xong là đánh. Tay đánh 
						miệng chửi om sòm lên. Lão Bà-la-môn đau đớn quằn quại rên la, không mở miệng 
						phân trần được. Tội nghiệp cho lão bị một trận đòn thừa sống thiếu chết! Đợi cho đến khi lão Bà-la-môn ngất 
						xỉu, bất tỉnh, gã thợ săn mới quẳng gậy, nghiến răng lẩm bẩm: - Cho đáng đời cái bọn ăn hại! Cái bọn 
						bay lợi dụng lòng tốt của người mà thỏa mãn cái hố tham không đáy. Ông sẽ bảo 
						vệ đức Vê-xanh-ta, thằng ăn xin nào vác mạng đến đây, ông “đần” cho nhừ xương, 
						ông đập cho toác sọ dừa ra! Hồi sau, lão Bà-la-môn chống tay dậy. - Tôi... tôi là người của đức vua Thệ 
						Sanh – lão Bà-la-môn phều phào nói – đức vua hối hận nên phái tôi đến đây thỉnh 
						đức Vê-xanh-ta về kế vị ngôi vương...! Ông đánh nhầm người rồi! Dẫu tiếng được tiếng mất nhưng gã thợ 
						săn đã nghe rõ ý. Y cả kinh, vọt nhanh lại như con chồn, hối hả cởi trói cho 
						người Bà-la-môn, miệng xin lỗi rối rít. Lát sau, các vết thâm tím đã được gã 
						thợ săn hái thuốc đắp vào. Niềm nỡ dọn một bữa cơm với mật ong và thịt rừng, gã 
						thợ săn tỏ vẻ ăn năn đến thương hại: - Tội tôi đáng chết! Tội tôi đáng 
						chết! Xin lão trượng nhân hậu tha thứ cho! Lão Bà-la-môn gượng cười nói: - Ông làm như vậy là đúng, chẳng thể 
						trách được. Cái bọn ăn xin Bà-la-môn ấy là nguyên nhân cho Thái tử nhân đức của 
						chúng ta phải bị lưu đày cùng với thê tử. Chỉ đáng tiếc một điều là ông đã 
						quên, đã quên không hỏi rõ nguồn cơn. - Dạ, phải rồi! Tội tôi đáng chết – Gã 
						thợ săn lại xuýt xoa – Xin lão trượng bỏ qua cho. Đêm ấy, lão Bà-la-môn được ngủ trên 
						chiếc giường độc nhất của gã thợ săn với những tấm mền bông và da thú ấm áp. Gã 
						thợ săn treo võng nằm trên cây canh chừng thú dữ. Sáng ngày, gã thợ săn đãi lão 
						Bà-la-môn một bụng no nê với thịt nai nướng, gói thêm một đùm nữa, rồi ân cần 
						chỉ lối cho lão Bà-la-môn lên đường. Qua những cánh rừng, bờ vực cheo leo, hiểm 
						trở; vượt lên một đỉnh núi khác, ở đây lại gặp đạo sĩ Na-lợi-ka. Kinh nghiệm 
						trận đòn hôm qua, lão Bà-la-môn khôn khéo giới thiệu mình là người của vua Thệ 
						Sanh, lên thỉnh đức Vê-xanh-ta hồi trào. Chẳng ngờ, khi nghe xong, đạo sĩ 
						Na-lợi-ka cau mày: - Hồi trào mà làm gì? Đừng có phá rối 
						đời sống tịnh tu phạm hạnh của nam nữ đạo sĩ. Lão Bà-la-môn thót mình, ngạc nhiên 
						hỏi: - Thỉnh ngài hồi trào để kế vị ngôi 
						vương, làm bậc chí tôn cao cả, điện ngọc lầu vàng, sung sướng và oai sang hết 
						mực, thưa ngài? Đạo sĩ Na-lợi-ka “hừ” một tiếng: - Đó là cái đống bùn! Lão ngốc kia! Có 
						hạnh phúc nào bằng hạnh phúc trầm tư thiền định? Lão biết gì mà xuôi ngược với 
						ta? Cút đi! Để cho đức Vê-xanh-ta thành tựu viên mãn thiền Sắc giới. Hãy đem 
						cái ô trược ở nơi ngươi xuống dưới cuộc đời hôi hám kia thôi! Nói xong đạo sĩ Na-lợi-ka nhắm mắt 
						lại. Lão Bà-la-môn chẳng biết tính sao, đưa mắt nhìn khu rừng thâm u trước mặt, 
						vượn hú, cọp gầm; xa xa khí đá bốc lên như những đám sương mờ, lúc dày, lúc 
						loãng – thật chẳng biết lối nào mà đến núi Càng-đà-ma-đằng! Lão chợt nghĩ ra một mẹo: - Đạo sĩ quý trọng ơi! Nếu tôi gặp đức 
						Vê-xanh-ta để hỏi đạo thì được chứ?
					 - Dối trá – Đạo sĩ Na-lợi-ka gắt – Ta 
						biết rõ tâm địa của ngươi như trong tay đang nắm một quả xoài. Kìa! Có tâm niệm 
						nào ở nơi ngươi mà ta không biết, lại hòng lấy vải thưa che mắt thánh? Cút đi! Lão Bà-la-môn sợ hãi. Lão thở dài. Trong lúc bất ngờ và thất vọng nhất, 
						đạo sĩ Na-lợi-ka lại nói: - Thôi được rồi, ta sẽ chỉ cho ngươi! 
						Ôi! Ý người là khác mà nhân-duyên-quả thì lại khác. Cái thành tựu sau này của 
						đức Vê-xanh-ta còn to lớn hơn, tối thắng hơn cả những thiền định mà ta nghĩ. 
						Nhưng này lão Bà-la-môn, ta còn biết rõ cái chuyện hồi trào cũng là dối trá đấy 
						nhé! Lão Bà-la-môn xấu hổ cúi mặt. Đạo sĩ 
						Na-lợi-ka cho lão ăn uống và dọn chỗ ngủ tươm tất. Khi tiễn lão Bà-la-môn lên 
						đường, sáng hôm sau, đạo sĩ Na-lợi-ka lại kể cho lão nghe tình trạng sống hiện 
						giờ của hai nam nữ đạo sĩ và con. Lại còn nói: - Ngươi đến đây để xin hai trẻ, chuyện 
						đó ta không cản làm gì. Nhưng tâm địa ngươi không tốt thì đời này ngươi sẽ gặt 
						quả không tốt. Ta nói trước cho mà biết. Lão Bà-la-môn cần biết gì chuyện đó, 
						thấy được chỉ đường chu đáo, lão đã hối hả từ giã cảm ơn rối rít rồi đi ngay. Lại thêm trọn ngày đường nữa lên thác 
						xuống ghềnh, lão Bà-la-môn đến được núi Gri-văng-ca là đã đuối sức. Tuy thế, 
						khi nhìn được hai chiếc tịnh thất xinh xắn nằm gần hồ sen tươi mát lão thở phào 
						nhẹ nhõm. Lão ẩn mình trong một góc kín đáo, tự 
						nghĩ: “- Giờ đây thì nàng Ma-đà-ly về rồi. 
						Lệ thường nữ nhân khó dứt bỏ con cái như là núm ruột của họ. Có mặt nàng là trở 
						ngại lớn cho ta. Hãy ráng đợi đến sáng mai, nàng vào non hái trái, chỉ còn đức 
						Vê-xanh-ta và hai trẻ, ta sẽ đến.” Cũng trong đêm ấy, nàng Ma-đà-ly không 
						ngủ được. Điều này chưa từng xảy ra. Nàng chợt bâng khuâng và lo lắng không 
						biết tự đâu. Linh tính báo cho nàng hay một việc chẳng lành đến cho chồng và 
						con. Đêm về khuya quá mệt mỏi, nàng thiếp đi, lại rơi vào giấc mộng kinh hoàng. 
						Nàng bị một người hình kỳ dị dạng, với lưỡi đao bén nhọn đến cắt lấy trái tim 
						nàng và mang đi. Tỉnh dậy, mồ hôi dầm dề, tim nhảy thình thịch, cơ thể dường 
						như không còn chút hơi sức. Xiết bao kinh hãi, nàng tự nghĩ: “- Chẳng biết điềm lành dữ thế nào. Ở 
						đây, chẳng còn ai khác! Hay là ta đến nhờ Thái tử đoán mộng xem sao?” Tứ bề quạnh quẽ, nàng mạnh dạn đến gõ 
						cửa. - Ai đấy? Thái tử hỏi. - Thiếp đây! Nàng đáp. Giọng đức Vê-xanh-ta vọng ra: - Giờ là lúc không phải thời. Nàng hãy 
						về đi! Nàng Ma-đà-ly khẩn khoản: - Đúng vậy! Bây giờ là không phải 
						thời, thiếp biết rõ chứ. Nhưng mà Thái tử ôi! Thiếp vừa trải qua một cơn mộng 
						kinh hoàng, nên lo sợ quá. Giọng đức Vê-xanh-ta: - Vậy thì nàng đừng vào, đứng đấy rồi 
						kể đầu đuôi tự sự cho ta nghe. Nàng Ma-đà-ly kể lại. Thái tử chợt biết rằng: ngày mai sẽ có 
						người đến xin hai trẻ, và điều này sẽ là niềm đau đớn cho nàng xiết bao! Đức Vê-xanh-ta kiếm lời an ủi: - Đã mộng mị thì hơi đâu mà nàng tin 
						vào những điều mộng mị? Trước đây, phu nhơn vốn quen đời cao lương mỹ vị, nhung 
						lụa ấm êm; nay vì theo ta mà cam chịu dầm mưa dãi nắng, ăn chẳng đủ no, mặc 
						chẳng đủ ấm. Sự thể như thế nên sinh ra tứ đại bất hòa, thân chẳng an thì tâm 
						lay động, phát sanh mộng mị hão huyền. Có gì đáng để lo sợ hở phu nhơn? Hãy về 
						mà an giấc đi thôi. Nàng Ma-đà-ly yên trí trở về tịnh 
						thất. Tuy thế, trong giấc ngủ chập chờn, nàng vẫn phập phồng lo lắng không 
						khuây. Trời rạng sáng, khi muôn chim đang líu lo trên cành; nàng đã xong mọi 
						công việc thường lệ, rửa mặt cho hai con, nàng âu yếm dạy rằng: - Các con đừng đi chơi đâu xa nhé! 
						Đừng hoang nghịch chạy nhảy mà vấp bụi té bờ. Hãy ngoan ngoãn nghe lời mẹ. Nói xong, một tay ẵm Kanh-ha, một tay 
						dắt Ra-ly, nàng đến am thất của Thái tử, nói những lời gởi gắm xót xa: - Khi thiếp đi rồi, xin chàng ghé mắt 
						để ý đến hai con. Chúng nó còn nhỏ dại, đâu có để ý đến cái gai dưới chân, cành 
						cây gãy trên đầu? Lại nữa, hai trẻ hay đi chơi với muông thú; mà muông thú thì 
						biết lúc nào nó trở tính bất ngờ? Thái tử ơi! Chúng nó là người bạn yêu mến, là 
						nguồn an ủi ấm lạnh ngọt bùi hiện nay của thiếp. Xin Thái tử hãy từ bi thương 
						xót chúng, chớ quên! Đi được một lúc, nàng Ma-đà-ly quày 
						quả trở về, ôm hai trẻ, bồng bế hôn hít như chẳng thể rời chân, như linh tính 
						phút giờ cách trở sinh ly. - Ôi! Con ôi! Ước gì thân mẹ xẻ làm 
						hai được? Một nửa lên non hái trái, một nửa ở lại với hai con! Ôi! Thương hại 
						hai con tôi! Dẫu không cút côi mà cũng vắng cha thiếu mẹ. Thân danh là hoàng 
						tộc, là lá ngọc cành vàng mà phải chịu đọa đày giữa núi sâu rừng thẳm? Ai kia 
						lên ngựa xuống xe mà con tôi thì phải ăn chay nằm đất; bệnh không thuốc thang, 
						ăn không đầy dạ, lạnh lùng tuyết giá chẳng áo kép, chăn đơn? Ôi! Tội nghiệp hai 
						con tôi. Đức Vê-xanh-ta thấy và nghe mọi 
						chuyện, tự nghĩ: Ôi! Tình thương của nàng thật bao la như biển lớn, còn ta chỉ 
						là con suối nhỏ. Nhưng ở đâu có tình thương buộc ràng, ở đó có hệ lụy và đau 
						khổ. Tình thương buộc ràng, bi lụy kia như trận mưa lớn, có thể làm tiêu hoại 
						những pháp cao thượng, làm cho hư hủy những hạt giống thiện pháp đang sinh mầm! 
						Vì tình thương bi lụy kia mà nữ đạo sĩ Ma-đà-ly kia dường như thối thất với con 
						đường, với lời nguyện ban đầu. Tâm của đức Vê-xanh-ta thoáng rung 
						động, nhưng nhờ định căn vững vàng, như gió thoảng qua, lại trở nên yên tĩnh. Nàng Ma-đà-ly rời tịnh thất chưa bao 
						lâu thì lão Bà-la-môn tìm đến. Từ xa, thấy lão, Thái tử đã biết rõ, 
						ngài thốt lên trong tâm: - Ehi va tabbo! Này người Bà-la-môn! 
						Chính ngươi là pháp phương tiện đưa ta đến Niết-bàn. Chính ngươi giúp ta thành 
						tựu bố thí Ba-la-mật. Đức Vê-xanh-ta dạy Ra-ly tiếp đón, rồi 
						nói với con rằng: - Này Ra-ly! Con có thích người 
						Bà-la-môn này chăng? Ra-ly vốn là trẻ thông minh hết mực, 
						biết ý cha nên vội vã đến bên lão Bà-la-môn tỏ lời thân thiện: - Cụ đã già mà mang xách gì nặng quá, 
						để cháu tiếp hộ cho. Lão Bà-la-môn tự nghĩ: - Như loài công vừa sinh ra đã có màu 
						sắc lóng lánh, như gai kia không mài dũa mà vẫn nhọn tự nhiên, trẻ này vốn là 
						giống dòng quý tộc, nếu ta có xin về cũng rắn mắc khó dạy. Phải dằn mặt trước 
						mới được. Rồi ra vẻ giận dữ: - Mày là con ai mà vô lễ đến thế? Sao 
						dám lân la đến bậc trưởng thượng?
					 Bé Ra-ly nhìn bộ tướng hung tợn của 
						lão Bà-la-môn, sợ hãi thụt lùi núp sau lưng cha. Lão Bà-la-môn đến quỳ lạy đức 
						Vê-xanh-ta tỏ vẻ thân thiện: - Muôn tâu bậc đạo sĩ đức hạnh! Lê dân 
						trăm họ suốt cả các nước chư hầu không ai là không cảm phục ngài dám bỏ điện 
						ngọc ngai vàng, vào rừng sâu sống đời khổ cư tịch mịch. Lão là kẻ ngu hèn, cũng 
						đêm đêm nguyện cầu cho ngài được sức khỏe kiện toàn, an vui đời sống ẩn sĩ 
						thanh tịnh.
					 Lại mỉm cười hiền lành tiếp: - Chẳng hay Thái tử ở đây vật thực có 
						đủ no lòng? Các loài ác thú phi nhơn ngỗ nghịch có dám đến quấy rầy bậc tu hành 
						nhân đức không? Đức Vê-xanh-ta gật đầu, tuy hiểu rõ 
						những lời hoa ngôn xảo ngữ kia, vẫn đáp: - Cảm ơn sự hảo tâm cùng những lời 
						chúc tốt đẹp của người phương xa. Ta muốn ở chốn rừng sâu hẻo lánh, đã sống 
						hạnh khước từ và yểm ly đô thị, chẳng biết có thể giúp cho người được gì không? Lão Bà-la-môn cố dệt thêm lời mở đầu 
						cho trau chuốt: - Nước của năm con sông to, nhất là 
						sông Hằng chảy ra đại hải, mà biển kia cũng không bao giờ tràn ngập thế nào; 
						thì ơn đức của Thái tử đối với chúng sanh này cũng như vậy. Lão là kẻ ăn xin 
						đói khổ thường hay tâm niệm được gặp Thái tử, quỳ lạy và chiêm ngưỡng dung 
						nhan, hầu cho kiếp bần hàn cơ khổ được tăng thêm phước thọ. Lại tiếp: - Sau nữa, lão cũng muốn xin một chút 
						lộc mọn cho tuổi già bất hạnh. Nhưng than ôi! Trải bao dặm trường gian lao, 
						chân run gối mỏi, bò núi lội sông, đến được kinh đô Kế-tư-đà thì Thái tử đã vào 
						rừng sâu mất rồi. Nhưng quả là trời cao không phụ tấm lòng của người chí thiết, 
						nắng mưa bươn bả, lão cũng tìm đến được nơi đây. Ôi! Thật đã không uổng một 
						kiếp nhân sinh hèn mọn. Đức Vê-xanh-ta thấy lão lắm lời, khẽ 
						nhắc lại: - Thôi được rồi! Lão cứ nói những điều 
						sở nguyện? - Muôn tâu – Lão Bà-la-môn lại lạy – 
						Thái tử đã mở lời thì lão cũng xin dám thưa: Thái tử bố thí cho lão hai trẻ, để 
						tuổi già được nghe giọng oanh tiếng sáo cho bớt phần quạnh hiu! Đức Vê-xanh-ta nói: - Trong kiếp này, chưa ai xin gì nơi 
						ta mà phải bị thất vọng. Được rồi, nhưng lão đi đường xa nhọc mệt, hãy tắm rửa, 
						ăn uống, nghỉ ngơi, rồi đợi đến chiều, được chăng? Lão Bà-la-môn ngần ngại: - Không được, lão muốn đi ngay... Đức Vê-xanh-ta đưa mắt nhìn con đường 
						mòn nhỏ xuyên vào núi sâu, nơi mà nàng Ma-đà-ly thường đi vào mỗi bữa sáng, nói 
						rằng: - Nữ đạo sĩ Ma-đà-ly vừa có công sanh 
						vừa có công dưỡng. Đi theo ta, sống với ta, nàng cũng sẵn có tâm bố thí. Ta 
						muốn lão nán lại để có sự chứng kiến của nàng. - Không được đâu – Lão Bà-la-môn lắc 
						đầu – Thái tử vì lòng rộng rãi nên đã đánh giá người nữ quá cao. Chẳng có bà mẹ 
						nào dám dứt bỏ con mình – là núm ruột không lìa – để cho kẻ khác, dẫu là với 
						đại nguyện cao cả thế nào. Đợi lệnh bà về, nếu vì quyến luyến thương tiếc thì 
						trở ngại cho sự bố thí của Thái tử xiết bao? Một ngàn lần chiến thắng được 
						mình, nhưng sẽ một lần thất bại trước giọt nước mắt của người đàn bà. Hãy cho 
						gấp hai trẻ đến lão, rồi lão sẽ đi ngay. Chẳng biết sao hơn, đức Vê-xanh-ta 
						nói: - Ta sẽ y lời. Nhưng này lão 
						Bà-la-môn! Sau khi được hai trẻ rồi, lão nên dẫn chúng đến vương phụ ta. Ngươi 
						sẽ được ban thưởng nào là ngựa, bò, trâu, vàng bạc, tôi trai lẫn tớ gái... để 
						lão sống một đời ngũ dục dư dã, hạnh phúc. Lão Bà-la-môn lắc đầu: - Không thể được, thưa Thái tử! Lão là 
						dân đầu đường xó chợ, quần túm áo ôm; khi dẫn hai trẻ đến cung vàng hoa lệ thì 
						ai cũng cho rằng lão là tên cướp đường, cướp rừng, cướp biển. Người thành phố 
						cao sang thường truyền tụng câu ngạn ngữ: Người lương thiện không ai mặc áo 
						rách! Chắc Thái tử cũng đã có nghe? Và nếu vậy, khi đức vua ghép lão vào tội ăn 
						cắp hai trẻ, bắt tra khảo đánh đập, xử giảo, lăng trì hay treo đầu, chém cổ thì 
						lấy đâu mà khiếu nại? Giả dụ Thái tử có biết thì cũng đã muộn rồi. Chẳng thể 
						đâu, Thái tử! Khi đức Vê-xanh-ta và lão Bà-la-môn 
						nói chuyện với nhau, Ra-ly và Kanh-ha đều nghe rõ hết. Biết số phận của mình, 
						hai trẻ run sợ tái xanh mặt. Như chú nai trông thấy móng vuốt của cọp beo, như 
						hai linh hồn yếu đuối bị lưỡi hái của tử thần rượt đuổi sau lưng – hai trẻ tìm 
						đường trốn thoát. Chúng ẩn trong hốc cây, sau đó, chúng lao xuống ao sen, trầm 
						mình dưới nước, rồi lấy lá sen phủ đầu. Bốn con mắt tho lỏ như bốn con mắt nai 
						nhìn về phía tịnh thất, lo lắng, sợ hãi. Lão Bà-la-môn nhìn quanh không thấy 
						chúng, cảm thấy bất bình, lớn tiếng nói rằng: - Tôi đến đây áo quần lấm bụi, chưa tỏ 
						hết lời mà Thái tử đã vui lòng bố thí cho hai trẻ. Ôi! Quả như lời đồn: đức 
						Vê-xanh-ta, Thái tử con vua Thệ Sanh và hoàng hậu Trầm Hương, nguyện bố thí 
						bất-nghịch-ý gia tài, vợ con và cả tính mạng đến tất cả chúng sanh. Ôi! Thật là 
						cao cả thay! Thật là lớn lao thay tấm lòng trời bể. Lão lại quỳ xuống đảnh lễ rồi nói: - Muôn tâu bậc ẩn sĩ thanh tịnh! Như 
						thế thì lão chẳng hiểu, tại sao ngài lại phải chần chờ, đợi nữ đạo sĩ Ma-đà-ly 
						về? Thái tử cho nhưng lệnh bà cản, thì phải chăng lời đại nguyện kia vẫn cứ 
						thành tựu? Phải thế không? Lại nữa, hai trẻ trốn mất đi, nếu không có ám hiệu 
						của cha chúng thì chúng chẳng dám nào. Lời của Thái tử vốn quý báu như ngọc 
						vàng, như đao phá thạch, lẽ nào hôm nay trước sau chẳng như một? Bị lão Bà-la-môn sỉ nhục thậm tệ, đức 
						Vê-xanh-ta vẫn ôn tồn nói: - Hãy bình tĩnh lại, đừng hiểu lầm! 
						Lời ta nói ra chẳng dám coi như kim khẩu, nhưng cũng coi nặng bằng non. Để ta 
						đi tìm hai trẻ. Nói xong đức Vê-xanh-ta nhìn quanh một 
						hồi rồi bước đến ao sen. Hai trẻ không dấu đâu được trước sự thông minh của 
						ngài. Hướng về hai con, đức Vê-xanh-ta nói rằng: - Này Ra-ly! Con yêu quý của cha! Con 
						sinh ra trong dòng giống quý tộc, là cháu của đức vua Thệ Sanh oai danh lừng 
						lẫy, là con hiếu thảo của ta! Lẽ đâu con không hiểu điều ấy để người Bà-la-môn 
						này tìm lý do để trách cứ ta? Ra-ly quý mến! Dòng dõi của chúng ta chưa hề bị 
						ai sỉ nhục mà hôm nay đã bị người sỉ nhục! Con ôi! Ta rất thương hai con, nhưng 
						ta lại thương yêu hơn nữa là con đường cứu khổ chúng sanh. Ta thương yêu sự 
						giác ngộ cao cả vậy. Con hỡi! Giữa biển lớn, dẫu những kẻ 
						thương buôn cố tìm các loại cây danh mộc để tạo những chiếc thuyền chắc chắn, 
						kiên cố; nhưng chỉ cần bất ngờ một cơn sóng to, một cơn bão rớt – thuyền kia sẽ 
						bị sóng đánh tan hoặc chìm sâu xuống bể cả. Những chiếc thuyền đời chẳng có gì 
						là bền vững vậy. Con yêu quý! Hãy nhìn thấy xa! Hãy 
						nhìn thấy rộng! Ta với đại nguyện trong lòng làm người thuyền trưởng ra giữa 
						biển sinh tử để độ thoát cho chúng sanh, thì hai con sẽ là chiếc thuyền pháp 
						kiên cố vững bền nhất. Hai con không giúp ta, thì làm sao ta thành tựu được sở 
						nguyện cuối cùng? Trẻ Ra-ly nghe lời đức Vê-xanh-ta nói, 
						cảm thấy xốn xang khó chịu trong lòng, tự nghĩ: - Ta đây là dòng dõi cao quý, tại sao 
						lại hèn nhát trốn núp ở đây để cho cha ta bị người mạ lị? Dẫu lão Bà-la-môn tàn 
						ác kia có đánh đập giết hại ta – thì ta cũng đừng vì vậy mà làm tổn thương danh 
						dự cùng tư cách kẻ giống dòng. Nghĩ thế xong, trẻ Ra-ly mạnh dạn vẹt 
						lá sen lội lên, hôn bàn chân phải của đức Vê-xanh-ta, đứng bên rồi khóc ròng. 
						Noi gương anh, bé Kanh-ha cũng lên khỏi ao, hôn bàn chân trái của cha rồi lấm 
						lét đưa mắt nhìn lão Bà-la-môn. Trước cảnh ấy, đức Vê-xanh-ta xúc động 
						đến chín lịm người đi. Tuy thế, sau một hồi trấn tỉnh phi thường, ngài cầm tay 
						hai trẻ âu yếm nói: - Ra-ly và Kanh-ha con ta! – Ngài đưa 
						tay chỉ ra phía hồ – Những cây sen kia mọc từ dưới đáy bùn, chúng vươn lên 
						ngang mặt nước, vượt lên khỏi mặt nước để trổ lá đơm hoa thơm ngát. Cũng vậy, 
						chúng ta cũng từ những ao hồ, những đáy bùn ô trược của cuộc đời, hãy vươn lên 
						mãi, chế ngự những bản chất và cá tính tầm thường để sau này nở thành những đóa 
						sen cao quý, tinh khiết. Các con hỡi! Hãy ngước mắt lên nhìn 
						ta, và hãy tươi tỉnh và can đảm nở nụ cười, để xứng đáng là con dòng cháu 
						giống. Các con là cái gì trân quý nhất của ta, trân quý hơn trân bảo đến muôn 
						vạn lần. Các con nhé! Hãy vui vẻ mà đi theo người Bà-la-môn. Nếu sau này Thái 
						Thượng Phụ có chuộc hai con, thì Ra-ly phải là một ngàn lượng vàng ròng, 
						Kanh-ha thì phải hơn thế nữa, không những là một ngàn lượng vàng ròng mà còn bò 
						sữa, bò đực, ngựa, tôi trai tớ gái mỗi thứ mỗi trăm mới tạm thời xứng giá. Và 
						khi được trở về với Thái Thượng Phụ rồi, các con sẽ tha hồ mà vui chơi nhảy 
						nhót. Còn bây giờ thì hãy nghe lời ta, hỡi các con hiếu thuận! Đức Vê-xanh-ta dẫn hai con về phía 
						tịnh thất, lấy nước trong rưới lên bàn tay lão Bà-la-môn, chú tâm rải lòng từ 
						bi, phát sanh tình cảm thanh khiết, vắng lặng rồi nói: - Hai trẻ là quả tim, là đôi mắt của 
						ta. Này lão Bà-la-môn! Vì thương yêu sự Giác ngộ, yêu thương hết thảy chúng 
						sanh trăm phần hơn nên ta bố thí hai trẻ đến cho người. Nguyện cầu quả bố thí 
						là nhân duyên cho đạo quả Vô Thượng Bồ-đề! Khi đức Vê-xanh-ta trao trẻ cho lão 
						Bà-la-môn, quả địa cầu dày hai trăm bốn chục ngàn do tuần chấn động mãnh liệt. 
						Sóng ở biển đột ngột dâng cao, vỗ giữa hư không ì ầm không ngớt. Chư thiên nhìn 
						nhau kinh sợ. Trời Đế Thích nóng nảy ngồi đứng không yên. Lão Bà-la-môn vừa được hai trẻ, đã 
						nói: - Lão già cả sức yếu, nếu hai trẻ bỏ 
						chạy thì lão làm sao đuổi kịp? Xin Thái tử vì lòng từ tâm, vì lời nguyện vô 
						thượng, trói hai trẻ giùm lão! Đức Vê-xanh-ta với lòng nhẫn nhục cao 
						độ, trói hai trẻ giao cho lão Bà-la-môn. Được chúng rồi, lão nắm mạnh đầu dây 
						lôi đi. Được vài bước, hai trẻ trì lại, lão quay ngược gậy đánh cho mấy hèo. 
						Hai trẻ khóc, lão lại thẳng tay đánh nữa; vừa đánh vừa chửi, không chút vị nể: - Trước đây, lũ chúng bay là giống 
						dòng quý tộc cao sang, nhưng giờ đây là tôi tớ lão, ỷ thế gì mà cứng đầu, ngoan 
						cố hả? Lão sẽ đánh cho bò lê bò càng ra, đồ khốn kiếp! Thảm thương cho hai trẻ, nước mắt tuôn 
						rơi như mưa, đưa đôi mắt khẩn cầu nhìn cha chúng. Đức Vê-xanh-ta quay lưng giấu 
						nỗi xúc động. Lòng như từng đợt sóng trào lên rồi chìm xuống, ngài cứ để tâm 
						trú vào bản chất rỗng không của Pháp, hồi lâu ngài tìm được sự yên tĩnh của mặt 
						hồ. Trong khi ấy có một vị Dạ-xoa định thò tay bóp cổ lão Bà-la-môn, nhưng một 
						vị trời đã ngăn lại, nói rằng: - Đế Thích thiên vương còn tức giận 
						lão kia hơn nữa kìa, nhưng hãy để yên, đừng tham dự vào sở nguyện Ba-la-mật của 
						đức Vê-xanh-ta! Trẻ Ra-ly đưa mắt nhìn vào tịnh thất: - Cha ơi! Sao cha nỡ lòng nào để lão 
						Bà-la-môn đánh đập chúng con? Cha ơi! Sao cha đành bỏ chúng con để cho lão già 
						khốn kiếp, hèn hạ này lôi kéo chúng con đến trầy da tươm máu? Buổi sớm vào non 
						hái trái, mẹ con đã phó thác hai con cho cha như thế nào, cha quên rồi ư? Hãy 
						vì chút tình phụ tử mà cứu chúng con, cha ôi! Hai trẻ càng khóc la bao nhiêu, lão 
						Bà-la-môn càng đánh đập bấy nhiêu. Đã gãy một cái gậy, lão tìm cái gậy khác. 
						Hai trẻ đau quá, bò dưới đất, năn nỉ xin tha mà lão Bà-la-môn tấm lòng sắt đá 
						dường như chẳng biết xót thương là gì! Lão Bà-la-môn nghiến răng, đanh mặt 
						lại: - Tụi bay đừng tưởng con vua cháu chúa 
						mà xấc xược khinh người. Tao sẽ đánh tụi bay như đánh những con chó hoang. Rồi lão lại giáng gậy như mưa bấc, 
						chẳng khác gì một trận đòn thù. Ra-ly trườn mình tới, đỡ đòn cho em. Một sức 
						mạnh từ đâu không biết, nó đứng bật dậy: - Này lão già khốn nạn! Nếu lão còn là 
						giống người, đủ can đảm thì hãy đánh ông đây! Sao lão cứ đánh mãi em ta? Nó là 
						gái yếu đuối, đâu chịu nổi cánh tay thú vật của ông? Thật là hèn hạ bỉ ổi! Lão Bà-la-môn không giận mà lại cất 
						tiếng cười quái gở. Những trận mưa đòn gậy lại ập xuống trên lưng, trên đầu, 
						trên cổ Kanh-ha. Lại kể lể: - Bọn bây ngon lắm! Lá ngọc cành vàng 
						ghê gớm lắm! Sung sướng quen rồi. Lão đây thiếu cơm thiếu áo, canh cặn cơm 
						thừa, bị khổ sở suốt cả một cuộc đời khốn nạn. Bọn bây mới bị đánh đập một chút 
						ít thì cũng chưa sao! Ra-ly ôm Kanh-ha đã ngất lịm đi vì đau 
						đớn. Nó cắn răng chịu đòn thay em. Thương thay, thân thể rướm máu, môi bật máu 
						mà linh hồn chúng dường như cũng rỉ máu: - Em ơi! Cha chúng ta đã thật sự bỏ 
						chúng ta rồi. Điều này mới chính thật là đau đớn hơn. Mẹ ơi! Mẹ ở đâu? Hãy cứu 
						chúng con, mẹ ơi! Ôi! Đau quá! Vĩnh biệt cha! Vĩnh biệt mẹ! Đức Vê-xanh-ta ở trong tịnh thất. Mặt 
						hồ đang yên lặng, sóng lại cuộn trào lên. Lần này thì trào lên dữ dội hơn bao 
						giờ. Cứ mỗi tiếng roi vọt, mỗi tiếng kêu la, mỗi lời than thở của trẻ là ngài 
						lại thốn đau, tim thắt lại, ruột gan như bị lửa nung đốt. Thế là một ác niệm 
						khởi lên. Ác niệm kia lớn dần, mạnh dần dường như không kìm hãm nổi. Tuy nhiên, 
						đức Vê-xanh-ta lại chiến thắng, nhờ ngài nghĩ đến chư Phật trong quá khứ đã 
						từng móc gan, móc ruột, cắt tim, khoét mắt mình để cứu chúng sanh. Ngài lại còn 
						nghĩ đến con đường Giác Ngộ Vô Thượng, đến sự luyến ai buộc ràng là nhân của 
						trầm luân sinh tử. Hồi lâu, tâm đức Vê-xanh-ta lại trở nên yên lặng, yên lặng 
						rất sâu. Sắc mặt ngài đã trở nên khoan hòa, mát mẻ. Lão Bà-la-môn đã dẫn hai trẻ đi xa 
						được một đoạn đường. Cứ mỗi lần hai trẻ đi chậm hoặc chính lão bị vấp té là lão 
						quay lui đánh chưởi vô hồi kỳ trận. Ra-ly ngước mắt lên trời than: - Cao xanh hỡi cao xanh! Kiếp trước nhân chi, nghiệp phải đành Xót dạ, con đi, sầu chín khúc Đau lòng, mẹ ở, lệ năm canh Thương em gầy yếu đời gai góc Nhớ mẹ đơn côi, kiếp lạnh lùng Tổ ấm hàn ôn, giờ vĩnh biệt Phương người, chôn kín bóng song thân! Chư thiên khắp núi rừng Gri-văng-ca 
						thảy đều ngậm ngùi sa lệ... Trong lúc ấy, tại rừng sâu, nàng 
						Ma-đà-ly trong lòng quặn thắt, đi tới đi lui, xốn xang, bứt rứt không yên. Nàng 
						chẳng hái được bao nhiêu trái cây trong suốt buổi sáng. Nàng không nhìn thấy 
						gì, không nghe thấy gì, chỉ biết ruột xé tợ dao bào. Mới chia tay hai con mà 
						tưởng chừng như đã lâu lắm, nàng chợt sợ hãi đến lạnh người khi nghĩ rằng: sẽ 
						không còn nhìn mặt hai con được nữa! Ôi! Sợi dây mẫu tử thiêng liêng tưởng 
						như vô hình nhưng mà nó hiện hữu mãnh liệt xiết bao! Ngay chính khi Ra-ly gào 
						kêu, cầu cứu mẹ đến khản giọng – thì nàng nóng nảy, bươn bả bỏ rừng tìm về. Chư 
						thiên thấy và biết mọi sự, sợ nàng không chịu nổi tình trạng thê thảm của hai 
						con, có thể kinh động, gây trở ngại cho tâm nguyện của Thái tử - nên theo lời 
						dạy của trời Đế Thích – họ hiện ra sư tử, cọp, beo nằm chặn tất cả các con 
						đường. Nàng Ma-đà-ly trở về ngã nào cũng gặp 
						ác thú, chẳng biết sao hơn, đành chấp tay khấn vái vô cùng tha thiết. Chư thiên 
						tuy cảm động lắm, nhưng chỉ đợi lúc hai trẻ đã đi xa, họ mới không ngăn nàng 
						nữa. Về đến tịnh thất vắng hoe, nàng kêu hai con đến rát cổ mà chẳng nghe lời 
						đáp lại. Tóc tai rối bù, y áo nhàu nát nàng chạy từ hốc cây này qua kẹt đá 
						khác, sục sạo tìm kiếm. - Ra-ly! Kanh-ha! Hai con yêu quý của 
						mẹ! Hai con ở đâu? Tiếng vọng dồn dâp, nghẹn ngào của 
						nàng chỉ có núi rừng vọng lại. Đức Vê-xanh-ta nghĩ: - Nàng đã về. Không có hai con, nàng 
						có thể sinh ra điên cuồng, quẩn trí. Hãy để cho tâm nàng lắng lại, ta sẽ nói. Ngoài kia, tiếng gọi của nàng Ma-đà-ly 
						càng lúc càng thê thảm: - Ra-ly hỡi! Kanh-ha hỡi! Hai con ở 
						đâu? Ôi! Có tai nạn ác nghiệt nào xảy đến cho hai con tôi rồi. Trời xanh ơi! 
						Cao xanh ơi! Sao tôi khổ thế này? Tiếng gọi tuyệt vọng của nàng vang 
						vang từ cánh rừng này qua cánh rừng khác, hồi lâu lại trở về bên cửa tịnh thất 
						của đức Vê-xanh-ta. Người nàng bây giờ đã kiệt lả ra, như cái xác vô hồn. - Hai con tôi đâu? Xin Thái tử cho 
						biết là hai con tôi đâu? Hai trái tim và mạng sống của tôi giờ ở đâu? Hỏi đến lần thứ ba, đức Vê-xanh-ta vẫn 
						im lặng. Nàng lại khóc, kể lể: - Chàng ôi! Mỗi lần thấy tôi về từ 
						đằng xa thì chúng đã ríu rít, líu lo như sáo cưỡng. Trẻ Ra-ly hôn bên bàn chân 
						phải, trẻ Kanh-ha hôn bên bàn chân trái. Tôi ẵm chúng trong tay. Tôi cười, 
						chúng cười. Đứa chạy trước, đứa chạy sau lúp xúp mới dễ thương làm sao! Ôi! Tôi 
						nhớ Ra-ly có một vết thương nhỏ xíu trên má trái vì cỡi chú ngựa rừng tí hon bị 
						té. Trẻ Kanh-ha có bắp chân tròn mũm mĩm với rất nhiều nốt ruồi son. Tưởng nó 
						là tướng đại phú quý! Chúng vây quanh giỏ trái cây, bảo trái này là của cha, 
						trái này là của mẹ. Chúng đội hoa trên đầu, quàng hoa trên cổ, tung tăng trên 
						lối cỏ xanh ra bờ suối, đến ao sen. Ôi, biết bao tháng ngày quạt nồng ấp lạnh. 
						Chúng đau là tôi đau. Chúng vui là tôi vui. Vắng bóng chúng là tôi vắng mặt 
						trời, là tâm hồn tôi tối tăm lạnh lẽo! Ôi! Chàng ôi! Giờ chúng ở đâu? Sao chàng 
						không nói một lời? Đức Vê-xanh-ta nghĩ: niềm đau khổ của 
						nàng đã bắt đầu giảm bớt. Ta hẳn đợi một lúc nữa, khi tâm hồn nàng đã hoàn toàn 
						lắng dịu, ta sẽ nói! Nàng Ma-đà-ly đã hơi tỉnh táo: - Phu quân kính mến! Dẫu hai trẻ có bị 
						ác thú trở chứng làm hại, dẫu hai trẻ có bị tai họa nguy hiểm chừng nào, thì 
						phu quân cũng cứ cho thiếp biết. Sự im lặng của phu quân làm cho thiếp đau khổ 
						hơn là mất hai con nữa. Phu quân ơi! Hãy nói với thiếp một lời! Đức Vê-xanh-ta bây giờ mới mở mắt ra. - Ma-đà-ly yêu quý! Bây giờ nàng đã 
						bình tĩnh và sáng suốt rồi. Ta báo cho nàng hay là hai con ta không bị ác thú 
						làm hại, không có bị tai nạn chết người đâu. Nàng hãy an tâm. Nàng Ma-đà-ly ngồi bình tĩnh, chờ đợi 
						lắng nghe. Đức Vê-xanh-ta tiếp: - Thấy nàng đau khổ thái quá khi vắng 
						bóng hai con nên ta chưa thốt ra lời đó thôi. Nàng hỡi! Ta biết tình mẹ thương 
						con như thế nào, và tình ta đối với hai con cũng sâu đậm lắm, nhưng tuyệt đối 
						không thể so sánh được với nàng. Hai trẻ, vì đại nguyện bố thí bất - nghịch - 
						ý, ta đã cho đến người rồi. Hãy bình tĩnh. Hãy bình tĩnh! Nàng Ma-đà-ly lặng người đi rất lâu, 
						nước mắt đã khô chảy. Đức Vê-xanh-ta lại nói: - Ta yêu quý nàng. Ta yêu quý hai con. 
						Nhưng đối với chúng sanh trầm luân đau khổ ta lại rất tha thiết đi tìm phương 
						thuốc cứu độ. Chư Phật quá khứ thường như thế. Mất nàng, mất hai con, ta có thể 
						chết được, nhưng dẫu sao, cũng chỉ chết một đời. Nhưng mất cơ duyên đại giác, 
						đời chúng ta sẽ chìm đắm trong bóng tối mãi mãi. Nàng hỡi! Hãy giúp ta! Hãy 
						tiếp sức với ta trong tình thương thanh khiết này. Ấy là tình thương của bờ 
						kia, tình thương không hệ lụy, buộc ràng; tình thương không phân ly và nước 
						mắt. Nàng đã phát nguyện tùy thuận với ta, đi theo một con đường, thì nàng hãy 
						cho ta đạt thành sở nguyện chứ? Có bao giờ ta dám dối nàng hoặc hết yêu thương 
						nàng và con để trở thành gỗ đá vô tri? Chính đạo quả Vô Thượng Bồ Đề mới nói 
						lên ý nghĩa tình thương chơn chánh ấy. Ma-đà-ly nàng hỡi! Nàng nghe rõ những 
						điều ta vừa nói đó chứ? Nàng Ma-đà-ly ngước đầu lên, đôi mắt 
						còn đỏ hoe: - Nghe rõ! Nghe rõ từ trong chỗ sâu xa 
						nhất của trí não, thưa phu quân! Từ lâu, thiếp chỉ nghe bằng trái tim nên thiếp 
						đã sai lầm. Thiếp đã có hứa cùng chàng thì đâu có thể thay đổi được. Tuy thế, 
						nghiệp chướng của nữ nhân vốn nặng nề về luyến ái, dẫu đồng ý với chàng nhưng 
						vẫn còn đau đớn lắm. Xin phu quân xá tội cho. Đức Vê-xanh-ta gật đầu: - Ta đâu dám trách nàng điều chi? Nàng 
						cũng không có tội gì. Tình mẫu tử thiêng liêng là một tình cảm đáng trân trọng. 
						Tuy thế, nàng cũng phải hiểu rằng, đấy là nhân của tử sinh và đau khổ. Bây giờ, 
						nàng đã chiến thắng, nàng đã bước ra khỏi cái thế tình. Nàng đã không phụ lòng 
						ta, nàng đã không thẹn với chư Phật. Bánh xe xuất thế, nhờ nàng đã bắt đầu 
						chuyển nhịp. Quả đất đang rung động đó, nàng có biết không? Chư thiên đang tán 
						thán, ca ngợi nàng làm rung rinh mấy tầng không gian lớn rộng, nàng nghe rõ 
						không? Những lời đúng đắn, phải lẽ kia như 
						viên thuốc hồi sinh; tình cảm, lý trí và sự sống nơi nàng Ma-đà-ly đã bắt đầu 
						máy động. Khuôn mặt ngọc giờ đã ráo lệ, nàng Ma-đà-ly bất chợt nở nụ cười. Nàng 
						đang cố gắng tìm sự bình an trong trạng thái tình cảm trong sáng và vắng 
						lặng... Ngay khi ấy, một đạo sĩ nghiêm trang, 
						dung sắc tốt đẹp vô cùng, xuất hiện trước tầm mắt hai người. Đạo sĩ choàng áo 
						da thú, to lớn, chững chạc, trầm tĩnh như chúa sơn lâm vừa bước ra khỏi động 
						báu. Môi mỉm nụ cười hoa sen, đạo sĩ nói: - Tốt đẹp thay là vị ẩn sĩ thanh tịnh! 
						Tốt đẹp thay là kẻ viễn ly đô thị, sống đời phạm hạnh bằng trí tuệ chiếu sáng 
						như trăng sao! Tốt đẹp thay là người có giới đức như viên ngọc Ma-ni không tỳ 
						vết! Hỡi bậc đại ẩn sĩ! Tôi kỉnh mộ và tịnh tín ngài! Tôi chúc mừng ngài với 
						tất cả những gì thiện hảo nhất! Đức Vê-xanh-ta và nàng Ma-đà-ly ngạc 
						nhiên đến sửng sốt. Sự xuất hiện đột ngột, ngôn ngữ lưu loát, dung nghi và cốt 
						cách long phụng của đạo sĩ tỏa ra ánh sáng khác phàm. Đức Vê-xanh-ta nghiêng 
						mình đáp lễ rồi nói rằng: - Hỡi người tu hành khả kính! Mà, mặc 
						y phục bằng da thú là nhân sanh thiện giới của nhiều kiếp vị lai! Cảm ân sự mến 
						mộ của người. Chẳng hay người từ phương nào lại, muốn chỉ giáo tôi điều gì? 
						Hoặc tôi có thể giúp đỡ gì được cho người? Nhưng trước tiên, xin người hãy tắm 
						rửa, rồi tạm dùng các vật thực cây trái có sẵn. Tất cả đều đầy đủ, thơm ngon và 
						tinh khiết. Người hãy tùy nghi sử dụng. Tất cả là của người. Vị đạo sĩ nghiêng thân nói: - Hỡi bậc đại ẩn sĩ quý trọng! Trước 
						sự chân tình và lòng hảo tâm của người, ta đã lĩnh ý. Và coi như ta đã thọ dụng 
						rồi vậy! Đức Vê-xanh-ta tự nghĩ: người này, kẻ 
						này – dung nghi sáng rỡ như một đóa hoa ở cõi trời – chắc chắn không phải là 
						hạng đạo sĩ tầm thường! Y đến đây để dạy bảo ta? Thử thách ta? Hay là sẽ xin ta 
						cái gì trân quý nhất? Bèn gợi ý: - Ngàn dặm đường xa tới chốn thâm sơn 
						cùng cốc này, chắc chẳng phải ngài chỉ có bấy nhiêu lời thiện cảm và đầy khách 
						sáo? Phải có lý do chính đáng mới làm cho ngài mất công phu và thì giờ? Hỡi đạo 
						sĩ với phẩm cách cao thượng và thoát tục, ngài hãy nói đi và ta xin nghe! Đạo sĩ mỉm cười khó hiểu: - Ta đâu dám đến đây để dạy bảo ngài 
						điều gì! Ta cũng chẳng có gì thắc mắc để làm bận tâm bậc tu hành khả kính! Mục 
						đích của ta là đến xin một vật trân quý nhất của ngài thôi! Đức Vê-xanh-ta thật lòng nói: - Tiếc thay, ngài đến muộn mất rồi! 
						Trước đây hằng muôn xe vàng bạc và của cải, ta đều cho đi hết sạch. Những thứ 
						trân quý như bảo châu, anh lạc, hổ phách, mã não, xa cừ... ta cũng đã bố thí 
						hết cho lê dân... - Những thứ ấy chẳng phải là trân quý! Đức Vê-xanh-ta lại một lần nữa ngạc 
						nhiên: - Cho chí ngôi vương ta cũng không còn 
						bịn rịn. Hai đứa con ta, hai hoàng tôn vô giá, ta cũng đã bố thí đến cho người! Đạo sĩ mỉm cười: - Ta chỉ muốn một thứ quý hơn, cao 
						sang hơn tất cả những thứ mà ngài vừa kể. Đức Vê-xanh-ta lạ lùng nhìn đạo sĩ, 
						một lát, ngài cũng mỉm cười: - Vậy thì ta chỉ còn cái cốc tranh, 
						nước lã, cây trái cùng tệ phụ nhân! Đạo sĩ nói: - Cốc tranh, nước lã, cây trái... thì 
						ở đâu mà chẳng có! Đức Vê-xanh-ta chợt hiểu: - A! vậy thì phu nhơn của ta, chẳng 
						hay người muốn ta bố thí chăng? - Phải rồi! Chỉ có nàng mới đáng gọi 
						là trân quý đối với ta! - Nhưng ngài là kẻ tu hành – đức 
						Vê-xanh-ta nói – là sống đời phạm hạnh, có lẽ nào...? - Còn Ngài thì sao? – Đạo sĩ mỉm cười 
						hỏi – Ngài không là kẻ tu hành phạm hạnh sao? Rồi giọng đạo sĩ chợt trang 
						nghiêm – Ta cần một người đàn bà thủy chung và đức hạnh, mà hương thơm tỏa ra 
						còn tối thượng hơn cả già-la-hương, chiên-đàn-hương! Ngài có giúp cho ta được 
						như nguyện chăng? Bậc đại ẩn sĩ có dám cho ta viên bảo châu vô giá đó? Biết đạo sĩ nói thật, đức Vê-xanh-ta 
						không còn hoài nghi nữa; khẽ cầm tay nàng Ma-đà-ly – lúc ấy, sắc mặt nàng không 
						có ý phản đối – lấy nước rưới lên tay đạo sĩ, rồi trao nàng tận tay ông ta: - Viên trân châu bảo ngọc này còn là 
						trái tim, hơi thở và mạng sống của ta, bây giờ là của ngài. Lại ân cần nói với nàng: - Đối với ta như thế nào thì với đạo 
						sĩ, nàng cũng phải như vậy. Nàng Ma-đà-ly kính cẩn nói: - Thiếp bây giờ do tâm ý chàng mà sanh 
						ra, do tâm ý chàng mà tác thành và hiện hữu! Là hình ảnh, là con thuyền vững 
						bền của chàng để đi đến nơi bến giác xa xăm! Cả ba người lúc ấy thảy đều mát mẻ. Quả địa cầu rung động. Thiên âm giữa 
						hư không, hốt nhiên đọc bài kệ tán thán hy hữu: “- Của cải tuy quý, Nhưng thoắt đến thoắt đi Vàng bạc, ngọc ngà tuy quý Nhưng chỉ như màu sắc của mây; Sự lộng lẫy của bong bóng nước! Con cái tuy quý, Nhưng đứa khác sẽ sinh ra! Còn người vợ mỹ miều và đức hạnh thì, Thắp đuốc đi tìm trên thế gian Nào có dễ đâu! Thế mà đức Vê-xanh-ta Có thể dứt bỏ luyến ái dễ dàng Như cắt núm ruột mình Ném cho loài phi điểu Ôi! Hy hữu thay là hạnh khó làm!” Vị đạo sĩ nhận nàng Ma-đà-ly, khoan 
						thai bước đi. Được bảy bước, đạo sĩ trở lại, trao nàng tận tay đức Vê-xanh-ta. Đức Vê-xanh-ta ngạc nhiên hỏi: - Nàng Ma-đà-ly, viên trân châu vô giá 
						của ta, không vừa ý, đẹp lòng ngài sao? Chẳng hay nàng có khiếm khuyết gì về 
						sắc đẹp và đức hạnh? Đạo sĩ mỉm cười lắc đầu: - Không! Toàn hảo! Nàng là người đàn 
						bà toàn hảo trên thế gian mà ta tìm thấy. Dẫu trong quá khứ, hiện tại hay vị 
						lai cũng chưa có ai bằng nàng, huống nữa là hơn nàng! Nói thế xong, hốt nhiên đạo sĩ bay lên 
						giữa hư không, hiện thành vị trời với đai áo mũ miện cẩn ngọc dát vàng, lộng 
						lẫy chiếu sáng cả khoảng không gian lớn rộng. Đức Vê-xanh-ta và nàng Ma-đà-ly 
						chưa kịp ngạc nhiên, thì đạo sĩ đã nói: - Hỡi này bậc ẩn sĩ khả kính! Sự bố 
						thí Ba-la-mật của ngài đã thành tựu. Ta chính là Đế Thích thiên vương, xuống 
						đây cốt để thử lòng ngài, có đang tâm bố thí vật khó bố thí, xả ly vật khó xả 
						ly, dứt ái luyến buộc ràng với người vợ hiền đoan trang, đức hạnh. Ôi! Cao cả 
						thay! Đức Vê-xanh-ta đã làm được! Ôi! Tối thượng thay là kỳ tích hy hữu! Đức Vê-xanh-ta cùng nàng Ma-đà-ly như 
						rơi vào giấc mộng. Trời Sakka lại nói: - Với oai lực của chúa Chư thiên cõi 
						trời Ba mươi ba, ta hằng giúp mong muốn, sở nguyện đến cho những ai kiên trì và 
						dõng mãnh đi theo thiện pháp. Vậy này hỡi Thái tử con vua Thiện Sanh và bà 
						hoàng hậu Trầm Hương, cũng vậy, người hãy nói lên bốn điều sở nguyện, ta sẽ 
						thành tựu cho. Biết đây là vị trời có rất nhiều oai 
						lực, ngài đã nói được, tất làm được. Ngẫm nghĩ giây lâu, đức Vê-xanh-ta nói: - Chúng sanh ở cõi Ta-bà này hằng sống 
						trong cảnh lo sợ hãi hùng vì chiến tranh, chém giết, hận thù, oan trái... Lại 
						bị nạn nước, nạn lửa, cảnh sinh ly, từ biệt... Rồi cái bệnh, cái chết, cái 
						nghèo đói lúc nào cũng như chiếc lưỡi hái của tử thần chực sẵn trên đầu. Vậy 
						thì xin đức Đế Thích, vị trời chúa của những vị trời, mà oai lực bao trùm cả 
						bốn châu thiên hạ, hãy cho tôi thành tự sở nguyện đầu tiên: Làm sao cho chúng 
						sanh hằng thoát khổ được vui, hạnh phúc và an lạc đời đời kiếp kiếp! Trời Sakka thốt lên: - Ôi to lớn thay là ước nguyện của bậc 
						đại chúng sánh! Vĩ đại thay là lòng từ của bậc chí nhân, chí thiện. Nhưng điều 
						này ở ngoài uy lực của ta mất rồi. Ta chịu thôi. Hãy nói lên lời ước nguyện 
						khác. Đức Vê-xanh-ta thở dài, trầm ngâm chốc 
						lát, lại tiếp: - Biết bao cảnh con giết cha, vợ giết 
						chồng! Cương thường đạo lý ở thế gian càng lúc càng thoái hóa. Lại nữa, chúng 
						sanh hiện đang hăng say vào những việc làm tội lỗi như cướp của, giết người, 
						tham dâm, ác độc, dối trá... Lời dạy của đấng đại hiền, của thánh triết, minh 
						thư, chúng coi như đống giấy vụn, chúng bảo là vì cái đó không đem lại áo cơm, 
						chẳng có lợi ích gì thực tế! Than ôi! Thần đã khóc, quỷ đã khiếp vì sự bạo tàn 
						và hủy diệt lương tri của sinh chúng thời nay. Vậy thì xin đức Thiên Vương cao 
						cả, với uy lực của ngài: làm sao cho chúng sanh thấy rõ nhân quả, tội phước – 
						để chúng tự ngăn mình, hoặc làm nên các thiện sự hữu ích cho chúng lâu dài về 
						sau. Trời Sakka lại thốt lên: - Ôi! Kỳ diệu thay là ước nguyện của 
						một chúng sanh hữu tình ưu việt và tối thắng! Ôi! Sáng suốt thay là ước nguyện 
						của vị Phật thời hậu lai! Nhưng thưa Thái tử! Ta là gì mà dám có oai lực vượt 
						ra ngoài oai lực của ta? Tầm vóc của ước nguyện kia còn lớn hơn mười muôn triệu 
						núi Tu Di kết hợp lại. Ta cũng nhờ chút phước lành trong quá khứ, do làm các 
						thiện sự không biết mệt mỏi, nên được ngồi trên đầu một ngọn sóng, giữa vô 
						lượng đợt sóng nhấp nhô chìm nổi của đại hải nhân quả nghiệp báo đó thôi! Ôi! 
						Đức Vê-xanh-ta hỡi! Hãy nói lên lời ước nguyện khác!
					 Đức Vê-xanh-ta thấy cả hai ước nguyện 
						tha thiết và chân thành nhất của mình mà vị trời nhiều oai lực kia cũng không 
						thành tựu được; chẳng biết sao hơn, tự nghĩ: Hay là ta xin những ước nguyện, mà 
						từ đó, ta có thể dùng làm phương tiện tốt đẹp lâu dài cho Đạo quả Vô Thượng Bồ 
						Đề, bèn nói: - Vậy thì điều thứ nhất: cho ta được 
						trùng phùng phụ tử, thân tộc; kế vị ngôi vương để có cơ hội trị vì quốc độ theo 
						chánh pháp. Trời Sakka hoan hỷ đáp: - Điều đó được. Rồi ngài sẽ được như 
						nguyện. - Điều thứ hai: Khi ta làm vua thì của 
						cải, bạc tiền, châu báu hằng có đủ, để ta giúp ích sự ấm no đến cho tất cả mọi 
						người! Trời Sakka lại gật đầu: - Ta sẽ cho ngài dư thừa về tài sản. 
						Ta sẽ trút xuống một trận mưa bảy báu tràn ngập cung điện của ngài. Đức Vê-xanh-ta lại nói: - Điều thứ ba: Từ Thái Thượng Hoàng, 
						các quan đại thần, bá tánh, ai ai cũng hoan hỷ thọ trì giới luật, đừng ngỗ 
						nghịch chống đối hay phỉ báng các thiện sự! - Ta sẽ lệnh cho chư thiên ở quốc độ 
						ngài, hộ trì cho ngài, muôn dân cùng bá tánh; trừng trị kẻ ác đức, nâng đỡ 
						người hiền lương – tạo cho chúng thuận thảo với bạch pháp! - Điều thứ tư: Trí tuệ và từ bi trong 
						ta hằng có đủ, không bao giờ bị che lấp, không mệt mỏi với lợi ích chung, tinh 
						tấn mãi mãi trên con đường Vô Thượng Bồ Đề! - Rất tốt – trời Sakka nói – Ta sẽ tìm 
						cách khuyến khích và nhắc nhở ngài. Tất cả bốn điều ước nguyện của Ngài sẽ được 
						viên mãn như ý! Sau khi hứa khả thi những sở nguyện 
						của đức Vê-xanh-ta, trời Đế Thích biến mất giữa hư không trong nháy mắt, trở về 
						Đao Lợi Thiên Cung. Suốt gần một ngày lão Bà-la-môn chưa 
						đi ra khỏi dãy núi Gri-văng-ca hùng vĩ. Lại thêm hơn hai ngày đêm nữa lão mới 
						tới được chân núi Càng-đà-ma-đằng, vì lão cố ý tìm đường lẩn tránh tên chúa thợ 
						săn hung ác! Hai trẻ thân thể đã rách như xơ mướp, lếch thếch khóc la thảm 
						thiết mà lão Bà-la-môn vẫn cứ lối kéo bừa đi còn tệ hơn con vật. Lão đã nổi thú 
						tính mất rồi! Đêm xuống, giữa chốn rừng già thâm u 
						ghê rợn, khi muông thú xuất hiện đó đây, lão Bà-la-môn sợ hãi đến dựng tóc gáy. 
						Lão lấy dây cột hai trẻ ở gốc cây rồi leo lên một nhánh cao to ẩn trú qua đêm, 
						tự nghĩ: “Ác thú mà có tới đây, hai miếng mồi kia sẽ đủ no thịt, chúng sẽ bỏ 
						đi. Ôi! Ta là vị Phạm Thiên an toàn và khôn ngoan hết mực!” Hai vị trời trú ngụ ở nơi này, bực 
						mình lão Bà-la-môn ác độc, lại cảm thương tình cảnh hai trẻ, đợi khi lão đã 
						ngủ, bắt lão trói lại bỏ dưới gốc cây, ẵm hai đứa trẻ lên cây, cho nằm trong 
						chiếc võng của cung trời. Suốt đêm, cả hai vị trời này thay phiên nhau ru ngủ, 
						vỗ về an ủi chúng, cho uống thuốc, xức các vết thương, cho ăn những thực phẩm 
						bằng các tinh hoa ngon bổ. Sáng ngày, thay đổi vị trí xong, họ biến mất. Hai trẻ thức dậy, thấy các vết thương 
						trên người đã lành lặn hẳn, cơ thể khỏe khoắn lạ thường. Lại nhớ mường tượng 
						như chúng được ngủ ấm cúng trong vòng tay của hai bà tiên đẹp đẽ và hiền lành. 
						Chúng ngẩn ngơ luyến tiếc. Lão Bà-la-môn trái lại, tự nghĩ: Sao ta ngủ trên cây 
						mà người lại nhuốm đầy bụi bẩn? Lại nữa, dường như có kẻ trói ta lại, vùng vậy 
						chẳng được làm cho cơ thể đau đớn và mệt mỏi lạ thường? Thoáng nhìn hai trẻ, lão ngạc nhiên 
						hết sức. Qua một đêm sao chúng hồng hào tươi nhuận đến thế? Còn các vết thương 
						sưng tím, dấu máu lở loét nơi chúng, biến đâu mất rồi? Vừa bực mình, vừa ganh tỵ, lão thô bạo 
						kéo bừa hai đứa trẻ đi, lại đánh, lại chửi. Lạ lùng sao, bây giờ chúng không 
						còn thấy đau đớn nữa. Trong giấc ngủ, hai bà tiên đã cho chúng uống thuốc gì mà 
						kỳ diệu đến thế? Đánh đập hoài cũng mỏi tay, hơn nữa, dường như lão không còn 
						hơi sức. Giờ đây, lão lầm lũi lên đường. Ròng rã ngày đi, đêm nghỉ, màn trời, 
						chiếu đất, lão Bà-la-môn đã về được quê nhà. Suốt khoảng thời gian này, mặc dầu 
						hai trẻ bị trói, nằm bờ, bỏ bụi – nhưng thường được các vị trời hảo tâm chiếu 
						cố, săn sóc cho ăn uống, chỗ ngủ, thuốc men, nên hai trẻ chẳng biết mệt mỏi là 
						gì; dường như chúng lại mạnh khỏe tươi đẹp thêm là khác. Lão Bà-la-môn kinh 
						ngạc, mắng thầm: cái giống dòng gì mà kỳ lạ! Bỏ đói, bỏ khát, ngủ hố, nằm đất 
						mà vẫn đẹp đẽ như con trời! Đến nhà, nàng A Mị tò mò nhìn hai trẻ 
						cốt cách quý phái, siêu phàm, hỏi chồng: - Hai quý tử này ở đâu? - Là dòng Hoàng tộc – Lão Bà-la-môn 
						kiêu hãnh đáp – Là con đức Vê-xanh-ta thành Kế-tư-đà! Nàng A Mị giẫy nẫy lên: - Trời ơi! Con đức Vê-xanh-ta? Kẻ có 
						lòng từ bi cao cả, bố thí hết của cải bạc vàng, cả voi báu, rồi vua cha đày vào 
						rừng Gri-văng-ka? - Chính thị! Lão Bà-la-môn gật đầu. Nàng A Mị giận dữ, xỉa xói vào mặt 
						chồng: - Vậy thì hãy tức tốc đem trả lại. Tôi 
						cấm ông đụng đến cái sợi lông chân của chúng. Trời ơi! Người ta chỉ còn hai 
						trẻ, là bạn cơ hàn, là quả tim, là chỗ an ủi náu nương, mà ông nỡ lòng nào cắt 
						lìa đành đoạn? Thật ông không phải là giống người, còn tệ hơn sài lang, hổ báo. 
						Sao ông không ngoảnh lại nhìn ông xem? Chúng ta là gì mà đem hai đức hoàng tôn 
						cao quý kia về làm tôi tớ hầu hạ? Rồi ông sẽ bị quả báo bể bụng, vỡ đầu ra mà 
						chết, tôi nói cho ông hay! Nàng A Mị dẫn hai trẻ đi tắm rửa, thay 
						y phục, cho ăn uống, ngủ nghỉ vài hôm rồi bảo lão Bà-la-môn đem trả về kinh đô 
						Kế-tư-đà. (Kinh sách ghi là: Vì lời nguyện trùng phùng phụ tử, thân tộc của đức 
						Vê-xanh-ta – mà trời Đế Thích xúi nàng A Mị trở mối thiện tâm). Lão Bà-la-môn thờ A Mị như thờ vị trời 
						ở trong nhà nên sợ hãi mang hai trẻ đi ngay. Lần này, lão săn sóc cho hai trẻ 
						từ cái ăn, cái uống, chỗ ngủ, chỗ nghỉ suốt dọc đường thật chu đáo. Và luôn 
						miệng xin lỗi hai trẻ bỏ qua cho!... Hôm kia, vua Thệ Sanh nằm mộng, thấy 
						một lão mặt đen ốm nhom, cầm hai hoa sen mới nở vào bệ rồng, cung kính dâng đức 
						vua. Vui mừng, đức vua đeo lên hai tai. Hoa sen rơi xuống tỏa mùi thơm ngào 
						ngạt. Vua giật mình tỉnh giấc. Điềm triệu được kể lại, một thầy 
						Bà-la-môn đến sụp lạy, tâu rằng: - Mừng bệ hạ sẽ được trùng phùng với 
						các hoàng tôn xa cách lâu ngày. Từ khi vua Thệ Sanh đày Thái tử vào 
						rừng sâu, ngài nhớ nhung héo mòn tất dạ, ngủ không yên, ăn không ngon. Những 
						khi đông hàn tuyết rơi, trong cung ấm, nằm ngủ đệm dày chăn bông mà đức vua còn 
						cảm thấy không chịu nổi. Xót thương cho Thái tử, vợ cùng hai hoàng tôn màn trời 
						chiếu đất nơi núi thẳm, rừng sâu. Lại nữa, ở cung đình thì sống đời vương giả, 
						ngày đêm tiếng ca lời nhạc, thức ngon vật lạ thừa thãi – còn ở chốn nước độc, 
						non thiêng, kẻ lưu đày nào có thứ chi? Càng nghĩ, đức vua lệ càng rơi tầm tã, 
						ăn năn, hối hận vô cùng. Về phần hoàng hậu Trầm Hương thì dường 
						như trầm trọng hơn; Thái tử và các cháu đi bà không còn thiết tha gì nữa cả. 
						Chỉ một thời gian ngắn là bà lâm bệnh võ vàng, thuốc thang không chữa được tâm 
						bệnh. Thầy Bà-la-môn đoán mộng, chẳng khác 
						chi cho đức vua và hoàng hậu một liều thần dược, cả hai tươi tỉnh lại. Đức vua 
						cho thắng ngựa đi dạo chơi ở ngoại thành. Hôm ấy, lão Bà-la-môn cũng vừa dẫn 
						hai trẻ tới nơi. Nhìn hai đứa bé đi với lão Bà-la-môn, 
						đức vua kêu quan hầu lại: - Này khanh! Khanh nhìn thấy chúng 
						chứ? Ôi! Cả hai trẻ đều sáng rỡ, khôi ngô, xinh đẹp. Trai thì giống Ra-ly, gái 
						thì đúng là Kanh-ha rồi! Tướng mạo ấy thì rõ là dòng quý tộc cao sang. Nhìn 
						kia! Cả hai đều đi đứng nghiêm trang, cốt cách như hai sư tử con. Nhìn kìa! 
						Diện mạo hai trẻ như vàng ròng óng ánh, mà, chúa thiên nga cũng không thùy mị, 
						rực rỡ đến như vậy! Đức vua biết đúng là hai trẻ, bèn trở 
						lại cung điện, cho gọi lão Bà-la-môn cùng hai trẻ vào chầu. Vua hỏi: - Này lão Bà-la-môn! Hai trẻ này từ 
						đâu mà lão dẫn đến đây? Hãy nói thật, trẫm sẽ ban thưởng trọng hậu. Lão Bà-la-môn dập đầu lạy: - Muôn tâu bệ hạ! Là con của đức 
						Vê-xanh-ta, là hai đấng hoàng tôn cao quý của bệ hạ. Đức Vê-xanh-ta vì đại 
						nguyện bố thí bất - nghịch - ý nên đã cho hai trẻ đến hạ thần. Vua Thệ Sanh biết là đúng như vậy, 
						nhưng cũng giả vờ giận dữ, vỗ long ngai: - Hay cho ngươi đã xảo ngôn, lộng ngữ! 
						Hai trẻ quý phái cao sang như rồng như phượng kia, ai lại đem cho đi? Hãy khai 
						thật! Nếu trẫm xét thấy có điều dối trá, sẽ xét theo luật hình sửa trị! Lão Bà-la-môn mặt cắt không còn hạt 
						máu: - Muôn tâu! Hạ thần đâu dám vọng ngôn 
						với đức hoàng thượng! Đức Vê-xanh-ta với lời phát nguyện cao thượng chẳng ai là 
						không biết. Ngài còn giữ gìn gì cho mình, dẫu là con mắt hay trái tim? Ngài là 
						đám ruộng vàng cho người nghèo đói, là tiên dược cho kẻ ốm đau, là dòng suối 
						ngọt muôn phương cho người, vật và cỏ cây đang khô khát. Hạ thần già cả, ốm 
						đau, cô độc – nên đã đến xin hai trẻ để đỡ đần chân tay lúc tối lửa tắt đèn. - Im ngay! Vua quát to – sao nhà ngươi 
						lắm lời đến vậy? Vua Thệ Sanh biết lão Bà-la-môn nói 
						đúng, nhưng cũng tức giận đến run lẩy bẩy. Tức giận cái lão già khốn kiếp, dám 
						xin cháu vua về làm tôi đòi. Các quan đại thần nghe chuyện thì coi 
						như được chứng kiến một sự kiện hy hữu, bèn mở lời châm chọc, chế nhạo: - Kỳ lạ đến thế là cùng! Của cải cho 
						được, có lý. Voi báu của quốc độ cho đi, không thể tha thứ. Nhưng con cái là 
						máu mủ, là một phần của sinh mạng mình mà cũng đành đoạn cho đi, thì không phải 
						là giống người nữa... - Không còn nhân tính – vị quan khác 
						phụ họa – sài lang, hổ báo, kể cả rắn rít có tiếng là tàn độc, hung dữ nhất, 
						chúng cũng biết thương con. Chỉ có đức Vê-xanh-ta của chúng ta là nhân vật mà 
						cổ kim chỉ có một, nên ghi vào sử vàng để lại cho muôn đời sau! Như lửa cháy đổ thêm dầu, vua Thệ Sanh 
						tím mặt rồng, giận cá chém thớt: - Hay cho lão Bà-la-môn dám khinh khi 
						dòng dõi Sát-đế-lỵ! Quân bay đâu! Hãy đánh cho nó ba mươi trượng thị oai! Quân hộ vệ dạ rân, hầm hổ tới trói gô 
						lão Bà-la-môn lại, căng ra, trượng to định giáng xuống... - Hãy khoan! Một trẻ chạy ra can, đó là Ra-ly. Nguyên Ra-ly nghe các quan dám vô lễ 
						chê Thái tử, dám ví cha nó còn tệ hơn sài lang, trẻ đã không chịu được. Bây 
						giờ, thượng hoàng lại ra lệnh đánh lão Bà-la-môn. Tuy mới mười hai tuổi đầu, 
						nhưng con nhà tông không giống lông cũng giống cánh, trẻ đã sớm biết đâu phải, 
						đâu không phải, nên đã mạnh dạn bước ra ngăn lại. Đức vua Thệ Sanh thấy cháu mình khuôn 
						mặt không giận mà oai, đang đưa mắt nhìn mọi người ra vẻ chê trách thì cơn giận 
						đã nguôi hơn nửa phần, bèn ôn tồn nói: - Ta nể cha cháu nên đã không chém đầu 
						lão kia, sao cháu lại can gián? Lão dám xin cháu về làm kẻ tôi đòi, thì đúng ra 
						cháu phải hả dạ khi thấy người ta đánh lão chứ? Trẻ Ra-ly lắc đầu: - Không phải thế, tâu Thái Thượng Phụ! 
						Các quan đại thần đã sai lầm mà cho chí Thái Thượng Hoàng cũng sai lầm! Than 
						ôi! Từ khi cha cháu đi khỏi thì triều đình này dường như không còn có ai nữa! Mọi người nghe như có một làn gió lạnh 
						tựa băng tuyết, quất vào mặt, im thin thít. Trẻ Ra-ly cất giọng thanh tao, rõ mồn 
						một: - Chính vì những người Bà-la-môn nghèo 
						đói này mà cha cháu đã phát tâm từ bi bố thí của cải. Chính vì những người 
						Bà-la-môn ác độc kia mà cha cháu cho voi thần đến nỗi mang tội với quốc độ. 
						Cũng chính vì sự đau khổ chung của sanh loại mà cha cháu cam chịu đời cơ cực ở 
						non sâu tuyết lãnh, nằm giường cây, uống nước lã, mặc áo da thú, ăn củ đắng và 
						trái cây chua! Cha cháu dung thứ được cho mọi người. Không những dung thứ mà 
						còn yêu thương. Vì yêu thương nên mải miết đi tìm phương cứu độ. Thế mà Thái 
						Thượng Phụ lẫn cả triều đình chẳng dung thứ nổi một con người ăn xin ngu si đói 
						khổ! Đức vua và cả triều thần ngồi trân, 
						ruột đau như cắt. Chưa thôi, như vị quan tòa, Ra-ly quay 
						mặt nghiêm khắc nhìn bá quan: - Còn các người là gì mà dám to gan 
						lớn mật chê trách cha ta? Một lũ xu phụ bám vào bả vinh quang mà no thân ấm 
						cật! Quốc độ này không có Thái Thượng Hoàng ta tu nhơn tích đức từ nhiều đời 
						kiếp, lấy vương pháp cai trị muôn dân, thì các ngươi có được bình yên mà ngồi 
						hưởng phú quý? Quốc độ này nếu không có cha ta, với đức lớn làm cho Vương Tượng 
						từ núi Tu Di đi qua hư không biếu tặng cho voi thần, thì kinh đô Kế Tư Đà là gì 
						mà làm chủ chư hầu? Khi cha ta cho voi thần, các ngươi đã nhân danh quyền lợi 
						muôn dân rồi xúi Thái Thượng Hoàng lưu đày cha ta! Xin thưa với các ngươi rằng, 
						các ngươi chưa biết xót thương một người, thì có lý nào biết lo đến quyền lợi 
						con dân trong cả nước? Các quan đại thần tức giận quá đến 
						xanh mặt lại. (Tương truyền rằng, trời Sakka vì muốn sau này hộ trì cho quốc 
						độ, nên xui trẻ dạy cho đức vua và bá quan một bài học về thiện pháp, để chuẩn 
						bị cho sự tốt đẹp của triều đại mới, khi Thái tử trở về lên ngôi vương như bốn 
						điều sở ước). Vì vậy, trẻ Ra-ly không dừng lại ở đó mà còn tiếp tục với giọng 
						lời chững chạc: - Muôn tâu Thái Thượng Phụ! Hành động 
						bố thí của cải, bạc vàng, voi báu và cả hai con, người trong thế gian không ai 
						làm được. Cha cháu yêu thương hai cháu như sự sống của chính mình thì lẽ đâu 
						không tình thương xót máu mủ, mà bá quan dám ví tệ hơn sài lang, hổ báo? Những đôi mắt phàm phu, hạ liệt làm 
						sao thấy được việc làm của người cao thượng? Muôn triệu chiếc xe được kéo bởi 
						tuấn mã, phi long, ngựa Sindhu thuần chủng cũng không đuổi kịp chiếc bóng đi 
						trước của một nhân cách siêu việt. Người ta thường không dám cho đi một đồng 
						trinh, một miếng cơm, một manh áo mà bao giờ cũng rêu rao vì quyền lợi kẻ khác! 
						Cha cháu sống một đời dường như hoàn toàn quên mình vì mọi người, mà bá quan 
						dám chê bai – thì coi chừng chư thiên sẽ giận dữ, quỷ dạ xoa sẽ đâp đầu họ vỡ 
						thành ba mảnh, và luật nhân quả báo ứng sẽ quẳng họ vào địa ngục đời đời! Trẻ Ra-ly nói xong đã lâu mà đức vua 
						và triều thần như còn đang ngồi trong lò lửa. Từ trạng thái tức giận lần lần 
						đến hổ thẹn. Từ hổ thẹn, bây giờ họ đâm ra sợ hãi. Không có ai dám nhìn thẳng 
						vào mặt Ra-ly. Chỉ có đức vua là cất giọng đầu tiên:  -Thôi 
						cháu! Ra-ly! Thái Thượng Phụ sai lầm mà bá quan cũng sai lầm trong hành động 
						vừa qua. Cháu theo cha cháu mấy năm mà đã trở thành người khôn lớn, đã dạy cho 
						ta và bá quan một bài học thấm thía vô cùng. Ôi! Thiệt là hổ phụ sinh hổ tử! 
						Chính ta bị bụi dính đầy mắt thì còn nhìn thấy gì nữa đâu. Cháu đã mở mắt cho 
						mọi người rồi đấy. Ai cũng thấy rõ cả rồi. Cháu bỏ qua nhé? Chúng ta sẽ sửa sai 
						những điều quấy quá. Chúng ta sẽ thỉnh cha cháu về, vì chỉ có cha cháu mới xứng 
						đáng là kẻ hiền đức vô song ở quốc độ này. Thôi nhé, lại đây! Lại đây cả hai 
						cháu. Muôn việc xí xóa hết cả rồi. Ngày mai mặt trời lại mọc. Mùa xuân sẽ về. 
						Lại đây hai cháu. Lại ngồi như xưa trên vế của tổ phụ! Ôi! Tổ phụ nhớ thương 
						hai cháu xiết bao! Hai trẻ khóc òa. Kanh-ha định chạy tới 
						nhưng Ra-ly nắm tay lôi lại. Đôi mắt đỏ hoe, Ra-ly cố gắng nuốt hơi rồi lắc đầu 
						nói: - Không thể được, thưa Thái Thượng 
						Phụ, hồi xưa khác, nay khác. Hồi xưa hai cháu là hai hoàng tôn lá ngọc cành 
						vàng, là dòng giống quý tộc vương giả, nhưng bây giờ hai cháu làm thân tôi tớ 
						người – thì đâu dám đến gần Thái Thượng Phụ để Thái Thượng Phụ phải bị ô uế? 
						Thái Thượng Phụ không sợ mình bị giảm giá trị? Không hổ mặt với triều đình bá 
						quan hay sao? Vua Thệ Sanh nước mắt tuôn dầm dề: - Thôi cháu ơi! Nói chi lời gai đâm, 
						muối xát làm lòng ta đau đớn, Thái Thượng Phụ sẽ tẩy xóa thân phận tôi đòi, để 
						hai cháu trở lại giống dòng cao quý, sẽ là hai hạt ngọc ma-ni của quốc độ. Ra-ly nói: - Cha cháu đã đem hai cháu cho ngươi, 
						tất nhiên là hai cháu đã thuộc về người. Dẫu lão Bà-la-môn kia hèn hạ, ác độc, 
						nhưng hai cháu nào dám không tuân? Vậy thì Thái Thượng Phụ phải bỏ tiền ra 
						chuộc cho đúng với lẽ phải ở đời! - Phải rồi, cháu nói đúng! Vậy thì 
						chuộc bao nhiêu? Cha cháu ấn định giá cả? Hay cháu? Hay lão Bà-la-môn kia? Ra-ly nói: - Lão Bà-la-môn làm sao đủ tư cách để 
						đánh giá hai cháu? Còn hai cháu thì làm sao lại có thể tự đánh giá mình! Cha 
						cháu đã dạy sao thì cháu nói làm vậy. Thưa Thái Thượng Phụ! Trai thì một ngàn 
						lượng vàng ròng không thừa, không thiếu. Gái, không những một ngàn lượng mà còn 
						bò đực, bò sữa, trâu, ngựa, voi, tôi trai, tớ gái – mỗi thứ một trăm mới đủ 
						tiền chuộc được! Đức vua ngạc nhiên hỏi: - Chỉ có bấy nhiêu thì đã lấy làm gì 
						đắt đối với hai trái tim yêu dấu của ta. Nhưng mà này cháu Ra-ly! Bình thường 
						trai quý hơn gái, mà sao ở đây, gái lại giá cả vượt mức trai đến như vậy? Cháu 
						có lầm lẫn chăng? Gái quý hơn trai chăng? Ra-ly rắn mắt nói: - Muôn tâu! Trai quý hơn gái là đối 
						với ai kia, nhưng đối với Thái Thượng Phụ, phải là gái quý hơn trai! - Sao vậy? Vua cau mày. - Muôn tâu! Thái Thượng Phụ chỉ có một 
						trai thông minh, tài trí, hiền đức; thế mà cam tâm đày vào núi sâu, rừng thẳm. 
						Còn ở đây, cung phi mỹ nữ mười sáu ngàn người đều được Tổ phụ sủng ái. Cho đến 
						kẻ nữ nhân tệ nhất ở cung điện này còn sung sướng hơn vạn lần đứa con trai yêu 
						quý của Thái Thượng Phụ! Vậy không phải là nữ quý hơn nam sao? Đức vua Thệ Sanh cười giả lả nhưng 
						lòng hổ thẹn vô cùng với đứa cháu rắn mắt. Vua sai quan trả giá cả như Ra-ly đã 
						nói. Khi ấy hai trẻ mới nhảy vào lòng đức vua khóc thút thít. Đức vua lòng hoan 
						hỷ không kể xiết, tức tốc cho mời hoàng hậu vào. Cả mấy người mừng mừng tủi 
						tủi. Lát sau, cung phi mỹ nữ tràn vào chật cung điện, xin được thăm hai đức 
						hoàng tôn yêu quý cách biệt lâu ngày. Ai cũng lạ lùng khi nghe được câu chuyện 
						vừa rồi, vừa tò mò, vừa kính nể, vừa yêu thương hai trẻ khôn xiết. Vua truyền cho triều đình và kinh đô 
						ăn tiệc bảy ngày. Lại sai ban thêm cho lão Bà-la-môn một tòa lâu đài bảy tầng 
						với đầy đủ vật dụng cần thiết để đáp đền công lao mang hai cháu về, lại bố cáo 
						giảm thuế má cho quốc dân, thả tội tù, xuất của kho bố thí khắp mọi nơi mọi chỗ 
						ròng rã mấy tháng trường. Đâu đâu cũng nghe tiếng cười vui an lạc. Riêng hai trẻ thì khỏi cần phải nói là 
						chúng sống như thế nào. Thật là khồng kể xiết sự cưng chiều của mọi người. Lão 
						Bà-la-môn vì thiếu phước nên không hưởng được đời sống phú quý. Hôm kia, ăn một 
						bữa quá no, trúng thực vỡ bụng, ói mật mà chết. Vua truyền cho họ hàng thân 
						nhân đến lãnh gia tài, nhưng chẳng có ai. A Mị biến đi đâu mất. Rốt cùng, tiền 
						bạc, gia sản lại sung vào quốc khố. Trong khi hàn huyên với hai cháu, đức 
						vua Thệ Sanh gạn hỏi về đời sống của cha mẹ chúng như thế nào ở rừng sâu. Ra-ly 
						và Kanh-ha cứ thực tình kể lại không giấu giếm điều gì. Đức vua vô cùng cảm 
						động, truyền cho bá quan chuẩn bị ngựa xe để vua đích thân lên rừng đón Thái tử 
						về kế vị ngôi vương. Tin được loan ra làm bừng bừng trái tim mọi người. Ai cũng 
						nôn nả ngóng chờ hình bóng của người nhân đức. Đúng ngày, một đoàn binh mã rầm rộ 
						xuất cửa thành tây. Đức vua, hoàng hậu, cung nga thể nữ, bá quan mấy ngàn xa 
						mã, theo sau là dân chúng tưng bừng nối đuôi hơn mấy do tuần... Quan binh tốp trước tốp sau; toán 
						trắng, xanh, đỏ, vàng sặc sỡ, oai vệ như thiên binh cõi trời Ba Mươi Ba. Ngựa 
						phi như giăng mắc, hướng chân núi Hy Mã thẳng tiến. Đoàn người đi trọn bốn mươi 
						lăm ngày, xa một trăm do tuần mới đến chân núi Càng-đà-ma-đằng. Đến cây đa to 
						có trái chín ngọt như mật ong, Ra-ly chỉ cho đức vua xem chỗ trú chân đầu tiên. 
						Đi một ngày đường nữa, họ đến chóp núi Na-lợi-ka. Cả hai nơi đều được gã thợ 
						săn và đạo sĩ Na-lợi-ka ra chào đón, nơi nào cũng được Ra-ly trình bày một cách 
						rõ ràng, mạch lạc. Đức vua thấy núi rừng quạnh hiu rùng rợn, giữa thiên binh 
						vạn mã mà cũng cảm thấy lạnh lùng – mới thầm phục, thầm thương đức Vê-xanh-ta 
						vô cùng. Càng đi, đức vua càng cám cảnh đời sống cơ cực của gia đình Thái tử mà 
						ngậm ngùi sa lệ. Một ngày đường nữa, họ đến chỗ trú ngụ lưu đày! Gặp nhau, không ai nói với ai được 
						tiếng nào. Đức vua và hoàng hậu nắm tay con mừng mừng tủi tủi. Thái tử và nàng 
						Ma-đà-ly cùng quỳ mọp dưới đất, không ai dấu được nước mắt... Nàng Ma-đà-ly chợt thấy Ra-Ly và 
						Kanh-ha, chạy đến ôm chầm hai con rồi ngất xỉu. Bá quan, cung nga thể nữ cảm 
						động rưng rưng lệ. Lát sau, đức vua và bá quan thỉnh đức 
						Vê-xanh-ta hồi trào lên ngôi thiên tử, nhưng Thái tử từ chối: - Con đã cho voi thần, đụng chạm đến 
						quyền lợi của triều đình, phải bị đuổi vào rừng sâu. Nay trở về thì danh không 
						chính, ngôn không thuận, xin vương phụ xét cho! Đức vua nói: - Voi Thần không chịu bước qua quốc độ 
						biên giới! Các quan thần giữ biên phòng tin về kinh đô cho biết như vậy. Thế là 
						hôm nay con không bị ràng buộc bởi các tội lỗi ngày trước! Đức Vê-xanh-ta cứng cỏi đáp: - Con chưa bao giờ nghĩ rằng mình là 
						kẻ có tội. Con chưa bao giờ làm việc gì do ác niệm dẫn dắt thì thưa vương phụ, 
						tội lỗi kia do từ đâu sanh? Hay là tội lỗi và không tội lỗi do triều đình bá 
						quan xét định? Thảng hoặc, căn cứ trên cái gọi là được quyền lợi và mất quyền 
						lợi của những nhân danh và nhãn hiệu? Lời và nghĩa của đức Vê-xanh-ta sắc 
						bén quá. Các quan đồng quỳ tâu: - Cái đức lớn của Thái tử có thể linh 
						thông được với voi thần, nhưng vì chúng tôi phàm phu mắt thịt, đã không thấy, 
						không biết, lại còn ngu si a dua kết tội oan. Nay cái hiểm họa mất nước không 
						còn nữa, trái lại, các nước lâng bang đã nhờ đức của Thái tử mà tỏ lòng thuần 
						phục. Chúng tôi nghe rằng: dùng đức mà cảm hóa thì an ổn lâu dài, dùng sức mạnh 
						chinh phục chỉ là ngòi thuốc nổ chậm. Nay cái đức của Thái tử đã cảm hóa mấy 
						trăm tiểu quốc, thì cái thế hòa bình thiên hạ không còn là vấn đề nữa. Thái tử 
						còn chờ đợi gì mà không hồi trào lên ngôi Thiên tử, để trị vì trăm họ theo 
						chánh pháp. Chúng tôi từ khi được đức hoàng tôn làm cho sáng mắt, đã trông chờ 
						Thái tử như hạn hán trông mưa! Lượng rồng cao cả lẽ nào không xá tội 
						được cho chúng tôi, khi chúng tôi biết rằng mình là kẻ có tội? Chúng tôi còn có 
						nghe rằng: Bậc trí không ăn năn bằng lời nói, mà phải ăn năn bằng chính hành 
						động phục thiện của mình. Vậy thì, tất lòng gan ruột chúng tôi đã bộc bạch, 
						thiên hạ đang trông chờ triều đại hoàng kim của một đấng Minh quân. Xin khải 
						tấu Thái tử rõ! Lời của bá quan thật cảm động và đáng 
						kính phục. Lòng Thái tử hồ hởi, đẹp dạ vô cùng. Sau ba lần thỉnh mời, Thái tử 
						không còn lý do để từ chối nữa, quỳ lạy đức vua và xin phụng mạng. Thái tử cởi áo da thú, thay chiếc 
						vương bào, lòng bùi ngùi. Ngài đi quanh tịnh thất ba vòng, rồi đứng lặng hồi 
						lâu nhìn chiếc am tranh thân yêu quen thuộc. Thái tử nói: - Này hỡi chiếc mái cỏ nghèo nàn! Mấy 
						năm trời nay ngươi đã đỡ nắng, che mưa cho ta; đã cùng ta trải qua những ngày 
						tháng an lạc, vô vi, thanh tĩnh. Ta từ giã ngươi, trở về kinh đô hoa lệ, bỏ 
						ngươi một mình giữa chốn núi rừng quạnh hiu... Nhưng mà rồi ngươi sẽ được hân 
						hạnh đón chờ bước chân của những vị ẩn sĩ khác. Rồi Thái tử lại nói giữa thinh không: - Tri ân và cảm tạ núi rừng, các vị 
						chư thiên, thọ thần hảo tâm, đã hộ trì, nâng đỡ ta suốt mấy năm lạc trú. Ta sẽ 
						mang theo mình mối tri cảm này. Và nguyện rằng, công đức, phước huệ mà ta có 
						được do sự phục vụ và tu trì, sẽ là của chung, sẽ là pháp nâng đỡ chúng ta cho 
						đến ngày tìm ra đạo cả!
					 Ngay khi ấy, Thái tử nhờ thiên nhĩ 
						thuần tịnh, nghe được chư thiên núi rừng Gri-văng-ka tán thán bằng bài kệ: “- Của chung này là thiện sự! Của chung này là phước huệ! Này hỡi đức Vê-xanh-ta, con của Thệ 
						Sanh và hoàng hậu Trầm Hương! Ngài là chúng hữu tình duy nhất mà 
						chúng tôi sẽ được nhờ nương! Ngài là chúng hữu tình duy nhất mà 
						chúng tôi sẽ được ở trong hào quang xán lạn! Quốc độ của Ngài sẽ là mái nhà an ổn 
						cho chúng tôi nhiều đời nhiều kiếp! Sung sướng thay là được hộ trì! Hạnh phúc thay là được góp phần công 
						đức!” Khi Thái tử trở ra thì đức vua và quan 
						quân đã chuẩn bị sẵn sàng cuộc lễ Đăng Cực (lên ngôi vua) ngay tại chỗ. Thái tử 
						được người ta tắm bằng nước thơm, đội vương miện và mặc long bào. Gần mười muôn 
						người tung hô làm chấn động núi rừng Gri-văng-ka. Lễ tôn vương xong, Thái tử 
						leo lên kiệu rồng, tiền hô hậu ủng xuống núi. Hai ngày sau thì đến vùng đất 
						bằng, đổi long xa, nhắm hướng kinh đô tấn phát. Một quang cảnh diễn ra cực kỳ tưng 
						bừng và náo nhiệt khi tân vương, Thái Thượng hoàng và đoàn ngự giá đến biên địa 
						Kế-tư-đà. Trầm hương đâu mà nghi ngút, ngào ngạt cả không gian! Bông hoa đâu mà 
						chưng bày đầy cả đường sá. Người người đâu mà hàng hàng lớp lớp dài mấy do 
						tuần. Rồi nào là ngựa xe, cờ xí, đèn sao, cổng hoa rộn rã từ làng này sang làng 
						khác. Tân vương đứng trước long xa cho mọi người chiêm ngưỡng. Nhìn dân chúng 
						mừng vui ngài nở nụ cười sung sướng. Về thành, ngoài mấy muôn ngự vệ túc 
						trực sẵn, Tân vương còn thấy những đoàn sứ giả từ các tiểu quốc đồng đến lạy 
						mừng. Ngoài ra, một đoàn bạch tượng to lớn, bệ vệ, dẫn đầu là voi thần đến phủ 
						phục bên chân ngài. Tân vương đang ngạc nhiên thì sáu người Bà-la-môn độ nọ 
						xuất hiện. - Khải tấu Tân quốc vương! Họ quỳ tâu 
						- Xứ Linh Ca chúng tôi từ khi được Voi Thần, lòng nóng nảy như ngồi trên lò 
						lửa. Chúng tôi thiếu phước nên Voi Thần không phụng mạng mỗi lần động binh. Từ 
						khi Thái tử bị lưu đày vào rừng sâu, tệ quốc, trăm người như một đều nghiêm 
						khắc lên án bản triều. Nay Voi Thần xin hoàn về cố chủ. Và xin tạ lỗi bằng một 
						trăm con bạch tượng oai hùng. Xin Tân vương hoan hỷ xá tội và dụng nạp lễ vật! Đức Vê-xanh-ta gật đầu hài lòng. Ngài 
						đến bên Voi Thần như đến với người bạn cố tri, đưa tay vuốt ve, vỗ về thân ái. 
						Voi Thần chợt đưa vòi quấn Ngài bỏ lên lưng, rồi đột nhiên rống lên một tiếng, 
						nhấc mình vọt cao, bay quanh thành ba vòng giữa tiếng hoan hô như sấm động của 
						muôn triệu người ngưỡng mộ. Trời Sakka lúc ấy ngự giữa đám mây ngũ 
						sắc – Ngài cho một trận mưa bảy báu xuống đầy tràn cung điện – làm cho bá quan, 
						bá tánh lạ lùng chắp tay giữa hư không xá lạy không ngớt. Thế là Đế Thích thiên 
						vương đã thành tựa lời hứa khả của ngài. Lại ra lệnh cho chư thiên trong quốc 
						độ từ nay phải tích cực hộ trì đức vua, để ngài thực hành chánh pháp cho có 
						hiệu quả.
					 Đức Vê-xanh-ta sống đến một trăm hai 
						mươi tuổi thì thăng hà. Ngài sinh lên cung trời Tusita (Đâu-suất), có tên là 
						Dusita-devaputta. Những người thực hành theo giáo huấn 
						của ngài đều được sinh lên Đao Lợi thiên cung. Đức Vê-xanh-ta là tiền thân đức Thích 
						Ca vậy. 
						
						 
							
								| Phụ Lục |  
								| - Lão Bà-la-môn | : | Tiền thân Đề-bà-đạt-đa |  
								| - A Mị | : | Nàng Chinh-cha |  
								| - Thợ săn | : | Xa-nặc |  
								| - Đạo sĩ Na-lợi-ka | : | Đức Xá-lợi-phất |  
								| - Trời Đế Thích | : | Đức A-nậu-đà-la |  
								| - Trời tạo tịnh thất | : | Đức Mục-kiền-liên |  
								| - Ma-đà-ly | : | Nàng Da-du-đà-la |  
								| - Vua Thệ Sanh | : | Vua Tịnh Phạn |  
								| - Hoàng hậu Trầm Hương | : | Lệnh bà Mà-yà |  
								| - Ra-ly | : | La-Hầu-La |  
						
							  
						 
 Hoàng tử Nan-đà
 
 Nghe tin Đức Phật trở về Ca-tỳ-la-vệ, 
						trái tim của hoàng tử Nan-đà đập lên rộn rã. Đã lâu lắm rồi, người anh tôn quý 
						của chàng, bỏ vương vị ra đi, lang thang lê gót khổ hạnh; nghe đâu bây giờ đã 
						tìm ra con đường vô thượng. Hoàng tử Nan-đà không bao giờ có thể 
						quên được người anh trai cao cả, uy nghiêm đó. Chàng đã học được nơi con người 
						ấy từ cách đi, dáng đứng, nụ cười. Nhất là sự hiểu biết thâm sâu bao giờ cũng 
						dường như toả ra nơi vầng trán thẳng và mịn. Rồi thể hiện tròn đầy nơi tình 
						thương vô bờ bến lẫn cả đức độ bao la nữa. Đức Phật đã trở về, và vài ba hôm sau 
						sẽ có lễ thành hôn của chàng cùng công nương Kiều-dạ-lý (Kalyàni)! Ôi ! Thế là 
						niềm vui ở nơi chàng trong sáng và phất phới như mảnh lụa trắng, như nụ cười 
						của thiên thần, như cánh đào mùa xuân phô màu hồng thắm. Mảnh vương bào chợt tung bay trong ánh 
						nắng ban mai tinh anh hồng ngọc, hoàng tử Nan-đà hối hả thúc con thần mã để báo 
						tin mừng đến vị hôn thê. - Hỡi con hoàng anh kiều diễm của ta! 
						Chàng đắm đuối nhìn Kiều-dạ-lý rồi nói – Người anh cao cả của chúng ta đã về 
						đến lâu đài của vương phụ. Hãy cùng ta đến thăm người. - Này chàng! Kiều-dạ-lý nắm tay hoàng 
						tử Nan-đà say sưa nói – Này hỡi con voi chúa với đôi ngà vàng kiêu hùng và mỹ 
						lệ của em! Không nên đến thăm vị sa môn tầm thường ấy. Chẳng có gì tốt đẹp và 
						vinh hạnh cho đôi ta đâu. Nói xong, Kiều-dạ-lý chớp chớp đôi mắt 
						xanh màu hồ thuỷ, gợn tia lửa nồng nàn như nắng ấm của cung trời. Hoàng tử 
						Nan-đà chợt thấy lòng mình mềm yếu và ẻo lả như tơ. Chàng chết đuối giữa biển 
						tình của thiên nữ Dạ-ma mất rồi. Ngày cử hành hôn lễ đã đến. Trong lúc 
						mọi người rộn rịp mang lễ vật đến chúc mừng cho đôi tân giai nhân, thì Đức Phật 
						hiện ra rực rỡ và đẹp đẽ như chúa phượng hoàng, chói ngời hào quang ngũ sắc. Cả dòng họ Thích Ca vốn kiêu căng, ngã 
						mạn nhưng bây giờ cũng tự động quỳ cả xuống. Uy nghi như chúa sơn lâm, Đức Phật cất 
						tiếng nói: - Như Lai cũng đến dự lễ. Như Lai cầu 
						nguyện hạnh phúc cho tất cả mọi người. Hoàng tử Nan-đà sững sờ nhìn anh. Nhìn 
						không chớp mắt, tự nghĩ: - Đây là vị Phật? Ôi cao cả xiết bao! 
						Ở trước ngài, vua núi là đỉnh Hy Mã Lạp Sơn kia cũng phải cúi đầu xuống thấp. Sau khi thọ thực xong, Đức Phật trao 
						bát cho hoàng tử Nan-đà, nói lời phúc chúc rồi đứng dậy ra về. Hoàng tử Nan-đà kính cẩn ôm bát lặng 
						lẽ đi theo sau, tự nghĩ: - Đến cửa, Đức Cao Cả sẽ thâu bát lại. Nhưng không, Đức Thế Tôn vẫn đi thẳng. 
						Vì kính trọng anh, hoàng tử Nan-đà không dám thưa. Cho đến khi rời khỏi cung 
						điện khá xa, Đức Thế Tôn vẫn không hề quay lại. Hoàng tử Nan-đà tự nghĩ: - Rồi đây, khi nhớ lại, ngài sẽ thâu 
						bát. Ta hãy đưa ngài đến chỗ tạm cư trong vườn Ngự Uyển. Khi hoàng tử Nan-đà vừa rời khỏi cửa, 
						nàng Kiều-dạ-lý sợ hãi trông theo, linh tính như báo trước cho nàng hay một 
						điềm chẳng lành nào đó về chuyện hạnh phúc lứa đôi. Với hàng lệ ngọc lóng lánh 
						tuôn rơi, với xiêm y tóc tai rối bời, Kiều-dạ-lý phủ phục bên đường, cất tiếng 
						gọi não nùng: - Hỡi hoàng tử ngọc ngà châu báu của 
						em! Hãy trở lại! Hoàng tử Nan-đà nghe từng âm thanh 
						quấn quýt, thiết tha, vương vấn đọng lại giữa không gian. Tâm chàng dường như 
						bị bao phủ trọn vẹn trong chiếc lưới của vị thần tình ái; những mũi tên xé gió 
						buốt đau đến tận tâm can. - Hỡi con voi chúa có đôi ngà vàng của 
						em! Đã đến giờ xây dựng ngôi rừng diễm lệ của đôi ta! Hoàng tử Nan-đà một chân bước tới, một 
						chân bước lui. Nhưng vị Đại Sa-môn kia, Đức Thế Tôn, người anh cao cả, bậc 
						trưởng thượng đáng kính ấy vẫn như chúa sơn lâm, từng bước, từng bước uy nghi, 
						an nhiên tự tại. Hoàng tử Nan-đà bịt chặt tai lại, cắn răng, hối hả bước theo. 
						Tự nghĩ: - Cũng không muộn gì. Hãy đưa Đấng Tự 
						Tại đến nơi đến chốn, dâng bát cho ngài, trở về còn kịp giờ cử hành hôn lễ. Và cứ thế, hoàng tử Nan-đà lủi thủi 
						theo chân Đức Phật đến ngự viên. Sau khi Đức Thế Tôn rửa chân, ngồi 
						kiết già trên toà sư tử, quay lại nói với hoàng tử Nan-đà – khi ấy vẫn đang 
						lặng lẽ ôm bát đứng hầu một bên. - Này Nan-đà! Ngươi có muốn sống đời 
						xuất gia với Như Lai không? Hình ảnh Kiều-dạ-lý kiều diễm lại đến 
						với chàng. Ôi! Vóc ngọc, dáng ngà! Ôi! Đôi mắt biếc, vòng tay mềm và nụ cười 
						như chén rượu say của thần hoan lạc. Nàng đấy! Nàng hiện rõ trong chàng, lả 
						lơi, mời mọc đến ngất lịm cả tâm hồn. Hoàng tử Nan-đà chợt thấy mình thở hổn 
						hển, trán toát mồ hôi, mệt lả. Khi trái tim đã hết hồi hộp, hoàng tử 
						Nan-đà trấn tĩnh lại, trước mặt, Đức Phật vẫn an nhiên, trầm lặng, trên môi 
						ngài dường như mãi nở nụ cười bất diệt. Như con beo con đứng trước chúa sơn 
						lâm, hoàng tử Nan-đà chợt quỳ sụp xuống: - Con... con... ưng thuận đời sống 
						xuất gia!Tỷ-kheo Nan-đà không tìm thấy chút lạc thú nào trong đời sống khước 
						từ. Tinh thần chàng mỗi lúc mỗi mỏi mòn, suy nhược. Hình bóng vị tân nương kiều 
						diễm đã chiếm trọn tâm hồn chàng. Suốt ngày, suốt đêm, vị tân tỷ-kheo kia sống 
						trong cơn mộng trùng trùng của mơ tưởng; bỏ cả ngủ, quên cả ăn, bần thần dã 
						dượi. Hôm kia dường như không còn chịu đựng 
						nổi nữa, Nan-đà tâm sự với đạo bạn: - Này chư pháp hữu! Ích gì đời sống 
						xuất gia phạm hạnh này? Tôi bất mãn với nó. Tôi sẽ từ chối phẩm hạnh thanh cao 
						để cam chịu đời sống thấp hèn, làm người cư sĩ. Đức Phật cho gọi Nan-đà đến hỏi sự 
						thật. Nan-đà thừa nhận sự suy nhược thái quá của mình và tỏ ra lo ngại đến đời 
						sống cô quạnh của Kiều-dạ-lý công nương. Biết tâm của vị thánh tương lai đang 
						bị lửa ái dục đốt cháy mê loạn, Đức Phật bèn nói: - Nan-đà! Hãy cùng với Như Lai đi chơi 
						một chút cho khuây khỏa. Ta sẽ đến thăm một cõi trời. Đức Phật liền dùng oai lực thần thông 
						đưa tỷ-kheo Nan-đà đến cung trời Đẩu Xuất (Tusita). Trên đường, khi đi qua một khu rừng, 
						Nan-đà để ý thấy một con khỉ cái đã bị mất tai, mũi và đuôi, đang cố bám lấy 
						thân cây cháy trơ trụi giữa đám đất vừa bị thiêu rụi. Đến cung điện huy hoàng rực rỡ của đệ 
						tứ Thiên Đường, nhạc trời trỗi lên lồng lộng giữa hư không, những cánh hoa mạn 
						đà trải đầy trên lối đi bạch ngọc, óng ánh trân châu và mã não. Một muôn chư 
						thiên lấp lánh ánh sáng, phục sức diễm lệ, kiêu kỳ, phơi phới hiện ra chào đón 
						đấng Thiên Nhơn Sư. Và kìa! Mười muôn thiên nữ sắc đẹp lộng lẫy làm lu mờ nhật 
						nguyệt, đang e thẹn núp sau những đám mây hồng... Khi đến tòa lâu đài với năm trăm bảo 
						tháp kim cương, hội tụ giữa hư không lóng lánh muôn màu, Nan-đà thấy một chiếc 
						ngai rực rỡ bảy báu, không có chư thiên ngự, năm trăm thiên nữ thân ngọc yêu 
						kiều đứng hầu một bên, bèn rụt rè hỏi: - Chiếc ngai vô vàn trân trọng kia sao 
						chưa có vị chư thiên diễm phúc nào an ngự, mà lại để trống không như vậy? Một thiên nữ tủm tỉm cười đáp: - Chúng thiếp chờ đợi cung nghinh một 
						vị tỷ-kheo đang tu hành trong giáo pháp của Đức Thế Tôn. Nan-đà thót mình hỏi: - Vị nào vậy? - Vị nào tinh tấn tu hành – Thiên nữ 
						cất giọng lảnh lót đáp – nghe nói là tỷ-kheo Nan-đà! Rời khỏi tòa lâu đài, quả tim Nan-đà 
						như còn nhảy loạn trong lồng ngực. Trên đường trở về hạ giới, Đức Thế Tôn 
						hỏi: - Này Nan-đà! Những thiên nữ tại Thiên 
						đàng thứ tư, nhất là thiên nữ nơi năm trăm ngôi bảo tháp; so với công nương 
						trân quý Kiều-dạ-lý, ai đẹp, mỹ miều hơn? Nan-đà đỏ mặt ra đến mang tai, cúi đầu 
						đáp: - Bạch Đức Thế Tôn! So với các vì 
						thiên nữ, dẫu là thiên nữ mạt hạng, thì Kiều-dạ-lý công nương tựa như con khỉ 
						cái bị cháy, đang cố bám lấy thân cây nơi khu rừng nọ! Đức Thế Tôn nở nụ cười trong tâm nói: - Vậy này Nan-đà! Hãy tinh tấn, hãy cố 
						gắng! Như Lai bảo đảm rằng nếu Nan-đà kiên trì thực hành giáo lý, thì một ngày 
						kia, Nan-đà cũng đạt được những công nương mỹ lệ như vậy. Nan-đà như một đứa trẻ được khuyến 
						khích, hớn hở đáp: - Nếu vậy, đệ tử sẽ lấy làm thỏa thích 
						mà sống đời phạm hạnh cao thượng! Từ đó, khi ở tịnh đường, khi thì nơi 
						gốc cây, khi thì tại khu rừng vắng, Nan-đà thiền định rất mực tinh tấn. Các vị 
						tỷ-kheo khác biết chuyện, bàn tán với nhau rằng: - Tỷ-kheo Nan-đà “người làm thuê”. 
						Tỷ-kheo Nan-đà với mục đích phạm hạnh là đạt cho được năm trăm vì thiên nữ và 
						chiếc ngai vàng thất bảo! Chuyện đến tai, Nan-đà nhận thấy có 
						một cái gì thấp kém, hạ liệt trong mục đích của mình, nên cảm thấy xấu hổ vô 
						cùng. Đức Thế Tôn biết tâm của vị tân 
						tỷ-kheo, bèn cho gọi đến, rồi nói: - Này Nan-đà! Hôm nay, hãy cùng với 
						Như Lai đi chơi một miền xa, đến một cảnh giới đau khổ! Đức Phật dùng oai lực thần thông đưa 
						Nan-đà vào tầng địa ngục. Dịp này vị tân tỷ-kheo được cơ hội chứng kiến tận mắt 
						những hình ảnh hãi hùng. Đây là một cột trụ đồng đỏ lửa hừng hực, các tội nhân 
						trần truồng phải ôm siết để leo lên, bên dưới những con quỷ mặt trâu đầu ngựa 
						cầm những chiếc đinh ba nhọn hoắt đâm suốt qua lưng, da thịt cháy xèo xèo. Nọ 
						là những chiếc cưa, cưa tội nhân ra làm mấy đoạn, gan ruột đổ lòng thòng. Và 
						thôi, nào là bàn chông lửa cháy ngùn ngụt, tội nhân máu me, giãy đành đạch, la 
						hét kêu gào; nào là những cái cối đồng to lớn, đưa lên đưa xuống nhịp nhàng 
						những chiếc chày to, bên trong là những tội nhân xương thịt bầy nhầy... Nan-đà 
						đi đến một lò nấu người. Những chiếc vạc to lửa cháy ngụt trời, bên trong dầu 
						sôi sùng sục. Những con quỷ mặt xanh, mũi đỏ, thò tay quăng tội nhân vào từng 
						chảo một. Nơi chảo khác, dầu cũng đã sôi như sóng cuộn, lại không có tội nhân. 
						Tỷ-kheo Nan-đà hỏi lý do, quỷ đáp: - Để dành cho một vị tỷ-kheo đang thối 
						thất trong giáo pháp của Đức Thế Tôn. Nan-đà thót mình lên, hỏi: - Ai vậy? - Cho vị nào đắm say sắc dục, tưởng tư 
						ái lạc – Quỷ đáp – Nghe nói là tỷ-kheo Nan-đà. Từng chân tơ kẻ tóc đều dựng đứng cả 
						lên, da thịt nổi gai ốc, một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng. Nan-đà quày quả 
						theo Đức Thế Tôn trở lại trần gian mà cả tâm thần còn bủn rủn. Nan-đà phủ phục bên chân đấng Giác 
						ngộ: - Bạch Đức Thế Tôn! Xin ngài hãy hủy 
						bỏ lời đảm bảo với đệ tử về chuyện các vị thiên nữ diễm kiều. Biết tâm vị tân tỷ-kheo này đã đầy đủ 
						hai pháp tàm và quý (hổ thẹn và ghê sợ). Đức Thế Tôn dạy rằng: - Này Nan-đà! Cho đến chừng nào ngươi 
						không còn bám víu vào những sự vật thế gian! Chừng nào ngươi đã vĩnh viễn viễn 
						ly dục lạc, nội tâm hoàn toàn thanh tịnh như viên ngọc trong suốt không tỳ vết 
						ô nhiễm... thì lúc ấy Như Lai hủy bỏ lời hứa cũng không muộn gì! Nói thế xong Đức Phật đọc lên bài kệ: 
							"Đau khổ và khoái lạc Bùn nhơ đáy mặt hồ Hương hoa sen tỏa ngát Cho người diệt si mê Khoái lạc và đau khổ Xúc động tâm phàm phu Người vĩnh ly nhiễm ái Hoa sen thắm mặt hồ!" Từ đó tỷ-kheo Nan-đà gạt bỏ mọi tư 
						tưởng xấu xa, kiên trì tu tập, không bao lâu đắc quả A-la-hán. Sau khi thọ hưởng hạnh phúc giải 
						thoát, ngài tri ân sâu xa đến phương pháp giáo huấn thù thắng của Đức Thế Tôn, 
						cảm thán thốt lên bài kệ: 
							"Giữa ao tù vô tận, Tâm tôi được vớt lên Đức Thế Tôn vô thượng Giúp tôi thoát não phiền." Tiếp theo   |