Trung Tâm Hộ Tông  Trang Chủ



Họ Đã Nghĩ Như Thế

Tuyển tập các bài viết những đệ tử phương Tây
của Ngài Ajahn Chah

Dịch giả: Giác Nguyên


Ðại đức Tiradhammo

Pháp hỷ tối thắng


Tiểu sử:

Ðại đức Tiradhammo, thế danh Ian Adams, sinh năm 1949 tại New Westminster, British Columbia, Canada. Sau khi theo học cơ khí, địa chất và địa lý tại Ðại học British Columbia, đại đức đã thực hiện một chuyến du lịch sang Trung Ðông rồi vòng về Palistan và Tích Lan. Tại đây, đại đức đã sống qua nửa tháng ở Island Hermitage rồi đến hàng tháng trời thiền định tại Trung tâm Kandu-boda với Tỳ kheo Sivali.

Sau đó trở về Canada, hoàn tất các học vị đại học đang dở dang, đại đức đi sang Ấn Ðộ rồi cuối cùng đến Thái Lan. Năm 1973 đại đức thọ giới sa di. Một năm sau, đại đức thọ giới tỳ kheo tại chùa Meung Man ở Chiang Mai với ngài Tong. Năm 1975, đại đức dời sang ở chùa Pah Pong rồi sau đó là chùa Pah Nanachat để được ở gần Ngài Ajahn Chah. Ðại đức đã từng thực hiện nhiều chuyến xuyên rừng theo hạnh đầu đà từ suốt miền Ðông bắc Thái Lan đến tận những dãy núi ở Chiang Mai, và đã từng có cơ hội gặp gỡ với nhiều vị thiền sư ẩn lâm lừng danh.

Năm 1982, đại đức Tiradhammo được mời sang Anh Quốc để hoằng pháp. Ðại đức đã sống ở chùa Chithurst hai năm rồi sau đó là ba năm ở Northumberland để xây dựng tịnh xá Harnham. Hiện đại đức đang là trụ trì tại một ngôi chùa mới kiến tạo tại Bern, Thụy Sĩ và cũng đang biên soạn một cuốn sách về luật nghi Tỳ kheo.

Bài viết sau đây được phỏng lại từ một bài pháp của đại đức trong một khóa thiền mười ngày tại Thụy Sĩ vào tháng 03 năm 1988. Nội dung thời pháp là nói về Thất Giác Chi mà ở đây chỉ chọn riêng phần Hỷ Giác Chi. Nội dung bài viết có thể được tóm tắt trong mấy dòng sau đây: "Ðược an lạc, chúng ta luôn có đủ tâm lực để đi tìm thêm những gì mới mẻ hơn. Nhưng nếu đời sống đối với ta chỉ là cái gì đó khổ ải, chắc chắn ta sẽ bị chùn chân".


Pháp Hỷ Tối Thắng

Có nhiều người trong số chúng ta đã rất sai lầm khi nghĩ rằng cuộc tu là một nếp sống ép xác để tống khứ ra khỏi bản thân mình những gì là cấu trược bất tịnh nhằm hướng đến một cảnh giới cao khiết. Một điều hết sức hiển nhiên là nếu cứ nghĩ về bản thân mình bằng cái tư tưởng như vậy chúng ta sẽ dễ dàng rơi vào một tình trạng tâm lý tạm gọi là mặc cảm tội lỗi. Từ đó dầu trong những phút giây hướng mình đến trí tuệ giải thoát, ta cũng chỉ bắt gặp ở chính mình những đối kháng và mâu thuẫn, thậm chí ngộ nhận.

Từ lập trường này, lý tưởng tu tập của chúng ta trước sau vẫn chỉ là Lý Tưởng. Chúng ta cứ mãi hoài phân biệt một cách lý tính rằng: "Tôi ở đây và Níp Bàn trên kia, Tôi chỉ là một mớ hỗn độn còn Níp Bàn là tất cả những gì thanh tịnh và sâu thẳm hoàn toàn cách biệt với Tôi". Phải nhận rằng đó là những vọng niệm toan tính. Trong khi với một trình độ tu tập chín chắn, trí tuệ giác ngộ lại có ý nghĩa là một sự thức tỉnh đối với chính sự ngộ nhận. Trí tuệ của người Phật tử phải là sự tỉnh thức trước cái Vô Minh. Vấn đề quan trọng trong cuộc tu không phải là sự hiểu biết về trí tuệ mà là sử dụng trí tuệ để hiểu biết cái vô minh!

Toàn bộ giá trị của Pháp môn Thiền Quán hoàn toàn nằm ở chỗ ta biết nhận thức cái bản chất như thật của từng Hiện Hữu đang xảy ra Tại Ðây và Bây Giờ. Chúng ta không cần phải nhọc sức đào xới để kiếm tìm một trí tuệ giải thoát nào đó như người ta trông chờ một cơ may xảy đến cho mình. Chúng ta chỉ cần tỉnh thức trong từng khoảnh khắc có mặt của mình để hiểu được thế nào là kiếp sống. Chỉ cần ta hiểu được nó là cái gì, chỉ một lần thôi thì coi như ta đang bắt đầu vượt qua nó đấy. Còn như nếu chúng ta cứ dại khờ cố vượt qua nó trước khi mình chưa thực sự hiểu được nó thì cái chúng ta đạt được chỉ là một thứ ảo vọng tù đày.

Ngài thiền sư Ajahn Chah thường nói rằng chúng ta phải biết xé nhỏ ra mọi sự để giải quyết trước khi bận tâm đến cái trắc trở của chúng. Khi ta nhìn thấy được mọi sự như là những gánh nặng thì cũng có nghĩa là ta đã nhận ra chân lý về cái khổ. Có thấy được cái khổ, chúng ta mới có thể phủi tay tất cả để cảm nhận được cái gì là sự nhẹ nhàng thanh thản thật sự. Ðó là một sự cảm nhận trung thực và hồn nhiên mà kinh điển Phật Giáo vẫn gọi là Hỷ Giác Chi.

Chữ Pàli để gọi tiếng Hỷ là Pìti. Thuật ngữ này có nhiều cách dịch bởi có rất nhiều hình thái tâm lý vẫn được gọi là Hỷ. Chẳng hạn cũng có loại Hỷ được hình thành từ một cái nhìn hoán chuyển đối với đau khổ để nhắm đến Ðạo Quả giải thoát thì đó cũng là một cách Hỷ.

Trong cuộc tu của chúng ta có thể bằng vào nhiều phương cách khác nhau để có được những niềm hỷ lạc sai biệt. Chẳng hạn đối với riêng tôi, chỉ cần nghĩ đến Hỷ tôi cũng đã thấy mình được an lạc rồi. Bản thân của Hỷ Giác Chi và chức năng của nó thường bị người ta lẫn lộn khi bàn về đời sống nội tâm.

Ở đây ta phải hiểu rằng Hỷ Lạc không chỉ là thứ niềm vui có được từ những cơ hội. Niềm vui kiểu đó mong manh lắm. Hỷ Giác Chi mà tôi muốn nói ở đây phải là một thứ kinh nghiệm tâm linh giúp ta trải rộng đời sống của mình ra một cách tỉnh thức, Khi có được một niềm vui như vậy, coi như chúng ta đã sẵn sàng có thể khám phá biết bao điều mới lạ. Nói khác đi, nếu ta cứ nghĩ về đời sống bằng những ám ảnh u tối và bi quan thì chúng ta không thể nhìn thấy bất cứ cái gì hết.

Chúng ta cứ thử nhìn xem mấy đứa trẻ con thì biết, chúng có một thái độ khám phá và tò mò một cách rất hồn nhiên nên nhờ vậy, cái gì cũng có thể đem lại cho chúng những thú vị và đời sống của chúng cũng nhờ vậy mà thanh thản hơn. Trong khi đó đối với những người lớn như chúng ta thì đáng buồn thay, ai cũng muốn đem một cái nhìn thông minh nhất, uyên bác nhất để mà nhìn ngắm mọi vật. Và chính vì vậy chúng ta chỉ mỗi lúc một thêm nặng lòng và nhọc trí với hàng đống khái niệm nặng nề, tù túng. Chẳng hạn như khi nhìn thấy một đóa hoa thì chúng ta cứ có thói quen đem hết những kinh nghiệm quá khứ của mình về các giống hoa để đánh giá nó với một thái độ cứng nhắc, tự đại. Mà thực ra mọi đóa hoa trước mặt chúng ta luôn là một cái gì đó độc lập: Ðóa hoa ở đây và bây giờ đâu phải là đóa hoa của những thời điểm khác mà ta đã nhìn thấy.

Nếu chúng ta biết lắng nghe một tiếng chim hót bằng tất cả tâm hồn trong sáng và tỉnh thức thì ta đâu có sự phân biệt tiếng hót đó với một âm thanh nào khác để phải đi đến những đánh giá tiêu cực không cần thiết. Thái độ lắng nghe bằng sự tỉnh thức trực tiếp hoàn toàn khác hẳn với sự lắng nghe thông qua một tư tưởng phân biệt. Khi ta biết lắng nghe một cách đúng mức như đã nói thì mọi âm thanh đều luôn là mới mẻ và sinh động dù trước sau, trong sự tỉnh thức của chúng ta lúc này, âm thanh chỉ là âm thanh và sự lắng nghe chỉ là sự lắng nghe. Có điều là chúng được ghi nhận một cách rõ ràng rằng đó là những gì đang xảy ra ở đây và lúc này. Ðó là tất cả sự khác biệt hết sức quan trọng giữa hai thái độ lắng nghe bằng sự tỉnh thức với thực tại và bằng thứ kinh nghiệm tật nguyền của quá khứ.

Nếu chúng ta cứ tiếp tục trầm luân trong những khái niệm, thì cho đến suốt đời, ta vẫn chỉ có được những độc thoại sáo rỗng: Con chim đang hót, nụ hoa trên đầu, người ấy đang nói chuyện, tôi muốn người ta im lặng, ngọn nến đang cháy... để rồi cứ nghĩ mình đã thấu suốt được đời sống. Chúng ta cứ tiếp tục treo mãi trong đầu mình những khái niệm máy móc và chúng mãi mãi tồn tại theo một chiều ý thức chật hẹp thông qua cái thứ ký ức đã được biến thành ngôn ngữ vô vị như những điệp khúc tẻ nhạt. Nếu cả một cuộc đời chỉ biết qua bằng một thái độ ý thức như vậy, cái mà chúng ta đạt được chắc chắn chỉ là những ngẫu tượng, những con búp bê vô hồn lạnh lẽo.

Cái được gọi là bản chất của vạn vật chỉ được chúng ta học hỏi, hiểu biết rồi diễn đạt thông qua ngôn ngữ mà thôi. Từ đó, không ít người trong chúng ta đã thành ra những tù nhân bị giam hãm trong cái ngục tù giới hạn của ngôn ngữ và khái niệm. Phải nói rằng chính nhờ thiền định, chúng tôi đã có được một khả năng chuyển mình sâu thẳm từ nỗi ám ảnh của văn hóa Tây Phương. Chúng ta hãy nổ lực để có thể "Hiểu biết" mà không bị mắc vào những khái niệm xơ cứng, để có thể cảm nhận bản chất như thật của mọi sự bằng một trí tuệ trực quan nhưng vẫn chính xác.

Ðối với những người đã trót nặng nợ với những tri thức chữ nghĩa họ có thể xem đây là thái độ chối bỏ nông nổi. Chúng tôi không muốn lấy chữ nghĩa để bàn cãi với nhau. Chúng tôi muốn mọi người hãy có một thứ tiếng nói nội tâm của riêng lòng mình. Dĩ nhiên là chúng ta không thể khước từ cái ngôn ngữ đối giao trong cộng đồng nhân loại với nhau nhưng ta cũng phải nhớ là thứ ngôn ngữ giao tiếp đó không hề là cái "sự thật" mà chúng ta vẫn đi tìm. Hai thứ đó khác nhau nhiều lắm.

Phải nhận rằng cái không gian sống im lặng không ngôn từ mà chúng ta có được, nó nhỏ hẹp quá. Xã hội đã không cho phép chúng ta được rộng rãi hơn. Chữ nghĩa, ngôn ngữ của loài người đã trở nên ồn ào đến mức không chịu nổi và chính những ngày này là cơ hội để chúng ta lắng nghe tất cả. Ðây cũng là thời gian chúng ta có được một chỗ sống im lặng để tu tập và nuôi dưỡng những gì là cần thiết cho cuộc tu của mình. Kỳ diệu biết bao nếu ai trong chúng ta cũng quay lại với một phần tuổi thơ ngày xưa để không còn bị tù túng trong cái thế giới ngôn ngữ chấp thủ của người lớn!

Chúng ta thử nhớ lại đi. Trẻ con thoạt đầu không hề biết gì tới chuyện từ ngữ. Gặp một cái hoa, chúng sẽ hỏi ta đó là cái gì. Nếu được trả lời rằng đó là một cái hoa thì chúng lập tức chấp nhận ngay và coi như chúng đã bắt đầu đi vào cuộc đời với cái khái niệm và tên gọi về cái hoa để có thể hội nhập với cộng đồng người lớn quanh nó mà ai cũng đã quen sống và giao lưu bằng những khái niệm và ngôn ngữ. Trong khi đó, khi một đứa bé hỏi về tên gọi một đóa hoa, chúng ta có thể trả lời với nó rằng "Nó được mọi người gọi là cái hoa nhưng cái hoa không phải chỉ là cái tên gọi đó. Nó là một tạo vật trong thiên nhiên và cũng có riêng một thuộc tính, bản chất, cấu tạo chẳng giống cái khác". Dĩ nhiên cách trả lời đó không thích hợp đối với trẻ con nhưng chắc chắn người lớn chúng ta ai cũng thấy rằng hiểu được cái "nằm bên kia ngôn từ" quả là một điều thú vị. Nói như vậy có nghĩa là chúng ta luôn có thể mang trả lại đời sống mình những giá trị thật sự của biết bao cái đẹp mà bản thân đã thả trôi theo ngôn ngữ. Chúng ta hiện đang giữ trong tay chiếc chìa khóa thần kỳ có thể giúp mình vượt thoát cái nếp sống đã thành lề thói u mê!

Niềm vui hay những thú vị có được từ trí tuệ tu tập luôn có thể được nuôi lớn theo thời gian cho ngày một sâu sắc hơn. Vượt lên khỏi giai đoạn hứng thú (pìti) của buổi đầu tu học, ta còn có một thứ hạnh phúc khác vi tế, cao cấp hơn - đó chính là sự tịnh lạc (sukha). Sự tịnh lạc hay niềm hạnh phúc ở đây không chỉ có nghĩa đơn giản là đối lập với đau khổ. Bởi cái mà chúng ta gọi là hạnh phúc theo nghĩa đời thường, thì chúng chỉ chập chờn ẩn hiện chóng vánh như một cánh bướm. Cái đó thật ra chưa đủ để gọi là tịnh lạc như ở đây muốn nói. Khi đời sống mỗi người hãy còn bị gò bó trong quá nhiều những khuôn khổ thì hạnh phúc cứ như là một vấn đề nghiêm trọng, nặng nề, đắt đỏ. Trong khi đó sự an lạc trong đời sống tu tập thì không phải vậy. Ðó là một tâm thái thỏa hiệp với tất cả mọi biến động, mọi hoàn cảnh, sự cố một cách bao dung, độ lượng. Hai từ này ở đây phải được hiểu theo nghĩa từ nguyên. Sự an lạc hay tịnh lạc trong cuộc tu, đặc biệt với pháp môn thiền định, là cái cảm giác bình ổn, thấm nhuần để có thể đem lại cho hành giả một khả năng tâm lực như ý: Kiên định và Thanh thản.

Ta hãy cho tiếng Tịnh lạc (sukha) một định nghĩa cụ thể. Ðó chính là sự Tự Tại, một thứ hạnh phúc không thể do cưỡng cầu mà có. Nó tự đến trong từng giây phút tu học chín chắn. Chính nó giúp ta nhận ra sự hiện hữu của mình trong mỗi khoảnh khắc, những khoảnh khắc ngọt ngào, cao khiết.

Hãy cố tìm xem niềm tịnh lạc đó đến với mình từ điểm nào, cái gì giữ chân nó và cái gì khiến nó mất đi. Thực hiện được điều này cũng có nghĩa là ta đang tu tập Hỷ Giác Chi, một trong bảy nhân tố của trí tuệ giác ngộ, mà trước hết và ít nhất nó cũng giúp ta có được một đời sống tỉnh thức giữa cuộc đời đang ngủ say trong mộng mị.

-ooOoo-

Ðại đức Viradhammo

Tri kiến như thật


Tiểu sử:

Ðại đức Viradhammo (Vitauts Akers) sinh năm 1947 tại Esslingen, Ðức Quốc. Lúc lên năm tuổi, đại đức theo gia đình sang sống bên Toronto (Canada). Tuổi trưởng thành, đại đức theo học ngành cơ khí ở đại học Toronto nhưng rồi do chán nản nếp sống máy móc, đại đức đã quay về Ðức làm việc, lúc đó là năm 1969. Do điều kiện sống đưa đẩy, đại đức đã trôi dạt qua tận Ấn Ðộ và gặp được sư sa-di Bodhesako (đã qua đời). Sư Bodhesako giới thiệu với đại đức các tác phẩm Phật học của Ngài Nàvavìra. Chính từ nhân duyên này, đại đức đã đi qua Thái Lan rồi tu sa di tại chùa Mahathat, sau đó, năm 1974, đại đức đã thọ giới tỳ kheo tại chùa Pah Pong và trở thành một trong những vị sư Tây phương đầu tiên đến sống ở chùa Nanachat.

Sau bốn năm tu học ở Thái Lan, đại đức Vìradhammo đã trở về Canada và Ðức để thăm viếng gia đình (1977). Rồi cũng như trường hợp đại đức Tiradhammo, chưa kịp về lại Thái Lan thì đại đức Vìradhammo đã được Ngài Ajahn Chah cử sang tiếp tay các huynh đệ ở Anh Quốc hoằng pháp. Ở cả ba ngôi chùa Hampstead, Chithurst và Harnham đều có công lao phù trợ của đại đức.

Năm 1985, theo lời mời của Hội Phật Giáo Nam Tông Wellington, đại đức Vìradhammo đã cùng đại đức Thanavaro bay sang Tân Tây Lan. Trước tiên, hai vị sống tại thành phố Wellington, hai năm sau thì tìm được một miếng đất cách đó 9 km, rộng 43 mẫu, nằm trong thung lũng Stokes Valley. Chính tại đây, một ngôi chùa mang tên Bodhinyanarama được xây dựng vào năm 1987 và trở thành địa điểm tổ chức giới đàn tỳ kheo do đại đức Sumedho đích thân làm hòa thượng đàn chủ.

Ðại đức Vìradhammo hiện vẫn sống tại châu Úc để tiếp tục các cuộc thuyết giảng mỗi tháng ở Auckland và South Island.

Bài viết sau đây là một thời pháp của đại đức trong một khóa thiền được tổ chức tại Bangkok cho các Phật tử người Thái vào tháng 6 năm 1988.


Tri Kiến Như Thật

Trong buổi nói chuyện chiều nay chúng ta có thể bắt đầu từ câu chuyện về cuộc đời Ðức Phật. Hễ nói đến Ðức Phật, ta có thể nhắc về Ngài từ hai góc độ. Ðó là câu chuyện về một con người lịch sử hoặc một biểu tượng cho con đường tu học của chúng ta.

Trước hết chúng ta có lẽ nên nhắc lại đôi dòng về quảng đời trai trẻ của Ngài, lúc đó Ngài dĩ nhiên là một ông hoàng có trong tay tất cả mọi thứ: tài sản, kiến thức, thể hình và cả tình cảm nam nữ. Trong kinh kể lại rằng khi Bồ Tát vừa chào đời, vua cha của Ngài đã được các nhà thông thái cho biết trước cái định mạng phi thường của vị hoàng nhi. Họ cho biết rằng khi lớn lên, Bồ Tát sẽ chọn một trong hai con đường sau đây cho cuộc đời mình: Hoặc trở thành một vị đại đế hoặc trở thành một bậc đại ẩn sĩ. Cha của Bồ Tát dĩ nhiên chỉ muốn con mình sẽ trở thành một nhà vua. Mọi người trong hoàng cung đều ngày đêm chăm sóc Bồ Tát thật cẩn thận. Bất cứ cái gì xấu xí cằn cỗi của người hay vật đều được thu dọn, tẩy xóa. Không ai muốn hoàng tử phải nhìn thấy cái gì đó khả dĩ đánh thức ở Ngài cái tâm lý xuất gia.

Cứ thế hai mươi chín năm trôi qua, Bồ Tát xem như chẳng biết gì chuyện bên ngoài hoàng cung. Quanh Ngài trong suốt chừng ấy thời gian chỉ toàn là những gì sạch đẹp, trẻ trung, tươi mát. Một hôm, Bồ Tát bỗng dưng muốn rời cung để đi du ngoạn ngoại thành. Vua cha phải buộc lòng đồng ý và cho người đánh xe theo hầu Bồ Tát. Một cách bất ngờ, hình ảnh đầu tiên lọt vào mắt Bồ Tát là một người bệnh đang nằm quằn quại rên siết. Bồ Tát thấy lạ mới hỏi người đánh xe của mình để biết con người đó đang ra làm sao mà lạ lùng đến thế. Người đánh xe cho Bồ Tát biết rằng đó cũng là con người bình thường nhưng thân xác anh ta đang phải trải qua một tình trạng bất ổn và đau đớn. Bồ Tát lại hỏi để biết thêm rằng điều đó có là biệt lệ đối với riêng ai không. Người phu xe lại trả lời rằng đã trót có thân thì ai cũng thế. Câu trả lời này đã tạo nên một cú sốc trong lòng Bồ Tát.

Ngày hôm sau, Bồ Tát lại tiếp tục xuất thành ngoạn cảnh thì trên con đường Ngài đang đi lù lù xuất hiện một ông lão mà cả người gần như bị bẻ gập làm đôi vì chiếc lưng còng, gầy còm, run rẩy với một cái đầu chẳng khác gì chiếc sọ người chỉ còn lại lơ thơ vài nhúm tóc bạc trắng, tay chân cơ hồ như không thể cử động như ý được. Bồ Tát lại hỏi người xa phu và Ngài giật mình khi biết rằng tuổi già là giai đoạn bắt buộc của một kiếp người. Bị chấn động tâm lý mãnh liệt, Bồ Tát lập tức hồi cung. Ngày hôm sau, như ta đã biết, Bồ Tát lại tận mắt nhìn thấy một xác người để rồi một hình ảnh khơi gợi khác nữa cũng đã xuất hiện trên đường du ngoạn của Bồ Tát đó là một sa môn đang tọa thiền dưới gốc cây. Từng câu trả lời của người xa phu cho những câu hỏi của Bồ Tát đã khiến Ngài tìm ra cho đời mình một hướng đi.

Câu chuyện đại khái chỉ có thế, nhưng đối với chúng ta, thì câu chuyện đó có ý nghĩa gì không? Có phải đó chỉ đơn giản là câu chuyện xưa để dành kể riêng cho những con em của chúng ta, câu chuyện về một con người đã hai mươi chín tuổi đầu vẫn chưa một lần biết đến chuyện già cả, bệnh hoạn và chết chóc của con người?

Ðối với tôi, câu chuyện trên đây về cuộc đời của Ðức Phật có cái giá trị tuyệt vời là mô tả lại một cách trọn vẹn cái khả năng tỉnh thức của con người đối với những giới hạn của đời sống thuần cảm giác. Tôi có thể đã thấm thía vấn để này khi nhớ lại những ngày tháng mình còn ngồi ở trường Ðại học. Hồi đó tôi vẫn thường đặt cho mình những câu hỏi kỳ lạ lắm, những câu hỏi mang tính định phận. Chẳng hạn như: - Tất cả những gì đang hiện hữu trước mắt mình thật ra chúng là gì? Tất cả rồi sẽ đi về đâu, có một kết cuộc như thế nào? Rồi tôi vẫn thường lấy làm lạ về cái chết để cứ rối óc với những suy nghĩ bòng bong: - Liệu cái bằng cấp đại học có ý nghĩa gì không khi mà cho dầu tôi có trở thành một vị kỹ sư danh tiếng, một người giàu có rồi cuối cùng cũng chỉ đi tìm đến cái chết mà thôi. Kể cả trường hợp tôi có đột nhiên trở thành một chính trị gia siêu hạng, một luật sư lừng danh, một cái gì đó tuyệt đỉnh, hoặc thậm chí có trở thành một thiên thể có tuổi thọ hàng tỉ năm thì đã sao chứ? Tất cả chỉ là một dấu hỏi lớn - cái ác nghiệt nữa là cũng vào ngay thời điểm đó tôi lại cứ nhớ đến chuyện ca sĩ Jimi Hendrix đã vì dùng thuốc phiện quá liều mà chết.

Tôi vẫn không sao tìm thấy cho mình một câu trả lời nào thích đáng về cái chết. Tôi vẫn cứ phải tự dằn vặt mình với trăm ngàn suy nghĩ về cái viễn ảnh đời mình để rồi tiếp theo sau đó lại là những chuỗi dài những thao thức: Cái chết là gì? Tại sao tôi lại có mặt ở đây? Việc đầu tư thêm những kinh nghiệm về đời sống có ý nghĩa gì khi tất cả rồi cũng chết đi?

Những trăn trở đó đã khiến tôi không thể tiếp tục học hành được nữa. Tôi bỏ đi du lịch. Tôi muốn mình được thư giãn tinh thần trong một thời gian vì dù sao những chuyến viễn hành đó vẫn luôn có nhiều thú vị. Tôi đã đi qua khắp mọi xứ sở: Marốc, Thổ Nhĩ Kỳ, rồi Ấn Ðộ... vậy mà đầu óc tôi trong những ngày tháng đó vẫn cứ rối bù những thao thức khôn nguôi: Tất cả chỉ có vậy thôi sao? Nếu tôi có hành hương đến những đền chùa, miếu mạo rồi ăn uống và sinh hoạt theo khuôn khổ của một dân tộc, tín ngưỡng nào đó thì đã sao chứ?

Thật ra lắm người cũng có đôi lần bị nhức nhối vì những câu hỏi này khi họ được tận mắt chứng kiến những thảm cảnh của đời sống như một đám tang, một con bệnh hay một ông cụ, bà lão nào đó. Hoặc cũng có thể nhờ vào những phút giây tĩnh tọa mang tính tôn giáo nên người ta có thể thỉnh thoảng nhớ lại những bi kịch của đời sống. Nhưng đó chỉ là những suy nghĩ hời hợt, những cảm nghiệm không mấy sâu sắc trong khi tất cả vẫn không ngừng biến dịch, phân hủy một cách mãnh liệt và trung thực như đã là thế tự bao giờ. Chúng ta rồi cũng chẳng đi đến đâu hết cho dù có bất cứ cái gì trong cuộc đời này đi nữa. Do đó câu hỏi "chỉ vậy thôi sao?" là cả một tiếng chuông cảnh báo cho đáy lòng thâm u mộng mị của chúng ta.

Cho dầu chúng ta có qua được khóa thiền mười ngày này trong một lý tưởng cao khiết nhất thì sau đó còn lại được cái gì chứ? Chúng ta vẫn phải trở về công sở, vẫn phải tiếp tục đối diện với cuộc đời, hoặc trở về Melbourne (Úc), hoặc Tân Tây Lan thôi. Tất cả rồi cũng chỉ là một vòng lẩn quẩn. Ðâu có một sự khác biệt nào giữa một cảm nghiệm thiền định với một chuyến rong chơi trên du thuyền? Tất cả chỉ là một con số không chua chát.

Lời dạy của Ðức Phật không hề mang ý nghĩa đem lại cho chúng ta một thứ cảm giác sống "thưởng thức" nào cả, mà là nhắm đến khả năng hiểu biết như thật về bản chất của chính từng cảm nghiệm. Giáo lý của Ðức Phật mang một tinh thần chủ đạo là dạy ta khám phá tất cả ý nghĩa cái gọi là sự hiện hữu. Chúng ta sống thiền định là vứt bỏ đi những ảo vọng thành kiến, chận đứng cái căn cội đau khổ của kiếp người và thấu suốt được bản chất của vạn hữu. Ðây chính là một hướng đời độc lập.

Ở đây, chúng ta đang tu tập về án xứ hơi thở. Chúng ta chỉ biết làm việc với nó mà không cần phải cực lòng với cái gì khác ngoài ta. Chúng ta chỉ đơn giản sống trong sự tỉnh thức về hơi thở: Ðơn giản biết mình qua từng hơi thở vào ra, sống thật trọn vẹn với chúng. Nhưng chúng ta làm vậy để làm gì nào? Tôi nghĩ rằng mọi người ở đây rồi cũng sẽ có thể tự trả lời cho mình câu hỏi đó. Một khi tâm hồn đã trở nên yên lặng, khả năng chú niệm đã vững vàng hơn, đời sống của chúng ta lúc này sẽ là từng giây phút tỉnh thức và hết mình với tất cả những gì đang xảy ra.

Chúng ta ít nhất cũng thấy được rằng sự tĩnh lặng của tâm hồn là cả một nguồn sinh lực, đồng thời cũng là một khả năng giao hòa giữa mình với thế giới chung quanh. Bên cạnh đó chúng ta còn có thể cảm nhận được cái không gian bao la mà pháp môn thiền định đã mang lại cho nội tâm mình. Chúng ta còn thấy được cả cái giá trị của đời sống tỉnh thức. Sự chú niệm của chúng ta lúc này không còn là một khổ công gò ép nữa. Chúng ta đã được tự do. Tự do trong sự chú niệm và trong cả đời sống, một đời sống luôn chú niệm mà vẫn tự do!

Chúng ta thường có thói quen thích nắm giữ trong tay mình càng nhiều thứ càng tốt. Trong khi đó, khi có cái để sở hữu thì chúng ta lại bị chính nó sở hữu. Tất cả những âu lo, bức xúc đều từ đó mà ra và như vậy thì coi như khả năng chú niệm của chúng ta đã bị đánh mất. Chỉ bằng vào sự ổn định nội tâm, chúng ta mới có thể tạo được cho riêng mình một phương trời riêng tư lồng lộng để tự do chú niệm, tỉnh thức.

Nếp sống đó đẹp lắm. Một khi đã tự có một bản lãnh tinh thần rồi thì sau khi rời khỏi thiền viện, chia tay với các thiền sư sau những thiền khóa, ta vẫn tiếp tục thiền định trong mọi hoàn cảnh. Thực tại nào cũng đều có thể là một án xứ cho ta cả: những hàng cây xanh, từng làn hương của hoa cỏ, những lối mòn kinh hành, đôi ba nụ sen đang nở trong hồ... Tất cả những cảm nghiệm ngọt ngào này luôn có cái giá trị làm bình ổn và thư giãn nội tâm chúng ta một cách hữu hiệu chẳng khác gì những trò giải trí mà ở Tân Tây Lan này người ta vẫn xem như phương cách tốt nhất để thư giãn tâm hồn, chẳng hạn các trò lướt ván hay đánh xe bò lên núi.

Nhưng thứ hạnh phúc có được từ những cách thư giản như vừa nói không phải là cứu cánh mà Ðức Phật đề nghị ở chúng ta. Ðời sống thiền định vào giai đoạn bắt đầu này, như chúng ta đang đi qua, có thể mang lại rất nhiều niềm hạnh phúc nhưng như thế cũng vẫn chưa đủ. Bởi cái hạnh phúc có được từ một nội tâm tĩnh lặng bất chừng không phải là thứ tự do thật sự. Nó chỉ là một thứ cảm nghiệm còn vướng kẹt bởi quá nhiều hạn cuộc mà nhất là cái tinh thần Tự Thị.

Sự tự do thật sự mà Ðức Phật đã nhấn mạnh phải là trình độ tự tại được nuôi lớn từ công phu tu tập Trạch Pháp Giác Chi. Chỉ có sự tự tại này mới khả dĩ đủ sức đình chỉ mọi xung động và căng thẳng của nội tâm. Niềm tự tại hay tự do ở đây không hề bị giới hạn ở bất cứ nơi đâu và lúc nào trong đời sống của chúng ta cả mà lại an nhiên tồn tại trong từng cảm nghiệm, trong mỗi mỗi phút giây hít thở của chúng ta.

Một trong những điều kỳ diệu nhất của đạo lộ này là chúng ta có thể hàm dưỡng và áp dụng nó ở bất cứ tình huống nào. Chúng ta không cần thiết phải đến giam mình trong một tự viện nào đó hay trong một điều kiện sống thuận lợi nhất định mà xem ra có vẻ là nhu cầu thiết yếu cho công phu thiền định hay nói chung là nếp sống thực hành chánh pháp. Chúng ta thật ra vẫn có thể tu học trong những hoàn cảnh đau buồn nhất. Chúng ta thường thấy rằng mỗi khi đau khổ thiên hạ mới bắt đầu nghĩ đến chùa chiền, tu viện. Rồi khi được hạnh phúc, thành công thì người ta lại quên mình đi, tự đắm đuối mộng mị trong những cái ngọt ngào đó để rồi khi một chuyện buồn nào đó xảy đến họ lại tiếp tục bối rối, hoảng loạn không biết phải làm gì.

Ðối với phần đông chúng ta, con đường tìm đến đạo Phật thường là những cảm nghiệm về sự đau khổ. Nó đưa chúng ta đi thiền định, trầm tư để đến một lúc nào đó chúng ta mới nhận ra rằng ngoài những đau khổ, người hành giả còn phải thiền định về cái gọi là hạnh phúc. Nhưng đó chỉ là về lý thuyết. Trên thực tế, người ta cứ đi tu thiền để trốn chạy đau khổ, chứ có ai trong lúc đang được hạnh phúc nhất lại tìm đến các vị thiền sư để yêu cầu được hướng dẫn phương thức đối diện với cái hạnh phúc mà mình đang có được!

Có thể nói đời sống tu tập của phần đông chúng ta thường chỉ được bắt đầu từ những trăn trở nhức buốt. Chúng ta cũng đôi lúc biết nghĩ về những mặt trái xót xa của đời sống nhưng đó chỉ là một thứ tư tưởng mang tính công đoạn. Ở Tây phương, chúng tôi vẫn thường nhắc đến cái gọi là "Lý luận của tuổi trung niên".

Những ông bà nào ở vào độ tuổi bốn mươi, năm mươi thường có thói quen đưa ra những nhận xét về cuộc đời thông qua chính kinh nghiệm đời mình bằng một thái độ chủ quan gần giống như cái khái niệm trong câu thành ngữ của người Trung Hoa là "Tứ Thập Bất Hoạt". Người ta tin rằng mình đã có được một cái nhìn tổng quan chín chắn về cuộc sống để rồi dừng lại ở đó với cái yên tâm rất đỗi nông cạn của mình. Ðó là đối với những mảnh đời êm đềm không có biến động. Rồi đến một ngày nào đó, đối đầu với những thứ thách khốc liệt của kiếp người, người ta mới bắt đầu biết đặt ra những câu hỏi nghiêm túc về đời sống. Có thể nói rằng chính nhờ đau khổ là cái mà mọi người vẫn cảm nghiệm thường trực, thậm chí nó gần như trải dài suốt cả đời sống con người nên thật hợp lý khi Ðức Phật đã bắt đầu truyền thuyết giáo lý giải thoát của mình bằng chính vấn đề đau khổ. Không ai có thể phủ nhận được điều đó cả. Và ta cũng có thể nói rằng đạo Phật chỉ đơn giản là một con đường khám phá đời sống thông qua tất cả nỗi khổ.

Lý tưởng cao nhất của nhân loại hôm nay là làm thế nào để giải quyết hai tiếng "đau khổ". Tất cả chúng ta đã vận dụng toàn bộ trí thông minh của mình để củng cố tối đa những hạnh phúc và hạn chế tối đa những đau khổ bằng cách nghĩ ra vô số những phát minh càng nhiều càng tốt. Nói đến đây tôi lại nhớ tới một bài học mà Ngài Hòa Thượng tôi đã có lần nhắc nhở với nội dung liên quan đến vấn đề này.

Hồi đó, lúc tôi còn là sa di sống chung chùa với Ngài Ajahn Chah, đời sống vật chất khó khăn lắm. Cả chùa chỉ xài toàn nước giếng, và chúng tôi phải thay phiên nhau đi gánh nước. Mà chuyện này lại là cả một vấn đề rắc rối, chúng tôi mến thích ai thì thường đi lấy nước chung với người đó. Biết được chuyện này, Ngài Ajahn Chah đã nói một câu gần như bâng quơ mà sau này tôi mới thấm thía.

- Tại sao mấy sư lại chọn người để đi lấy nước với mình, cứ thử cố gắng làm việc chung với những vị không phải là bạn thân có được không?

Ngài nói rất đúng, lúc đó tôi là một sa di nhanh nhẹn nên luôn cố tránh phải đi lấy nước chung với một tỳ kheo già chậm chạp. Nhiều lúc kẹt quá, tôi phải đi chung với vị này rồi có những lần dằn lòng không được tôi đã vất cái thùng đi như để trút cơn bực bội của mình. Như vậy rõ ràng là việc đi lấy nước chung với một vị sư mà tôi không thích đã thành ra cái khổ cho tôi. Và như lời Ngài Ajahn Chah nói, tôi chỉ luôn tìm mọi cách để làm những gì mình muốn. Ðó là cách dùng trí khôn của bản thân để củng cố tối đa những hạnh phúc và hạn chế tối đa những đau khổ. Nhưng dĩ nhiên là cho dù chúng ta có làm được điều mình thích, sở hữu được cái mình muốn, thì chúng ta vẫn phải tiếp tục đau khổ, bởi vì đâu có sự toại nguyện nào là mãi mãi đâu. Ðịnh luật vô thường luôn chi phối mọi sự mọi thứ trên đời. Chúng ta hãy tưởng trượng xem nếu có lần nào đó được ngồi lại một mình để ăn thỏa thích một món hợp khẩu nhất thì chắc chắn là chỉ ở đôi ba phút đầu tiên, cái ngon miệng kia còn là niềm hạnh phúc cho chúng ta nhưng nếu bữa ăn đó được kéo dài đến đôi ba tiếng đồng hồ thì cảm giác của chúng ta sẽ ra sao?

Nói như vậy thì chúng ta phải làm gì trước những đau khổ trong đời sống? Ðức Phật dạy chúng ta hãy dùng trí tuệ của mình nhìn thẳng vào nó một cách trung thực và khách quan. Ðây cũng là lý do tại sao chúng ta phải tự khép mình vào một nếp sống nghiêm túc như thọ trì Bát Quan Trai chẳng hạn. Cái thật sự cần thiết mà chúng ta phải thực hiện là nhìn ngắm cái đau khổ chứ không phải đầu tư cái hạnh phúc. Ðời sống xuất gia cũng có ý nghĩa tương tự như vậy: Chúng tôi mặc trên mình lá y là để có được cái tự do nhìn ngắm vào những đau khổ chứ không phải mù quáng chán ghét, chối bỏ nó bằng một tinh thần yếm thế bi quan.

Các vị có biết không, ở đất Tây Phương thì việc mặc lên người thứ áo tu sĩ như chúng tôi là cả một vấn đề. Bên đây đâu giống như bên Thái. Lần đầu tiên sang Luân Ðôn tôi đã cảm thấy khó chịu vô cùng. Hồi còn là một người cư sĩ tôi luôn ăn mặc giản dị để khỏi phải bị ai dòm ngó, vậy mà khi đã xuất gia rồi, chính những y áo này lại đã khiến tôi trở thành điểm chú ý cho thiên hạ. Phải nói rằng đó là cái khổ cho tôi. Tôi đã mặc cảm ghê gớm lắm. Người ta ở đây cứ nhìn theo tôi hoài. Nếu bây giờ tôi cứ sống theo cái ý tưởng "Trốn khổ tìm vui" thì chắc là tôi phải sắm cho mình một bộ đồ tây và gầy lại bộ râu như ngày nào rồi. Nhưng tôi đã không thể làm vậy vì tôi đã là một người xuất gia phải giữ gìn các học giới. Mà đời sống xuất gia thì dĩ nhiên đâu có thể cho phép tôi được tùy tiện sống theo thị dục của mình chứ, phải nói rằng trong hình thức một tu sĩ Phật giáo như thế này tôi đã thật sự học hỏi được quá nhiều thứ.

Tất cả chúng ta ở đây đều đa đoan cả. Ðó là những bận rộn về gia đình, công việc... và đó có phải là những giới hạn trong đời sống của chúng ta hay không? Chúng ta phải làm sao để xử lý mọi việc? Thay vì bị cuống cuồng trong những giới hạn đó rồi nỗ lực và hy vọng những vận may kỳ tích xuất hiện thì tốt nhất ta hãy tự xem chúng là những cơ hội để hàm dưỡng trí tuệ. Nhưng chúng ta khéo léo, biết đối diện với thực tại để nhận ra bản chất đau khổ của đời sống thì quả là đáng quý, mà nếu không khéo ta lại tự mang lấy vào lòng mình một sự đau khổ khác trong khi chỉ riêng những đau khổ thực tế ngoài đời đã là quá nhiều rồi. Tôi nhắc lại, Ðức Phật chỉ đề nghị chúng ta lắng nghe một cách trung thực những đau khổ trong đời sống chứ không phải tạo ra thêm trong đời sống những đau khổ.

Trong thiền khóa này, vào những giờ thiền tọa, rất có thể quí vị đã có những giây phút cảm thấy tù túng và bị phóng tâm rồi cứ trông chờ tiếng chuông reo ở cuối giờ thiền định. Ðiều đó rõ ràng đến mức ai cũng có thể ghi nhận được cả, phải không? Nếu chúng ta cảm thấy mình không thể tiếp tục ngồi được nữa thì vẫn có thể tiếp tục bước ra ngoài để đi kinh hành. Nhưng nếu trong oai nghi này ta vẫn tiếp tục cảm thấy bất ổn thì sao? Rồi ta lại có thể nghĩ đến những phương cách khác để chấm dứt tình trạng này như xem ti vi hay đọc những trang sách báo nào đó chẳng hạn. Nhưng rồi nếu như tình trạng đó vẫn cứ tiếp diễn thì chẳng lẽ chúng ta lại phải lao mình vào trăm ngàn cách giải quyết khác hay sao? Ðến mức này chúng ta đã có thể thấy rõ rằng nội tâm của mình quả là chẳng yên tĩnh tí nào: Nó luôn đầy ắp những bôn ba, xao động. Lý do đơn giản là chúng ta chỉ biết nhắm mắt theo đuổi cái hạnh phúc và trốn chạy cái đau khổ. Mà thái độ đó lại chỉ là một cách trưởng dưỡng những phức loạn, đau khổ trong đời sống của chúng ta thêm thôi.

Dạy về Ðế Khổ, Ðức Phật không hề khuyên bảo chúng ta tầm cầu và giữ lại một cảm nghiệm nào, mà thay vào đó là thái độ nhìn ngắm trực tiếp cái khổ. Chúng ta có thể thiếu niềm tịnh tín nơi Ðức Phật nhưng chắc chắn rằng ai cũng có thể thấy sự đau khổ là một thực tế không thể chối bỏ. Không ai có thể nói mình chưa từng bị đau khổ hoặc chưa hề nghĩ đến nó bởi thực ra trong từng giây phút chúng ta vẫn cảm nhận đau khổ, chấp nhận nó như một điều không thể tránh được. Cho nên nói sao thì nói, đau khổ vẫn là cái gì đó hiện hữu thường trực trên cuộc đời và trong từng người.

Giáo lý Tứ Ðế còn cho ta biết thêm rằng bất cứ đau khổ nào cũng có một nguồn cội và khả năng chấm dứt. Có rất nhiều người Tây phương vẫn nghĩ rằng Phật giáo là yếm thế vì nội dung giáo lý hầu như chỉ nói về sự đau khổ. Nhớ lại hồi đó, trong thời gian còn sống ở Ấn Ðộ, tôi đã bắt đầu nghĩ đến việc trở thành một nhà sư Phật giáo. Thế rồi vì bà tôi qua đời nên tôi phải trở về Ðức Quốc dự đám tang. Nhân dịp đó, tôi đã nói chuyện với mẹ tôi về ước muốn xuất gia của mình. Khi tôi nhắc đến khái niệm "Ðời là bể khổ" thì bà ngạc nhiên lắm. Xưa nay bà vẫn quen xem những đau khổ trong cuộc đời là một chuyện hết sức bình thường không đáng để bận tâm. Bà đã gần như không hiểu tại sao tôi lại muốn "chạy trốn" đau khổ khi đó chỉ là những gì mà ai trong cuộc đời cũng phải đi qua.

Rõ ràng là Ðức Phật không chỉ biết nói riêng về cái đau khổ. Ngài đã đề cập đến một cách trọn vẹn những gì cần thiết và có liên quan với nó nữa, đó là nguyên nhân của đau khổ, cứu cánh thoát khổ và con đường dẫn tới cứu cánh đó. Giáo lý của Ðức Phật có nội dung là nhắm tới Níp Bàn, một cứu cánh tịch tịnh và tự tại. Ðây cũng là những gì mà các nghệ nhân đã cố gắng thể hiện trên tranh tượng về Ðức Phật. Như quí vị cũng thấy đấy bức ảnh Phật trước mặt chúng ta ở đây đâu phải là hình ảnh của một "Ðức Phật đau khổ" mà đây chính là ảnh tượng của một "Ðức Phật trí tuệ và tự tại".

Ðể đạt được mục đích giải thoát, chúng ta phải thực hiện những gì cần thực hiện chứ không phải tự đáp ứng tất cả những gì mình muốn. Trên quan điểm thế tục, chúng ta thường tầm cầu những gì mình muốn và Níp Bàn kể ra cũng là cái mà người Phật tử chúng ta vẫn MUỐN dù có khi chưa biết nó là cái gì. Nhưng có điều là vấn đề ở đây có khác biệt nhau ở cách thỏa mãn các ước muốn. Khi chúng ta đói, chúng ta có thể tìm quán chợ mua cái gì đó để ăn uống. Rồi đến cả những nhu cầu khác nữa, khi cảm thấy cần được thỏa mãn thì chúng ta chỉ việc tìm cách đáp ứng. Còn đối với trường hợp chúng ta MUỐN đạt đến cứu cánh giác ngộ thì đây lại là một nhu cầu hết sức khác biệt và cách giải quyết cũng không giống như bất cứ một kiểu làm thỏa mãn nào. Bởi nếu Níp Bàn chỉ đơn giản là một đồ vật như nhà cửa, xe cộ thì cuộc tu có lẽ sẽ dễ dàng hơn, nhưng cái ác nghiệt là Níp Bàn không phải là vậy, vi tế và trừu tượng khôn cùng. Cứu cánh Níp Bàn luôn đòi hỏi ở chúng ta một khả năng trí tuệ đúng mức mà thuật ngữ Phật Học gọi là Trạch Pháp Giác Chi.

Cho nên kể từ bây giờ, tất cả trí tuệ của chúng ta không phải để củng cố tối đa hạnh phúc và hạn chế tối đa đau khổ nữa, mà phải được tập trung cho cái nhìn như thật về đau khổ. Chúng ta phải vận dụng tất cả trí tuệ của mình để suy tư tinh tường về mọi vấn đề, chẳng hạn như đối với câu hỏi "Tại sao tôi lại đau khổ?". Ta hãy thử nhìn xem, chúng ta đâu thể để mặc tư tưởng của mình bồng phiêu, trôi dạt vô định hướng - bởi từng dòng tư tưởng luôn có thể tự mang một giá trị rất quan trọng đối với cuộc tu. Nhưng dĩ nhiên ta cũng hiểu thêm rằng nếu chỉ với những tư tưởng mù mịt, vọng động thì ta không thể nào thực hiện được lời dạy của Ðức Phật. Việc điều hành tư tưởng là một vấn đề của nội tâm nên chúng ta phải tự giải quyết lấy với chính mình chứ trình độ tu chứng không thể nào được xác định và đảm bảo thông qua một bằng cấp học vị nào.

Lần đó, khi còn ở Anh Quốc chúng tôi đã đến viếng thăm một người Phật tử ở Lancaster. Ông ta là một học giả về triết học tánh Không, thuộc lòng nguyên văn bộ luận Trung Quán của Long Thọ. Ông muốn mời chúng tôi uống cà phê và tự tay pha chế lấy. Cầm lấy tách cà phê từ tay ông, cả chủ khách đều bật cười. Thì ra trong mấy chiếc tách đó chỉ có đường và sữa mà chẳng có một chút cà phê hay một giọt nước nào hết. Ông ta đã là một bậc thầy trong cái dòng triết học vẫn được xem là hết sức cao siêu ấy lại không có nổi một chút chánh niệm để pha cho xong một tách cà phê. Như vậy cái gọi là Trí tuệ trong Phật giáo không chỉ đơn giản là sự tích lũy đầy ắp những thứ khái niệm, kiến thức. Trí tuệ Phật giáo phải có một nội dung căn bản hơn thế rất nhiều, đó chính là cái căn bản được thiết lập trên khả năng thực chứng.

Trí tuệ của người Phật tử, nói khác đi, chính là cái khả năng khám phá đời sống và biết đặt ra những câu hỏi thật sự quan trọng, cần thiết. Chúng ta phải học được cách vận dụng tư tưởng để chỉ đạo nội tâm hướng về con người chín chắn. Chúng ta phải có trách nhiệm khám phá và phơi mở nội tâm trong mọi hoàn cảnh sống. Cái khả năng phơi mở này được song hành với những dấu hỏi chính đáng thì sẽ thành ra cái mà chúng ta vẫn gọi là pháp môn Thiền Quán: Trí tuệ thấu suốt sự hiện hữu của bản thân. Ý thức của chúng ta lúc này bao gồm những kiến thức về giáo lý và trí tuệ trực quan đối với các cảm nghiệm trung thực nhất. Với trình độ này, coi như chúng ta đã sở hữu được những khả năng phơi mở, chú niệm và tri kiến như thật về vạn hữu. Ðây cũng chính là trí tuệ về Giáo Lý Tứ Thánh Ðế mà từ lâu vẫn được nhấn mạnh đặc biệt trong đường lối tu chứng của Phật Giáo truyền thống.

Nói như nãy giờ thì trí tuệ trực quan về Khổ Ðế có phải là hoàn toàn phủ nhận tất cả mọi sự đầu tư với một cảm nghiệm nào đó hay không? Thực ra ở đây chúng ta phải hiểu rằng trí tuệ đó chính là sự đón nhận một cách tương ứng cái đau khổ của chúng ta, gồm luôn những xung đột và mâu thuẫn nội tại. Trí tuệ của người hành giả không chỉ dừng lại ở đó. Sau khi cảm nhận được rằng mình đang đau khổ, vị ấy lại tiếp tục đặt ra cho mình câu hỏi tiếp theo về cội nguồn thật sự của cái đau khổ đó. Ðức Phật đã dạy chúng ta rằng tất cả đau khổ cũng đều nằm trong quy luật vô thường: Ở đây quí vị có thể lấy tôi làm một hình ảnh minh họa cho vấn đề vừa nói. Chẳng hạn như sau đôi ba mươi phút thiền tọa tôi lại cảm thấy khó chịu rồi dĩ nhiên tôi sẽ tự xét lấy nguyên nhân của cảm giác đó. Khi hiểu được mình đang bị tê mỏi, tôi lập tức thay đổi oai nghi và nhờ vậy mà cảm thấy dễ chịu hơn. Thế rồi ngay trong chính oai nghi vừa được thay đổi này, vài mươi phút sau, tôi lại thấy bất ổn như cũ. Thế là đến đây thì tôi đã có thể thấy được rằng mọi cảm giác của mình trong thời gian vừa qua chỉ là những mảnh vụn chắp nối. Rồi tôi lại ghi nhận thêm đôi điều khác nữa: Tôi thấy mình KHÔNG MUỐN cái bất an, mà chỉ MUỐN cái thoải mái. Như vậy từng giây phút đau khổ kia thực ra chẳng là gì cả, mà vấn đề nằm ở chỗ chúng ta có thái độ từ chối nó mà thôi. Phải nói rằng trí tuệ Thiền Quán của chúng ta lúc này đã đến được cái giai đoạn lý tưởng lắm rồi, chỉ có điều là tuy nó có sâu thẳm thật đấy, nhưng sâu thẳm một cách chua chát và đầy thử thách. Chính trình độ trí tuệ Thiền Quán này mới khả dĩ mang lại cho ta một sức mạnh vừa đủ để hòa giải với tất cả đau khổ mà không cần thiết phải chạy trốn chúng nữa. Nội tâm hành giả lúc này sẽ tự nhiên bình ổn và tĩnh lặng.

Như vậy, nói cho cùng thì vấn đề căn cội mà nãy giờ chúng ta vẫn bàn đến không phải là cái cảm giác đau đớn mà chính là thái độ chối bỏ, trốn chạy một cảm giác nào đó mà thôi. Ước muốn là một vấn đề rất quan trọng và nó xuất hiện trong nhiều hình thức. Nhưng chẳng sao hết, chúng ta vẫn luôn có thể áp dụng trở lại phương pháp quán chiếu "Tôi đang muốn gì trong lúc này đây?" - Thánh Ðế thứ hai dạy cho chúng ta biết rằng cội nguồn của những đau khổ chính là lòng ham muốn. Chính nó đã khiến ta có cái cảm giác rằng mình sẽ được đáp ứng thỏa mãn nếu chiếm hữu được những gì vẫn mong mỏi. Nó làm cho chúng ta phải bù đầu với biết bao ước vọng: "Nếu như tôi có cái này, giá mà tôi trở thành cái kia, chứ phải tôi tránh được điều đó...". Ðại khái, lòng ham muốn của chúng ta là cả một dòng luân hồi bất tận: Khao khát và sợ hãi, trốn chạy rồi cũng quay đầu, kiếp sống này đầu tư cho kiếp sống khác, bất tận và vô chung.

Nói vậy không có nghĩa rằng cuộc luân hồi là tuyệt đối bởi chính Ðức Phật cũng đã từng nói đến một con đường giải thoát, đó là điểm dừng lại của tất cả đau khổ. Thuật ngữ Phật học gọi đó là Diệt Ðế hay Níp Bàn. Khi mới học về vấn đề Níp Bàn tôi chỉ hiểu mơ hồ rằng đó là trạng thái vắng mặt hoàn toàn tất cả phiền não. Từ cách hiểu đó, tôi lại nghĩ thêm rằng chỉ cần tôi đoạn trừ tất cả tham, sân, si thì coi như tôi đã là Níp Bàn rồi vậy. Thế là tôi cố gắng thiền định với cái lý tưởng sai lầm đó của mình và cái mà tôi đạt được chẳng là gì cả ngoài ra một thứ ngộ nhận trầm trọng thêm thôi.

Rồi theo thời gian, tôi tiếp tục thiền định và đã khám phá ra rằng sự chấm dứt đau khổ mà Ðức Phật đã nói đến trong Diệt Ðế còn có nghĩa là sự "đình chỉ" mọi sự ngay khi chúng vẫn còn đang tồn tại. Nhờ vậy, tôi đã trở nên điềm đạm và bình tĩnh hơn, không còn nghĩ về Níp Bàn hay cứu cánh giải thoát bằng cái ước muốn bồng bột, nông nổi nữa. Bởi vì trong cuộc tu, điều chúng ta cần làm không phải là một sự giải quyết manh động nào hết, mà là một thái độ bình thản "an trí" mọi phức loạn cho đến khi nào chúng tự hủy, tự diệt thì thôi. Chẳng hạn như trong trường hợp tôi đang có chuyện cãi vả với ai đó, nếu cả đôi bên cứ xử sự theo cơn nóng giận của mình thì có lẽ cả hai sẽ phải đánh nhau mất thôi. Hoặc nếu lúc đó tôi còn chút bình tĩnh để trở về phòng mình mà trong lòng vẫn cứ ấm ức thì xem ra cơn giận dữ kia vẫn tiếp tục tồn tại vì rõ ràng là tôi vẫn đang có thái độ đối kháng với nó. Có thể nói đối với các phiền não đều như vậy cả: Một khi ta buông mình theo chúng hoặc cố tình tống khứ chúng thì chúng vẫn không sao chấm dứt được. Ngọn lửa phiền não vẫn tiếp tục cháy!

Giáo lý Thánh Ðế dạy ta bốn vấn đề: Sự đau khổ, cội nguồn của đau khổ, điểm chấm dứt của đau khổ và con đường đưa đến điểm chấm dứt đó. Chúng ta có thể đem tinh thần của Tứ Thánh Ðế để áp dụng vào cuộc tu thường nhật của mình. Trong bất cứ tình trạng bất ổn nào của nội tâm, chúng ta đều có thể cảm nhận chúng bằng một trí tuệ tương ứng: "Tại sao tôi khổ? Tôi thật sự đang muốn cái gì?" Tôi nhắc lại, đó là Trạch Pháp Giác Chi.

Cái tối quan trọng trong cuộc tu của người Phật tử là khả năng áp dụng triệt để những lời dạy của Ðức Phật chứ không phải là sự đầu tư những kiến thức từ chương. Ngài Ajahn Chah thường nói rằng người Phật tử không nỗ lực tu tập thì giống như những con kiến bu quanh bên ngoài một trái xoài chưa gọt vỏ. Bầy kiến đó không bao giờ thưởng thức được vị ngon ngọt của trái xoài. Thỉnh thoảng, chúng ta nghe được ở đâu đó đôi ba điều về giáo lý của Ðức Phật rồi chủ quan tự mãn mình đã "Hiểu Ðạo". Trong khi đó giáo lý của Ðức Phật đâu phải chỉ đơn giản là một hệ thống tri thức để nghe và nói, mà yêu cầu cốt lõi của lời dạy Ðức Phật là đề nghị chúng ta phải hiểu biết về từng cảm nghiệm trong đời sống.

Ðến đây thì chúng ta đã hiểu được rằng trí tuệ của bản thân mỗi người không chỉ đơn giản được vận dụng để "tìm vui trốn khổ" một cách nông cạn, mà nó phải được sử dụng để tìm đến cái phương trời tự do cho nội tâm, vượt qua bên kia tất cả giới hạn nhận thức theo phàm tình để rồi chứng ngộ Níp Bàn. Chúng ta sử dụng trí tuệ của mình để tìm đến tự do chứ không phải bỏ mặc cho nó trở nên vô dụng, dùng nó để giải phóng tư tưởng chứ không phải để tầm cầu hạnh phúc. Trên tinh thần giác ngộ, chúng ta coi như phải vượt qua cả hai giới hạn hạnh phúc và đau khổ. Ý nghĩa của đời tu là thấu suốt tất cả cảm nghiệm chứ không phải đầu tư bất cứ cảm nghiệm nào. Ðây là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau.

Ðó là tất cả những gì mà tôi muốn gởi lại cho các vị trong đêm nay.

-ooOoo-

Ðại đức Gavesako

Hãy nói về Ðau khổ


Tiểu sử:

Ðại đức Gavesako (Mitsuo Shibahashi) sinh năm 1951 tại Nhật Bản. Là một nhà leo núi lão luyện, đại đức đã từng thành lập một nhóm hội viên để chinh phục dãy núi Himalayas. Lần đó đại đức cùng cả đoàn đi sang Ấn Ðộ và trong thời gian chờ đợi thời tiết tốt để bắt đầu cuộc thám hiểm, đại đức đã quyết định ở lại một thảo xá dưới chân núi. Thế rồi trước khi các thành viên trong đoàn có mặt đầy đủ (đại đức đã đi trước một mình), đại đức bỗng nhiên cảm thấy thích thú với đời sống thiền định qua chút ít kiến thức mà mình đã biết được về pháp môn này để rồi đại đức không còn thấy hứng thú trong chuyện leo núi nữa. Ðại đức đã ở lại thảo xá đó suốt hai năm liền. Và cũng trong thời gian này đoàn leo núi của đại đức gặp phải tai nạn, một số người trong bọn họ đã bị vùi chôn trong một dòng băng hà đổ từ núi xuống.

Do một ít khó khăn về vấn đề giấy tờ nhập cảnh, đại đức buộc phải đi qua Thái Lan, nơi mà đại đức vẫn hy vọng mình sẽ tiếp tục tu tập pháp môn thiền định. Gặp được các vị sư người Tây Phương ở Bangkok giới thiệu, đại đức đã đến chùa Pah Pong ở vùng đông bắc Thái Lan, rồi thọ giới tỳ kheo với Ngài Ajahn Chah. Lúc này là năm 1975. Ðại đức Gavesako gần như chuyên sống hạnh đầu đà và đại đức cũng là người đã hết mình tận tụy chăm sóc thiền sư Ajahn Chah trong suốt những năm tháng cuối đời của Ngài.

Năm 1989 đại đức đã được mời về Nhật Bản để trình bày về thiền định Phật giáo Nguyên thủy suốt mấy tháng trời.

Bài viết sau đây là một pháp thoại cho các Phật tử từ Bangkok đến viếng thăm đại đức. Nội dung của bài viết có thể được tóm tắt trong mấy dòng sau đây "Hãy làm thế nào để thấy được bản chất ma chướng của lòng ham muốn và chấp thủ. Cho đến khi nào thoát khỏi được sự chi phối của chúng thì coi như đã thành Phật".


Hãy nói về Ðau khổ

Trong bài nói chuyện này, tôi muốn nhấn mạnh với quý vị một số tiêu đề có thể tạm gọi là những kinh nghiệm tu học mà chúng ta cần phải có.

Vấn đề trước tiên mà tôi muốn đề cập ở đây chính là thái độ đối diện của người Phật tử trước tất cả những đau khổ trong đời sống. Có là kỳ quái lắm không khi tôi đề nghị các vị hãy học cách trân trọng trước những đau khổ như là đối với một người thầy. Chúng ta đừng theo thói quen mà chán ghét, trốn chạy hay e sợ các đau khổ. Các đau khổ luôn giúp ta một lời cảnh báo, nó giúp ta thông minh hơn để có thể nhìn thẳng vào mọi sự trong đời. Nếu chúng ta có đủ can đảm để đón nhận các đau khổ thì sẽ thấy được rằng chúng thật ra có nhiều ý nghĩa tuyệt vời lắm. Trong tinh thần đó, chúng ta sẽ khỏi phải lo ngại bất cứ điều gì mà chỉ việc củng cố ở nội tâm mình một sức mạnh chịu đựng. Nói vậy có nghĩa là chúng ta phải biết mạo hiểm và gan lì, bởi vì bất luận là những đau khổ đó có mặt ở đâu chúng ta cũng phải nhìn ngắm nó một cách trọn vẹn. Nỗi đau khổ nào cũng cần được nhận thức, cho nên chúng ta phải học được cách nhận thức đau khổ. Có điều là chúng ta cũng đừng quên rằng sự đam mê trong khả năng nhận thức đó không khéo cũng tạo ra hai thứ hình thái phiền não hết sức nguy hiểm là tham ái và chấp thủ. Chính hai phiền não này là cội nguồn cho tất cả đau khổ; đồng thời cũng che khuất tất cả nhận thức của chúng ta về đau khổ. Ðến lúc này thì chúng ta chỉ có thể bị đau khổ mà không thể nhìn thấy sự đau khổ. Chính vì vậy, vấn đề cốt lõi của cuộc tu là biết chọn lấy cho mình một con đường chín chắn để thấy rõ tất cả đau khổ. Từ cái thấy hời hợt của buổi đầu mới tu học, chúng ta sẽ dần dần có được một cái nhìn sâu sắc hơn. Thuật ngữ Phật học gọi đó là Chánh Tri Kiến, cái khả năng trí tuệ thấy rõ được từng giai đoạn xuất hiện, tồn tại và biến mất của các đau khổ để rồi từ trên cơ sở này, Chánh Tri Kiến của chúng ta lại lần lượt đi đến những cấp độ khác cao hơn: không có hạnh phúc hay khổ đau gì cả, mọi hiện tượng chỉ là từng tiến trình "xuất hiện - tồn tại - biến mất". Với trình độ Chánh Tri Kiến này, ta sẽ thấy rằng thật ra không có Cái Gì xuất hiện hay biến mất cả. Không có cái gì trên đời này đáng để ta ôm ấp. Tất cả các pháp đều vô ngã.

Bất cứ cái gì đã xuất hiện thì phải có lúc biến mất. Nếu chúng ta có thể buông bỏ hết mọi thứ: Không cực lòng với những đau khổ, không thích thú cũng không bất mãn thì chắc chắn chúng ta sẽ được an lạc. Bất cứ một đau khổ nào có thể xảy ra trong lúc này thì cũng chỉ là những bóng khói hình sương.

Thái độ thứ hai mà các Phật tử cần phải có được trước tất cả các đau khổ là chúng ta học được cách đánh giá mọi áp lực trong đời sống như là những người khách lạ. Quả đúng như vậy, những cảm giác bức xúc khó chịu thực ra chỉ đến rồi đi qua tâm hồn ta như những bóng nắng bên thềm. Chúng đi rồi cũng có lúc quay lại. Nếu chúng ta không bận lòng vật lộn với chúng thì chắc chắn chúng sẽ không lưu trú lại được. Tuy vậy, chúng ta cũng đừng quá chủ quan trong thái độ đó của mình. Hãy bình thản một cách tự chủ: Không xua đuổi để khách không có cơ hội phản ứng và cũng đừng nồng nhiệt chào đón để khách có hứng thú ở lại. Hãy để mặc chúng đến và đi theo nhân duyên của chúng, ta không cần thiết phải can thiệp vào. Quý vị hãy an tâm, các cảm giác đau khổ bức xúc chỉ là những du khách chứ không phải là những cư dân. Khi chúng đến ta biết là chúng đến rồi bình thản nhìn ngắm cho tới khi chúng ra đi. Chúng ta phải xây dựng ở nội tâm mình một khả năng trung hòa: Không ghét thương, không sợ hãi... Chỉ giữ lại cho mình khả năng hiểu biết mà thôi. Cứu cánh của cuộc tu không phải là một cái hầm trú ẩn để trốn tránh đau khổ một cách nhút nhát tiêu cực mà là một trạng thái tĩnh lặng, thanh tịnh và trong sáng.

Vấn đề thứ ba chính là một câu hỏi của tôi cho các vị. Có ai trong số chúng ta ở đây đã từng trải qua cái cảm giác đau đớn gần như muốn chết hay không? Cho dù sự đau khổ có nghiêm trọng đến mức nào đi nữa thì công việc tốt nhất cho nội tâm chúng ta là nhận biết chính xác sự có mặt của nó. Chỉ nhận biết thôi, chúng ta không cần có thêm một nỗ lực nào khác nữa. Hãy kham nhẫn và quan sát mọi cảm giác chứ không nên thích thú hay chối bỏ chúng. Trong những hoàn cảnh đó hãy cố giữ sao cho nội tâm được chuyên nhất không thiên lệch. Cái cần thiết của chúng ta lúc này chính là sự hiểu biết: Ngồi trong sự hiểu biết, đi trong sự hiểu biết. Trong khả năng ý thức này, chúng ta sẽ thấy được rằng mọi sự đều rỗng tuếch ngay trong chính bản chất của chúng. Mọi đau khổ và bức xúc chỉ đơn giản là các cảm giác phù du, chúng không phải là chúng ta cũng không thuộc quyền sở hữu của chúng ta. Chúng được xem là quan trọng chỉ vì chúng ta nắm bắt chúng bằng những khái niệm. Trong khi đó mọi thứ luôn vô thường, cái cũ sẽ được thế chỗ bằng cái mới một cách liên tục. Bản thân chúng chỉ là những gì mà Ðức Phật vẫn gọi là vô thường, khổ não, vô ngã.

Nói một cách chính xác, chúng ta đau khổ chỉ vì chúng ta chấp thủ. Chúng ta phải học được cách đào luyện nội tâm mình cho trở thành một nguồn sức mạnh đủ để đối diện và chấp nhận mọi sự: có thấy được sự đổi thay liên tục của các cảm giác, chúng ta mới thấm thía được định lý vô thường. Và định lý vô thường thì luôn gắn liền với định lý vô ngã.

Vấn đề tiếp theo mà tôi muốn nhấn mạnh với các vị là chúng ta đừng bao giờ đồng hoá mình với bất cứ một đau khổ nào khác. Sự đau khổ không phải là TA và ta cũng không phải là sự đau khổ. Sự đau khổ không tồn tại bên trong bất cứ AI và cũng không có AI sống trong sự đau khổ. Sự đau khổ tự nó xuất hiện, tồn tại rồi biến mất. Chúng ta chỉ có mỗi một trách nhiệm đơn giản là nhận ra được từng diễn biến của sự đau khổ để xem nó đến và đi như thế nào. Hãy nhìn ngắm đau khổ mà không cần thiết phải bận tâm xem nó ở mức độ nào, nhiều hay ít. Nhờ vậy chúng ta mới có thể chấp nhận được nó một cách can đảm, bởi bổn phận của người tu chỉ đơn giản có bốn chữ "can đảm chấp nhận". Và được gọi là một bậc hiền giả thì chỉ đơn giản là người chấp nhận được mọi đau khổ.

Vấn đề tiếp đến có giá trị như là một món hành trang tâm lý để chúng ta có thể đối mặt với cuộc đời nói chung và sự đau khổ nói riêng. Ở đây tôi muốn nói đến thái độ "bao dung" trong tinh thần thấu đáo được cái lẽ tương đối trên đời.

Trước khi đánh giá ai đó là lỗi lầm sai trái thì chúng ta hãy nhớ lại rằng bản thân mình cũng có lúc sai trái lỗi lầm và người kia không phải lúc nào cũng lỗi lầm sai trái. Hãy giữ lại mọi thứ ở một nửa con số đo lường của mình thôi. Có biết suy nghĩ như vậy chúng ta sẽ không bị các tư tưởng chủ quan của mình đày ải. Hoặc khi nghe lại câu chỉ trích của ai đó về mình, chúng ta đừng nông nổi tin tưởng hay phủ bác hoàn toàn. Tức là chỉ giữ lại con số đo năm mươi phần trăm mà thôi. Ðiều đặc biệt là đừng để nội tâm mình có những phản ứng không cần thiết để rồi bị đau khổ. Mọi sự không có gì là tuyệt đối: Rất có thể từng người có liên quan rong chuỗi dài thông tin kia đã thêm thắc vào đó một ít tư ý. Nói vậy có nghĩ là chúng ta đừng bao giờ bị mắc bẫy trong cái suy nghĩ của người khác. Quý vị hãy nhớ lại xem chúng ta thường nổi giận trước khi tìm ra căn cội của vấn đề chính bằng sự suy nghĩ cẩn thận của mình. Ðại khái, hãy luôn tỉnh táo và sáng suốt trước khi muốn làm điều gì đó.

Những khi bị buộc phải làm điều gì đó mà mình không thích, chúng ta thường tỏ ra bất mãn. Hãy nhớ rằng đó không phải là cách phản ứng tốt. Ðừng giữ lại trong lòng mình những cảm giác bực bội chỉ vì nghĩ rằng đó là điều vô lý. Ở đây tôi ví dụ như quí vị đang làm việc với một đồng sự của mình. Cả hai bên làm sao có cùng một suy nghĩ được. Mà mọi suy nghĩ thì luôn vô thường, thay đổi. Người đồng sự của quí vị có thể rồi sẽ thay đổi suy nghĩ hoặc cũng có thể họ nghĩ một đàng mà làm một nẻo...Quý vị đừng để mình bị đánh lừa bởi các cảm giác. Bởi nếu chúng ta tỉnh táo thì chúng ta không bị đau khổ. Ðừng bao giờ hoàn toàn tin tưởng vào bất cứ cái gì dầu là chính mình, người khác hay bất cứ một sự kiện nào. Hãy học cách bình thản và không sợ hãi. Ðồng thời cũng đừng để mình bị cuốn hút vào những gì nghe thấy được. Bởi hãy nhớ: cái gì cũng đều vô thường và bất toại, hãy dành cho mọi sự trên đời năm mươi phần trăm giá trị thôi.

Nãy giờ tôi vẫn nói với quí vị về những thái độ cần thiết phải có để đối diện với đau khổ nhưng nếu như ta đã bằng đủ mọi cách mà chúng ta vẫn cứ tiếp tục đau khổ thì phải làm sao? Ở đây tôi chỉ có một câu trả lời thôi và đồng thời đây cũng chính là một vấn đề nữa trong bài nói chuyện này. Ðó là cố gắng nhìn thẳng vào mọi sự một cách can đảm và tin tưởng hơn nữa.

Cái nhìn mà tôi muốn nói ở đây chính là trí tuệ về Lý Tứ Ðế. Nếu chúng ta còn "bị đau khổ" thì cũng có nghĩa là chúng ta chưa hoàn tất được chánh kiến của mình. Khi đau khổ xuất hiện, chúng ta hãy dõi mắt theo từng dịch biến của nó bằng cách nhìn ngắm vào chính thân tâm của mình để thấy được thế nào là vai trò nhân tố của lòng tham muốn và chấp thủ đối với sự đau khổ đang hiện hữu. Chúng là những ma chướng, những kẻ thù nguy hiểm nhất của chúng ta. Chúng xuất hiện len lỏi qua các dòng tư tưởng của chúng ta. Ghi nhận được chúng, ta sẽ được vô hại, không bị kích động và khỏi phải ôm ấp chúng một cách ngu xuẩn nữa. Con Người Ðau Khổ lúc này đã thành ra một bậc Giác Ngộ, một Ðức Phật. Ta không cần thiết phải đi tìm kiếm thêm những gì thật ra không có liên quan đến con đường mà mình đang đi. Nếu phải đánh mất cả tánh mạng để đổi lấy trí tuệ này thì đó cũng là một điều xứng đáng.

Chánh kiến hay trí tuệ giác ngộ còn có một nguồn trợ lực khác hết sức quan trọng, đó là Chánh Tư Duy. Cho dù có làm bất cứ công việc gì, ta cũng phải luôn giữ được cho mình những khả năng chánh niệm và trí tuệ. Nếu như chúng ta đang lau nhà thì công việc đó vào ngay lúc này phải được xem là một công việc quan trọng nhất trên đời, ngoài ra không còn công việc nào quan trọng hơn. Ðang lau nhà thì chúng ta chỉ nên "biết" mình đang lau nhà mà thôi. Ta phải dành cho công việc đó tất cả sự quan tâm.

Cứ thế, cho đến tất cả những công việc lớn nhỏ khác trong đời sống thường nhật cũng đều phải được thực hiện bằng tinh thần đó. Mỗi việc có một thời gian hoàn toàn độc lập để chúng ta có thể chuyên tâm bất nhị trong mỗi cử động của mình. Như vậy thì công việc nào đối với chúng ta cũng đều có thể là những thiền án: làm chỉ biết là làm, không bận tâm đến những gì ngoài ra. Làm với một tâm hồn thanh thản, không để mình phải bị cực lòng vì những ám ảnh về một quan điểm hay khái niệm nào đó. Chúng ta hãy làm việc như đang thực hiện bổn phận bằng tất cả tinh thần trách nhiệm. Nếu đối với bất cứ hoàn cảnh nào ta cũng có thể sống với thái độ nội tâm đó được thì chúng ta sẽ không bị đau khổ và sẽ có được một nguồn an lành, tịnh lạc rộng lớn, thường trực. Có thể nói đây là con đường tu hành được đặt cơ sở trên Chánh Kiến và Chánh Tư Duy./.

-ooOoo-

Ðại đức Brahmavamso

Trí tuệ giác ngộ


Tiểu sử:

Ðại đức Brahmavamso (Peter Betts) sinh năm 1951 tại Luân Ðôn. Trong một lần ghé vào hiệu sách ở Luân Ðôn, đại đức đã bắt đầu thích thú trước những quyển kinh Phật, mặc dù lúc này đại đức vẫn còn là một cậu bé học sinh. Lớn lên, đại đức vào học ở đại học Cambridge và chọn ngành vật lý. Ngay từ thời sinh viên, đại đức đã là hội viên của một hội Phật giáo địa phương và bắt đầu tu tập thiền định. Sau khi tốt nghiệp với mảnh bằng ưu hạng, đại đức đã về dạy vật lý tại một trường trung học ở Devon trong ít lâu. Thế rồi qua sự quen biết với các vị tỳ kheo người Thái ở Luân Ðôn, đại đức đã quyết định tìm sang Thái Lan để xuất gia tỳ kheo tại chùa Sraket với Hòa Thượng Tan Chao Khun Prom Gunaphorm.

Năm 1975 đại đức Brahmavamso đến học thiền với Ngài Ajahn Chah và cũng là một trong những vị sư đầu tiên của chùa Pah Nanachat.

Năm 1983 đại đức đã sang giúp đỡ đại đức Jagaro hoằng pháp tại Tu viện Bodhinyana ở Perth, miền Tây nước Úc, nơi mà đến nay Ngài vẫn đang lưu trú. Hiện nay, Ngài là viện trưởng của Tu viện. Ðại đức đã có nhiều hoạt động tích cực trong việc xây dựng các cơ sở Phật giáo và thuyết giảng giáo lý cho trẻ em trong các trường học, và các tù nhân địa phương.

Trong số các nhà sư Tây phương, đại đức Brahmavamso được xem như là vị có kiến thức về Luật Tạng uyên thâm nhất. Chính những công trình biên soạn của đại đức về Luật Tạng đã là những cẩm nang đầu giường cho chư tăng Tây phương khắp các quốc gia Anh Quốc, Thụy Sĩ, Úc và Tân Tây Lan.


Trí Tuệ Giác Ngộ

Hồi còn bé tôi cứ mơ ước sau này lớn lên được trở thành một người lái tàu hỏa. Ông của tôi thường giắt anh em tôi đến nhà ga Euston ở Luân Ðôn để từ đây tôi có dịp làm quen với sắt thép, dầu mỡ và những cổ máy. Tôi thích thú lắm, cứ như được sống trong mơ vậy. Tôi nghĩ hoài đến một ngày nào đó mình lớn lên rồi điều khiển cả một đoàn tàu dài ngút mắt để chạy qua những miền đất kỳ thú.

Thế rồi mấy năm sau, những mộng mơ trong tôi ngày xưa lại chuyển hướng. Tôi đã đọc rất nhiều sách rồi lại tự dựng lên trong đầu mình hình ảnh một siêu nhân có đôi mắt luôn phát quang chói ngời, có một đời sống tuyệt đối hạnh phúc, không biết gì đến tuổi tác cùng những biển dâu trong cuộc đời này. Tôi mơ ước mình đến một ngày nào đó cũng sẽ được như vậy.

Rồi cũng trong cái tuổi học trò của mình, lần đầu tiên tôi được nghe kể chuyện về Ðức Phật. Dù vẫn là một cậu học trò thôi, nhưng giai thoại về những tháng ngày tu hành của đức Bồ Tát giữa một khu rừng già ở Ấn Ðộ ngày xưa đã khiến tôi bắt đầu lưu tâm đến việc thay đổi nếp sống. Trong một ngày Lễ Phật Ðản của Hội Phật Giáo địa phương, khi được nghe một vị đại đức người Tích Lan kể lại quá trình tu hành của Ðức Phật, tôi bỗng nhiên bị kích động mãnh liệt. Tôi cứ bị ám ảnh hoài lời đại nguyện của Ðức Bồ Tát dưới gốc Bồ Ðề: "Cho dầu máu ta có khô đi, xương ta có vỡ vụn thành bột ta cũng sẽ không bao giờ rời khỏi chỗ này khi chưa chứng đạt quả vị Chánh Ðẳng Chánh Giác".

Giai thoại đó đã in sâu và gần như mọc rễ trong tâm hồn tôi. Một cảm giác bức xúc kỳ lạ đã khiến tôi không thể kiên nhẫn ngồi lại để dự xong buổi lễ, tôi đã lập tức quay trở về trường, chạy vào phòng mình rồi nằm úp mặt. Những tư tưởng thao thức, tự vấn cứ như giằng xé tâm hồn tôi: Tôi đã được nghe pháp quá nhiều, đã xem kinh quá nhiều và cả năm trời vừa qua, tuần nào tôi cũng đến tham dự một buổi thiền định... Tại sao Ðức Phật có được một hùng tâm như vậy mà tôi thì lại chẳng có được một phần nhỏ của Ngài?!

Thế rồi bằng tất cả nhiệt huyết nông nổi và manh động của tuổi trẻ, tôi đã quyết định dốc sức thiền định để được giác ngộ. Hoặc là ngay bây giờ, hoặc là chẳng bao giờ - tôi tự đặt ra cho mình câu tiêu ngữ đó, và ngay ngày hôm sau, tôi đã làm một cuộc thử nghiệm. Khóa trái cửa phòng mình lại, tôi ngồi xuống ngay ngắn trên tấm tọa cụ vẫn được dùng để ngồi thiền rồi tập trung tư tưởng, tôi đọc thành tiếng từng câu từng chữ "Lời Ðại Nguyện" của mình một cách rõ ràng và dứt khoát: "Cho dầu máu tôi có khô đi, xương cốt tôi có tan nát thành bụi, tôi cũng không bao giờ rời khỏi tọa cụ này trước khi giác ngộ".

Chỉ có vậy thôi, tôi đã ngồi yên như một xác chết. Năm mươi phút trôi qua, cơn đau đớn trong tôi đã lên đến mức cực điểm. Dầu máu tôi vẫn chảy bình thường trong huyết quản và xương cốt của tôi cũng chưa hề có vấn đề gì nhưng cái cảm giác tê buốt ở hai đầu gối đã cho tôi biết thế nào là địa ngục - và điều làm tôi bận tâm nhất là trong suốt thời gian đó tôi chẳng hề thấy một tia hào quang nào hết. Bởi theo tôi thì dù gì điều đó cũng phải xuất hiện để chứng tỏ rằng ít nhất tôi cũng đã gần đạt đạo chứ! Ðổi ngược lại tôi chẳng được gì hết, ngoài một cảm giác đau đớn quá sức chịu đựng. Tôi đã gần như không đứng dậy nổi và "cuộc đại ngộ thất bại" đã làm khổ tôi suốt ngày hôm đó.

Thời gian qua đi, rồi tôi cũng dần dần trưởng thành thêm đôi chút để có thể bỏ lại sau lưng mình những ước vọng ngộ nghĩnh từ những ngày bé dại và cả lứa tuổi dậy thì. Hôm đó, tại phi trường Luân Ðôn, tôi đã được hai vị tỳ kheo người Thái đến đưa tiễn sang Bangkok để xuất gia. Mãi cho đến bây giờ tôi vẫn cứ nhớ hoài câu nói từ biệt của một trong hai vị sư người Thái đó, người đã từng hướng dẫn tôi. Ngài nói với tôi: "Hãy nhớ quay về đây khi cậu đã giác ngộ nhé!". Trước khi ra đi tôi đã tính toán kỹ lưỡng và có lời hẹn với những người thân rằng sau hai năm tu học ở Thái Lan, tôi sẽ trở về. Có thể nói rằng hai năm trời trong nếp sống xuất gia là cả một thời gian khá dài, vừa đủ cho một người kém thông minh nắm được phần nào cái căn bản của đường tu. Còn đối với riêng tôi, tôi đã tốt nghiệp đại học nên tôi cứ tin chắc rằng chỉ trong chừng ấy thời gian mình sẽ có thể trở lại Anh Quốc với tư cách một người đã ngộ đạo. Tôi nhớ mình đã từng là một người vượt qua được rất nhiều thứ, chẳng hạn tôi đã từng từ bỏ ý muốn lập gia đình, một lý tưởng sống mà khó ai lại dễ dàng bỏ qua. Ðại khái tôi đã phủi bỏ tất cả trước ngày lên đường sang xứ Thái.

Nhưng quí vị biết không, hai năm trời xuất gia đã cho tôi thấy rằng việc giác ngộ giải thoát chẳng hề dễ dàng tí nào! Tôi nhận ra điều đó qua những kinh nghiệm thật xót xa. Chẳng hạn tôi là một người da trắng được ăn học đàng hoàng ở một đại học lừng danh thế giới, vậy mà trong cuộc sống tu hành tôi đã thật sự thua kém một cách đáng ngại so với những nhà sư bản xứ chỉ mới học xong lớp ba, lớp bốn trường làng. Nhưng đổi lại, lòng kiêu ngạo của tôi hồi nào đã dần dần được tẩy xóa. Ðó là cả một kỳ tích, dù tôi thật ra vẫn chưa thực sự giác ngộ.

Tôi đã học được cách tìm thấy cái thú vị trong đời sống đạm bạc và khép mình của một nhà sư. Tôi đã bỏ hết những gì thuộc về cái da trắng của mình để tự nguyện chấp nhận cuộc đời của một người tay trắng. Tôi không muốn rời xứ Thái và những tục niệm ngày xưa ở bên quê nhà đến bây giờ bỗng nhiên bay biến đâu cả.

Vào mùa an cư thứ tư trong đời tu của mình, tôi đã phải đối diện với một biến động. Người ta nhắn tin về Thái Lan rằng Giáo Hội Phật Giáo Anh Quốc đã mua được một cơ sở để làm chùa và bên đó đang cần có thêm chư tăng. Phải nói rằng đây là một thời điểm để tôi đối đầu với vấn đề giác ngộ. Bởi vì lúc đó tôi đang sống tại một ngôi chùa hẻo lánh, hiu quạnh và việc tu tập thiền định của tôi lúc đó cũng đã bước vào giai đoạn chuyển mình. Nói chung, chuyện tu hành của tôi lúc này xem như đang được ổn định. Vậy mà cái chuyện "xê dịch" kia lại xảy đến cho tôi!

Vào một buổi chiều, sau nhiều giờ tọa thiền, trên con đường kinh hành tôi bất chợt hiểu ra căn cội của mọi vấn đề mà mình vẫn trăn trở và tâm hồn tôi lúc đó lập tức trào dâng một niềm hạnh phúc thật kỳ lạ. Mọi thứ chung quanh như bừng sáng lên, toàn thân tôi như được thấm nhuần cái cảm giác an lạc nào đó thật lạ lùng và tôi thấy mình như đang tiếp nhận được một nguồn sinh lực hết sức mãnh liệt. Trời tối lúc nào tôi cũng không hay. Tôi cứ ngồi đó thiền định như quên mất mình đi. Sau đó tôi nằm xuống nghỉ một lát và tỉnh dậy lúc ba giờ sáng để lại bắt đầu buổi thiền định trong Tham Vấn Ðường. Tôi đã trải qua những giờ tọa thiền một cách thanh thản và dễ dàng đến mức không biết buồn ngủ hay mỏi mệt là gì. Niềm hạnh phúc trong thiền lạc đúng là không thể nói được. Chỉ tiếc là để kéo dài nó như ý mình muốn thì không phải dễ.

Ngôi chùa mà tôi vừa kể trên, nơi tôi đã sống qua thời gian thiền định tuyệt vời nhất, lại là một ngôi chùa rất nghèo, mọi phương tiện vật chất đều hết sức thiếu thốn. Chùa nằm ở miền Ðông Bắc Thái Lan và ở đây mỗi ngày chư tăng chỉ dùng có một bữa, không có điểm tâm. Ấy thế nhưng, cái buổi sáng sau đêm thiền định hạnh phúc kia lại là tất cả những gì thử thách và đối lập với những thành quả mà tôi đã đạt được trong vài giờ trước đó. Trong bữa ăn hôm ấy, ngoài món cá hầm thường được nấu rất cẩu thả và mất vệ sinh, còn có một tô cà ri thịt heo. Hôm ấy, sư trụ trì người Thái tỏ ra chán ngấy món cá hầm khó nuốt kia rồi cứ múc từng muỗng lớn cái món cà ri. Tôi thiệt tình chẳng bận tâm gì tới chuyện đó dù ai cũng có thể thấy rằng cái cảnh tượng ấy rất dễ khiến người ta bực mình. Phải nói rằng tôi chẳng hề có ý "tranh giành quyền lợi" trong những trường hợp cỏn con như vậy. Trong đám đông chư tăng lúc đó tôi ngồi ở vị trí thứ hai kế bên vị trụ trì nhưng vị này cứ như chẳng hề nhìn thấy tôi. Thế rồi sau đó, như nhớ ra, vị này đã đổ trút phần cà ri còn sót lại trong tô vào đĩa cá hầm trước mặt tôi, rồi nói "cứ nuốt cả vào đi, vào tới bao tử rồi mọi món cũng sẽ trộn chung lại với nhau thôi". Ðến lúc này thì tôi thật sự nổi giận. Ðó là một thái độ thiếu lịch sự không thể chịu nổi. Nếu vị trụ trì chỉ hồn nhiên làm việc đó theo cái suy nghĩ thiệt thà của mình thì tại sao không trộn chung lại các thứ để ăn trước khi chia phần cho tôi. Tôi đã trừng mắt giận dữ nhìn vào đĩa thức ăn của mình nhưng cũng may tôi không có phản ứng nào khác. Ðiều đáng tiếc là vị trụ trì đã làm tôi nổi giận đến phát điên. Quý vị hãy nhớ rằng đúng ra bữa ăn hôm đó phải là một bữa ăn tuyệt vời cho tôi. Vì ngay đêm trước tôi vừa trải qua những giây phút giác ngộ!

Một tư tưởng nhức nhối đã xảy đến cho tôi trong lúc đó rằng mình vẫn chưa thực sự giác ngộ! Các bậc Giác ngộ không hề biết nổi giận. Chư vị A la hán không thể nào bị các món ăn chi phối. Tôi đã nổi giận có nghĩa là vẫn chưa giác ngộ! Phải nói đây là một sự đổ vỡ ghê gớm, một áp lực nặng nề cho tôi. Tôi đã đổ bỏ tất cả thức ăn vào bát của mình để đem vất đi. Và tôi đã không còn đủ bình tĩnh để ghi nhận cái lưỡi của mình đã nếm phải thứ gì trong bữa ăn đó nữa.

Trong tình trạng đạo lực ngày càng thối thất và sa sút đó, trong những năm tu sau đó của mình, tôi ngày càng xuống dốc, thậm chí đổ đốn hơn. Cái lý tưởng tu hành ngày nào bây giờ bỗng dưng mờ nhạt bên cạnh những ước mơ của thời tuổi trẻ, từ cái ước mơ của người lái tàu hỏa, cho đến hình ảnh một nhà thiên văn học hàng đầu, một cầu thủ kiểu mẫu, một tay chơi tây ban cầm lừng danh hoặc một sinh viên nổi tiếng hào hoa... và cứ vậy, tôi thấy cái lý tưởng giác ngộ của mình có vẻ ngu xuẩn làm sao. Bởi xét cho cùng, cái ước mơ trở thành người lái tàu hỏa thôi cũng là điều có thể thực hiện. Còn đối với cứu cánh giác ngộ thì tôi hoàn toàn không thể tìm thấy một chút đảm bảo nào hết. Và cũng trong suốt thời gian đó, mối quan hệ giữa tôi với các bạn bè đồng tu cũng càng lúc tệ hại hơn. Tôi không muốn nói chuyện với ai, chỉ trả lời một cách đầy ác cảm trước những câu hỏi. Như vậy tình trạng của tôi lúc này đúng là hoàn cảnh của một người lạ nơi đất khách. Mọi thứ chung quanh đều có vẻ như chống đối lại tôi: những bữa ăn buồn nôn, những vật dụng hư cũ, những muỗi vắt ác nghiệt cùng cái không khí nóng bức triền miên... cái gì cũng khó khăn đối với tôi, nhưng tại sao lại như thế? Bởi vì tôi đã đánh mất lòng tự tin một cách nghiêm trọng.

Như vậy rõ ràng là cho đến khi nào chúng ta vẫn chưa hiểu được một cách chín chắn ý nghĩa của sự giác ngộ thì bất cứ một con ong, cái kiến nào cũng có thể dễ dàng khiến ta đánh mất lý tưởng cao đẹp đó cả. Thật ra tôi tự hiểu mình vẫn chưa hề có ý muốn hoàn tục, tôi biết rõ điều này và nó đã có một ý nghĩa rất quan trọng đối với tôi. Ðiều mà tôi cần thiết phải thực hiện chính là biết bỏ đi những gì là hoang tưởng. Cho nên nếu lý tưởng giác ngộ của tôi trước đây chỉ xuất phát từ một ý muốn nông nổi thì nó lại cũng chỉ là một thứ hoang tưởng mà thôi. Mà đã vậy, nó chỉ là cái cần được vất đi!

Trong cảnh giới của thiền quán, xét về một khía cạnh nào đó, một tư tưởng đơn sơ đôi khi lại là một con đường ngắn nhất để dẫn đến trí tuệ giác ngộ. Trong khi đó, một nội tâm bị ám ảnh bởi quá nhiều suy tính thì lại chỉ có thể đưa người ta đến một ngõ cụt ngu xuẩn. Còn đối với tình trạng trì độn của tôi thì sao? Ðiều này đã được nói đến rất nhiều trong kinh điển và đã có biết bao vị chân sư ai cũng từng lưu ý đến vấn đề này. Ðó là cái chân lý "mọi cái Trở Thành luôn là đau khổ, bất luận là Trở Thành Cái Gì". Ðức Phật đã từng khẳng định rằng Ngài không chủ trương việc Xây Dựng, Tạo Tác hay một nỗ lực để Trở Thành cái gì đó. Ý tưởng Trở Thành chính là sản phẩm của Ngã Chấp. Chính cái lý tưởng trở thành đã tô điểm và củng cố cho mọi mê vọng ngộ nhận. Nó có thể được gọi là lớp da phủ ngoài của một cái Tôi phù du. Chấm dứt mọi ước vọng trở thành cùng những ảo tưởng được thoát thai từ nó thì coi như mọi vọng niệm cũng được phá vỡ.

Như vậy thì chưa cần gì đến những trình độ thánh trí, những nhận thức trên đây đối với tôi cũng có thể tạm được xem là một cứu cánh giác ngộ rồi. Tôi thấy rằng thay vì nhức đầu cho cái hành trình xác định một cái Tôi "Ai? Người Nào?..." Thì tốt hơn ta hãy cùng nhau khám phá xem người nào có ước muốn trở thành bậc Giác Ngộ nếu như quả thật có một con người thật sự hiện hữu. Tôi đã cố gắng khám phá định lý vô ngã, một công phu có nhiều ý nghĩa hơn là chuyện Trở Thành Một Con Người Giác Ngộ. Một điều buồn cười là có nhiều người cứ đến hỏi tôi một câu hỏi hạng bét mà họ đã từng hỏi nhiều vị khác rằng tôi đã đắc đạo hay chưa. Trong những trường hợp đó tôi đã mượn lại câu nói của cố Hòa Thượng Anandamangala Mahànàyakathera, một đại sư thánh hạnh người Tích Lan để trả lời câu hỏi đó: "Tôi chưa được giác ngộ thánh trí nhưng tôi đã học được cách chối bỏ tối đa những gì cần chối bỏ".

-ooOoo-

Ðại đức Sucitto

Tinh thần Quan Âm và hình ảnh con voi


Tiểu sử:

Ðại đức Sucitto sinh năm 1949 tại Luân Ðôn nhưng vài năm sau đó, gia đình của đại đức đã dời về một thị trấn nhỏ ở Dunstable. Ðại đức đã bắt đầu hứng thú với Phật giáo kể từ lúc còn đi học, qua các tác phẩm văn chương Nhật Bản. Nhưng chỉ có thế thôi, ở Dunstable không có điều kiện để đại đức nghiên cứu về đạo Phật. Là một người có năng khiếu văn chương, năm 1971, đại đức đã nhận được mảnh bằng cử nhân văn chương Anh Mỹ tại đại học Warwick. Sau đó, để tìm cho mình một hướng đời nhiều ý nghĩa hơn, đại đức thực hiện một chuyến du lịch về phương Ðông. Cuộc đi được bắt đầu từ Châu Úc. Sau một thời gian ở Ấn Ðộ, đại đức đến Thái Lan năm 1975 rồi tham dự một thiền khóa được tổ chức tại Chiang Mai. Chỉ sau vài hôm thiền định, đại đức đã nghĩ đến việc xuất gia.

Xuất gia xong, trong suốt ba năm đầu tiên, đại đức gần như chỉ sống ở chùa Kiriwong tại thành phố Sawan. Trong một thời gian lưu trú tại Chiang Mai, đại đức gặp Ngài Sumedho trước khi vị này rời Thái về Anh. Thế rồi năm 1978 trong chuyến về Anh để thăm gia đình, đại đức Sucitto gặp lại Ngài Sumedho tại chùa Hampstead và đại đức quyết định ở lại tu học bên vị này. Suốt những năm tháng sau đó, đại đức đã giúp đỡ Ngài Sumedho rất nhiều, đặc biệt là đã ra sức ấn hành các bài giảng của Ngài cùng các kinh sách khác của Giáo hội. Ðại đức Sucitto là vị trưởng lão đầu tiên của chùa Harnham. Từ năm 1983 đại đức thành lập một cơ sở tu học cho các tu nữ mười giới và đến năm 1984 đại đức dời về sống ở trung tâm Phật giáo Amaravatì rồi sống luôn tại đây cho đến nay.

Bài viết dưới đây gần như là một đoạn hồi ký kể lại những tháng ngày đại đức đã sống trì hạnh đầu đà cùng với đại đức Gavesako ở Isan, miền Ðông Bắc Thái Lan vào mùa đông năm 1986.


Tinh Thần Quan Âm và Hình Ảnh Con Voi

Siraja không đẹp lắm, ở về phía đông Bangkok và đã trở thành một phố nối dài do mật độ dân số của thủ đô. Siraja nằm dọc theo bờ biển, chạy từ Samut Pakhan đến Chonburi, đời sống chủ yếu nương theo cơn vùng dậy của nền công nghiệp dầu hỏa và tàu bè trong vùng vịnh Thái Lan. Ðại đức Gavesako và tôi đã quyết định đi đến đây để làm một cuộc du hành đầu đà và đặc biệt là để tìm đến một hòn đảo mà dân địa phương vẫn gọi là đảo Sichang (trong tiếng Thái có nghĩa là hòn đảo của loài voi thiêng). Lúc bấy giờ đang sắp sửa bước vào mùa Giáng Sinh, khắp nơi trên đất Thái đều rất nhộn nhịp, đặc biệt các thành phố đã bị Tây hóa. Chúng tôi bàn nhau ngủ lại một hai đêm trong một ngôi chùa nhỏ mà đại đức Gavesako đã quen biết trước, để rồi từ đây chúng tôi sẽ ra hòn đảo kia sống dấu mình trong ít hôm.

Phải nói đây là một ý tưởng rất hay của chúng tôi, bởi ngay giữa lúc mọi nơi đều đang bắt đầu náo nhiệt thì chúng tôi lại có mặt ở một khu rừng vắng tại Isan. Ngôi chùa nhỏ mà chúng tôi nghỉ đêm chỉ có một diện tích vài mẫu thôi, chùa nằm đối diện với một sườn đồi nằm bên ngoài thị trấn Siraja, không quá xa hay quá gần với trung tâm dân cư. Nhưng dù vậy những bài hát Giáng Sinh từ đường phố vẫn vọng lên chùa lồng lộng. Theo dự tính, chúng tôi chỉ ở lại chùa này một hai đêm thôi nhưng vì lúc này tôi thấy phải đi thật gấp và khổ nỗi muốn gì thì cũng phải lấy vé tàu trước đã. Một cái vé thôi, trong thời điểm này cũng phải đợi đến mấy ngày mới mua nổi. Nên vào một buồi chiều, sau khi đã ở lại ngôi chùa đó vài ngày, chúng tôi đã ra bờ biển rồi tìm đường sang một hòn đảo nhỏ bằng cách men theo cầu tàu. Trên đảo có một ngôi chùa Phật giáo Trung Hoa và cũng rất nhiều ngôi chùa theo truyền thống này ở khắp xứ Thái. Ngôi chùa Tàu mà chúng tôi vừa ghé vào cũng vô cùng rườm rà, rắc rối với hàng chục thứ ảnh tượng và nghi thức cúng bái. Ðể cầu phước lợi, người ta thường đến những ngôi chùa kiểu này tế lễ và cầu khẩn Ðức Phật hoặc các vị Bồ Tát, đặc biệt là Quan Thế Âm Bồ Tát. Theo tín ngưỡng Trung Hoa, đó là vị Bồ Tát luôn lắng tai nghe ngóng lời cầu khẩn của những chúng sanh khổ nạn để kịp thời phù hộ cho họ. Phải nhận rằng tôi chưa bao giờ tưởng tượng ra được cái không khí huyền hoặc như vậy qua kiến thức của mình về Phật Giáo. Tôi đã cố làm ngơ đi trước mọi hình ảnh đó trong chùa để quay ra nhìn về biển cả lúc này đang chói ngời trong ánh nắng chiều. Ngắm một bầu trời mát dịu như đang lồng lộng trên kia, tôi cứ vậy mà càng muốn bỏ đi thật gấp để tìm đến một nơi có thể thiền định lập tức.

Buổi chiều hôm sau, chúng tôi đã tìm được thuyền để đi ra đảo Sichang. Chúng tôi ghé vào bến đỗ trên đảo rồi cứ vậy mà đi bộ dọc theo bờ biển để đến một chỗ càng xa bến tàu càng tốt. Chúng tôi đã bắt gặp một ngôi chùa cổ hoang tàn đổ nát vốn đã được xây dựng từ đời vua Mongkut. Dĩ nhiên ngôi chùa này chẳng giống ngôi chùa Tàu bên hòn đảo nhỏ kia. Cái hoang cảnh tiêu sơ ở đây dù sao cũng vẫn giữ lại được một bầu không khí ấm cúng và trang nghiêm. Ngay trên nền chùa có mọc lên một cây Bồ Ðề, các vách tường của chùa đều bị rạn vỡ, trên những mảnh tường còn lại gần như trơ trụi. Chúng tôi ngậm ngùi khi thấy trên đó có một vài bức chân dung của những vị tỳ kheo trì hạnh đầu đà. Trong số đó có cả ảnh Ngài Ajahn Mun, sư phụ của thiền sư Ajahn Chah. Ðối với chúng tôi, được sống ở một nơi gần như thánh địa này để thiền định quả là vô cùng lý tưởng. Chúng tôi đã chọn đúng chỗ rồi, một chỗ ẩn tu thật tuyệt vời.

Chúng tôi lại thả bộ xuống những kè đá và quyết định tận dụng từng ngày trong điều kiện sống viễn ly này một cách nhiều ý nghĩa nhất. Năm ngày trôi qua thật nhanh, chúng tôi gần như đã đánh mất khái niệm thời gian vì bất cứ lúc nào trong những ngày này chúng tôi đều luôn cảm thấy tâm hồn mình trở nên trong sáng một cách kỳ lạ, Khả năng tập trung chánh niệm cũng có vẻ dễ dàng hơn. Thậm chí cho đến sức khỏe sinh lý của chúng tôi trong thời gian này cũng như đang ở vào tình trạng tốt nhất. Chúng tôi cảm thấy khỏe khoắn đến mức không muốn đi ngủ.

Thời tiết trên đảo mùa này thật tốt, bởi nói chung thì ở Thái Lan, tháng mười hai luôn là tháng lý tưởng nhất trong năm: ấm áp, mát mẻ và cũng chẳng có sương mù. Ðược trải qua những ngày này trên đảo thì quả là thú vị. Tôi vẫn từng đêm ngồi thiền giữa trời rồi nếu muốn có thể ngước nhìn lên hằng tỉ tinh tú bên trên. Những khi đó, thời gian như dừng lại...

Quý vị có ngờ được không, sau mấy ngày hết sức an lạc đó tôi lại có thêm một phần thưởng nữa. Vào một ngày thật tốt trời, tôi tình cờ đi ngang qua một ngôi gác gỗ thật đẹp, nó cũ lắm rồi, lại bị cháy hết một nửa và nằm lẫn khuất trong một đám cây rừng. Ngôi gác gỗ đó nằm gần bên chùa và băng qua nó tôi đã phát hiện được một hang động nằm dưới lòng đất. Hang rộng lắm, nóc trần cũng cao, đủ để ta có thể đi kinh hành, và trong hang còn có nhiều cái hóc nhỏ mà nếu vào đó ngồi thiền thì tuyệt. Ðã vậy, đây lại là một cái hang hoàn toàn bằng đá mới thú chứ. Có mặt trong hang thì coi như ta chẳng còn nghe thấy bất cứ cái gì bên ngoài nữa. Sống ở đây ta cứ như đang nằm trong lòng trái đất. Ðó quả là một ước mơ của người ẩn sĩ! Phát hiện được cái hang động, tôi mừng vui lắm và cứ bàng hoàng mãi. Hôm đó là ngày rằm, tôi muốn đi ngồi thiền nhưng suốt buổi chiều hôm đó, đầu óc tôi cứ phóng túng loạn xạ với đủ thứ tạp niệm: mình đang ngồi gần ngôi chùa cổ này, như vậy coi như mình đang ngồi thiền chung với Ngài Ajahn Mun. Mình có thể xuống hang động kia để thiền định hoặc cũng có thể đi kinh hành dưới đám cây rừng giữa cơn gió chiều để chờ trăng lên và biết đâu vào đầu hôm đêm nay mình sẽ chứng đắc được cái gì đó.

Ðang miên mang đắm mình trong những dòng suy tưởng đó bỗng dưng tôi có cảm giác như mình mất hẳn trọng lượng và đang sắp sửa bay bổng. Tôi kinh ngạc tột độ khi thấy một nhóm người đang tiến về phía tôi và trong sương chiều đang phủ xuống, tất cả bọn họ đều có chung một dáng vẻ thật kỳ quái, ma ảo. Tất cả đều mặc đồ trắng và tôi vô cùng ngỡ ngàng khi nhận ra trong số đó có một người là cư sĩ áo trắng ở ngôi chùa nhỏ bên đảo Siraja mà chúng tôi đã ghé ngủ hôm trước. Ông ta đang đi đến chỗ tôi, với một nhóm phụ nữ cũng mặc toàn đồ trắng. Tôi tự nhiên nghĩ là họ đến thăm chúng tôi. Mà tình thế lúc ấy thật khó xử, tôi không biết nói tiếng Thái. Nhưng dù sao họ cũng đã thấy tôi rồi, không thể làm gì hơn được, tôi đành ngồi yên tại đó và hy vọng mọi chuyện rồi sẽ qua đi thật nhanh. Tất cả chúng tôi đã ngồi xuống bên cạnh gốc Bồ Ðề cổ thụ nằm bên ngoài ngôi chùa cổ rồi một người trong số họ đã đưa cho tôi mấy lon nước đã được ướp lạnh sẵn, trong đó có cả Coca cola. Tôi nhận lấy một lon rồi thong thả uống. Bọn họ lại hỏi tôi đủ chuyện, họ nói nhiều lắm trong khi tôi chỉ hiểu được loáng thoáng, tôi chỉ mỉm cười rồi bập bẹ giải thích mình không hiểu được tiếng Thái. Lúc đó tôi cứ nghĩ đến Gavesako và thầm mong đại đức có mặt kịp lúc và nói chuyện với nhóm người đó. Còn tôi lúc này dĩ nhiên chỉ muốn bỏ đi để tìm đến chỗ nào đó ngồi thiền. Nhưng rồi trong tư tưởng tôi lại đột nhiên nảy ra những câu hỏi: "Tại sao nhóm người kia lại đến đây? Tại sao tôi cứ kinh ngạc về chuyện đó?" - Vì đại đức Gavesako mới đến, tôi phải ngồi với đại đức một lát. Rồi khi nhận thấy đại đức với nhóm người kia đã bắt được câu chuyện với nhau, vì đại đức Gavesako rất giỏi tiếng Thái, nên tôi mới quyết định đứng dậy bỏ đi. Vào đúng ngay lúc đó, đại đức Gavesako nói với tôi là hãy thu xếp để quay về.

Thấy tôi có vẻ thắc mắc, đại đức cho biết sẽ quay lại Siraja. Buổi thiền định đêm nay của tôi coi như không thể thực hiện được rồi. Tôi lại hỏi lý do trở về Siraja, đại đức Gavesako trả lời cho tôi biết rằng nhóm người kia cố ý mời chúng tôi quay trở lại, còn đại đức thì không có lý do để từ chối. Một cái gì đó như niềm thất vọng đã rơi xuống trong tôi. Tôi quay lại để lấy hành lý mà cứ thắc mắc trong lòng: "Bọn họ muốn gì? Chúng tôi đang làm gì? Chúng tôi đang dự định trở vào nền chùa để tụng kinh kia mà! Tại sao chúng tôi không tiếp tục ở đây nữa trong khi chúng tôi đã ở đây được mấy ngày rồi? Chúng tôi có thể sẽ trở về bất cứ lúc nào kia mà... Chúng tôi đến đây để thiền định rồi bây giờ lại quay trở về thành phố. Tại sao chứ? Thực ra người ta muốn gì ở chúng tôi?". Nhưng ở hoàn cảnh chẳng đặng đừng này, tôi biết mình không thể xử sự như ý nên cũng đành thôi. Chúng tôi ra bến tàu rồi chờ đợi ở đó một lát. Ít phút sau, một con thuyền chạy đến đưa chúng tôi rời đảo Voi Thiêng để trở về Siraja.

Thế là, chúng tôi quay trở lại ngôi chùa trong thị trấn Siraja mà không biết để làm gì. Tôi về phòng của mình, sắp xếp hành lý rồi ngồi đó chờ đợi. Tôi đã ngồi đó chờ đợi nhưng không có gì xảy ra cả, ngoại trừ những âm thanh ồn ào từ thành phố dội về chùa suốt cả ngày đêm. Mà ở xứ Thái kể cũng lạ, cứ vào mùa Giáng Sinh thì mọi người, bất kể là con chiên Thiên chúa hay Phật tử đều vui chơi ca hát như nhau cả. Những bài hát mừng Giáng Sinh như White Christmas, Rudolph the Red-Nosed Reindeer đều bằng tiếng Anh nên có lẽ vì vậy mà người ta, phần đông là không hiểu được ý nghĩa của chúng, cứ trổi giọng hát tới hát lui một cách vô tội vạ. Từng đêm, từng buổi sáng, tôi cứ ngồi đó lắng nghe và chờ đợi. Ngồi nghe mấy bài hát Giáng Sinh mà tôi cứ nhớ ánh trăng trên đảo Sichang, nhớ tới ngôi chùa cổ đổ nát, nhớ tới Ngài Ajahn Mun rồi những giờ thiền định trên hòn đảo thơ mộng đó nữa.

Nhưng có một điều không thể phủ nhận là cũng chính trong những ngày này, tôi đã học được cách lắng nghe, và nó gần như đã là một thành quả tu học của tôi. Tôi nghe như trong bản thân mình có chút gì đó đã được ổn định để tôi có thể sống giao hòa trung thực với mọi sự chung quanh. Bài hát Giáng Sinh Rudolph the Red-Nosed Reindeer thật ra có một nội dung rất đặc biệt, nhất là khi ta nghe nó qua vài lần. Nội dung của bài hát này có một ý nghĩa răn đời chứ không chỉ đơn giản là một nhạc khúc hát mừng lễ hội. Chuyện lạ lắm, tôi đã thử bỏ đi những gút mắt trong lòng mình rồi lắng nghe từng âm thanh của cuộc đời chung quanh, đằng sau cái dư hưởng của những náo nhiệt đó là cả một cảnh giới tịch mặc vô cùng kỳ diệu. Rồi một điều hết sức kỳ diệu khác nữa là chính cái cảnh giới im lặng mà tôi vừa nói kia lại đã mở ra cho tôi cái khả năng lắng nghe mọi sự. Ðó chính là cái cảnh giới thinh lặng tuyệt vời được dành riêng cho "cái thính giác ý thức", một thứ thính giác sâu thẳm và mênh mông mà không một âm thanh nào có thể nhiễu động. Ðồng thời trong chính cái thính giác kỳ diệu này cũng hàm chứa một sự bao dung độ lượng vượt ngoài thời gian tính.

Từng ngày rồi từng ngày trôi qua vẫn không có ai đến gặp gỡ hoặc để đưa chúng tôi đi đến nơi nào cả. Người ta không muốn tôi thuyết pháp, tụng kinh, làm lễ, đi đâu và nói gì hết. Có thể họ e ngại rằng chúng tôi chỉ quen sống độc cư hoặc cũng có thể người ta nghĩ rằng chúng tôi thích sống đạm bạc. Thậm chí tôi còn nghĩ đến tất cả những tình huống có liên quan cái gọi là tình đời, lòng người. Nhưng rồi sao cuối cùng rồi tôi cũng vẫn cảm thấy hạnh phúc. Tôi đã cố gắng nhớ lại tất cả sức mạnh từ tâm của một vị Bồ Tát để học cách tri ân với mọi người, dù thiên hạ thực ra có thế nào đi nữa. Trong khi đó, những người đã thỉnh chúng tôi quay lại thị trấn vẫn cứ tiếp tục có vẻ như muốn quản thúc tôi, làm ngược lại mọi ý muốn của tôi, kể cả cái ý muốn lắng nghe tất cả những gì nghịch ý mà họ mang lại. Tôi thấy như ở bất cứ nơi nào cũng đều có những đồng sự của họ và họ vẫn lì lợm không thay đổi cách cư xử đối với chúng tôi.

Phải nói rằng tôi đã có một bài học từ Sichang, hòn đảo Voi Thiêng. Bản thân Ðức Phật cũng giống như một con voi. Con voi ở đây chính là biểu tượng cho một đại nguyện bất thối hướng về cứu cánh giải thoát. Ðó cũng là cái hình ảnh biểu tượng về lý tưởng sống của một vị tỳ kheo trì hạnh đầu đà, một nếp sống được xây dựng bằng những nghị lực chịu đựng - im lặng và cô đơn thử nghiệm chính mình ở những góc trời hoang dã, quạnh hiu. Càng được đi xa, tôi càng thấy hạnh phúc vì ở những bến bờ trôi dạt đó, tôi được cái quyền sống cô đơn và độc lập. Nói một cách thơ mộng nhất, hễ nhắc đến lý tưởng và cuộc đời của một hành giả đầu đà thì tự nhiên tôi cứ nghĩ đến một người quản tượng đang trèo lên lưng con Voi Thiêng. Và trong tưởng tượng của tôi, anh quản tượng đó không phải chỉ là một gã nài voi bình thường, mà ngược lại anh ta là một người quản tượng có một sức mạnh thiền định như ý, nội tâm của anh là một con voi và anh có thể điều phục nó bất cứ lúc nào.

Ðiều khỏi phải nói là đời sống của một tỳ kheo luôn có điều kiện để tu học một cách nghiêm túc và nếu muốn, cũng có thể sống một mình, nhưng xét trên quan điểm đời sống mà nói thì không có ai có thể cắt đứt hoàn toàn mọi quan hệ xã hội. Ðời sống là một đơn tử không thể tồn tại mà thiếu sự tương quan. Cho dầu nếp sống mà Ðức Phật đã qui định cho một vị tỳ kheo luôn nhắm đến cái khả năng tự tại nhưng phải nói rằng tôi đã học hỏi được rất nhiều qua những thử thách trong đời sống tập thể: tăng chúng luôn vạch ra cho tôi những con đường để tôi có thể biết mình sẽ đi về đâu.

Tôi rời phòng mình và đi tìm đại đức Gavesako. Ðại đức đang đọc một tờ báo. Ðại đức đọc một dòng trong đó cho tôi nghe "Mỗi phút trên thế giới có tới bốn đứa bé ra đời" - "Chớ phải thiên hạ đều biết tu thiền cả thì hay biết mấy". Tôi nhận xét:

Ðời tu có nhiều cái để nói lắm. Có nhiều lúc chúng ta phải cần đến một nếp sống khép mình, đôi lúc chúng ta phải biết sống cô đơn và cũng có đôi lúc chúng ta phải cần đến một bài hát Giáng Sinh!

-ooOoo-

Ðại đức Munindo

Sống tỉnh thức


Tiểu sử:

Ðại Ðức Munindo (Keith Morgan) sinh năm 1951, gia đình sống tại Missinswille, Tân Tây Lan (North Island). Người trong nhà đại đức hầu hết là mục sư Tin Lành.

Ðại đức bắt đầu biết đến đạo Phật từ những ngày tháng còn học Tâm Lý Học ở đại học Waikato. Năm 1972 khi sang Úc Châu, đại đức đã gặp các vị tỳ kheo người Thái ở xứ này. Sau đó, trong thời gian ở bang New South Wales, đại đức đã tham dự một khóa thiền dưới sự hướng dẫn của Ngài Ajahn Khantipàlo.

Năm 1973 đại đức rời Châu Úc sang Indonesia để từ đó tìm sang Nhật Bản theo đuổi pháp môn thiền Zen theo truyền thống thiền tông của quốc gia này. Thế rồi đại đức lại đi qua Bangkok để dạy Anh ngữ và tình cờ gặp được Ngài Ajahn Sumedho cùng các vị sư người Tây Phương tại chùa Bovornives. Chính tại đây đại đức đã quyết định xuất gia sa-di rồi sau đó thọ giới tỳ kheo với Hòa thượng Phra Somdet Nànasamvara. Lúc này là năm 1974 và ngay mùa an cư đầu tiên đại đức đã đến nhập hạ với Ngài Ajahn Thate ở chùa Hin Mark Peng gần biên giới Ai Lao.

Sau một cơn trọng bệnh phải nhập viện ở Bangkok, đại đức đã gặp Ngài Ajahn Sumedho rồi theo vị này về chùa Pah Pong rồi xuất gia với thiền sư Ajahn Chah (năm 1975).

Năm 1979, vì tình trạng sức khỏe không được tốt, đại đức đã trở về Tân Tây Lan dưỡng bệnh trong sáu tháng. Lúc này ở cả Auckland và Wellington đều có chư tăng cư trú với những cơ sở vững vàng.

Năm 1980, đại đức lại đi sang Anh quốc để nhập chúng tại Chithurst. Ba năm sau đại đức được cử đến Devon, miền Tây Nam nước Anh để xây dựng một ngôi chùa. Hiện nay đại đức đang sống tại Chithurst và giúp thượng tọa trụ trì giáo dục các vị tân sư.

Bài viết sau đây là một thời pháp đêm của đại đức Munindo tại Trung tâm Phật Giáo Dhammaloka ở Perth trong dịp viếng thăm chùa Bodhinyàna ở miền Tây nước Úc.


Sống Tỉnh Thức.

Tôi vô cùng sung sướng được gặp lại đại đức Ajahn Jagaro sau tám năm trời không gặp nhau. Chúng tôi đã cùng trao đổi về sự phát triển ở các thiền viện cùng những hoạt động Phật sự khác ở các cơ sở mà mình chịu trách nhiệm. Chúng tôi hàn huyên với nhau mà chủ yếu cũng vẫn là để tìm ra những đường hướng hoạt động Phật sự sao cho ngày càng tốt hơn.

Ðiều thú vị nhất của chúng tôi là đã thấy được những thành quả mà mình đạt được trong ngay chính cuộc tu. Tôi còn nhớ rõ, trong lễ thọ giới Sadi tại Thái Lan ngày xưa, tôi thật tình đã không mấy thích thú với cái nghi thức thọ trì quy giới bằng cách phải đọc theo thầy Hòa thượng từng điều một. Tuy vậy, một cảm giác gì đó thật kỳ lạ đã âm thầm xuất hiện trong lòng tôi, để tôi cứ tin chắc rằng mình đã tìm được một chỗ trao gởi đúng đắn.

Thiện cảm của tôi với Phật giáo đã bắt đầu từ một cuốn sách đọc được ở trường đại học. Phải nói rằng tư tưởng Phật giáo đã chinh phục tôi ngay từ sau giây phút đó một cách trọn vẹn, cứ như là một định phận. Tôi đã tìm thấy ở quyển sách Phật đó một niềm vui hết sức kỳ lạ, thứ cảm giác của một người vừa khám phá ra điều gì đó mà mình không ngờ trước được. Về điều này có lẽ không chỉ riêng tôi mà đối với ai cũng thế.

Nhưng cái điều trớ trêu là thực tế luôn khó khăn hơn lý thuyết, Ðức Phật dạy ta nhìn thấu bản chất của đời sống, áp dụng trí tuệ thấu thị vào đời sống, phát triển khả năng tỉnh thức trong mọi hoàn cảnh của đời sống và chúng ta cũng có vẻ như sẵn sàng làm đúng lời Ngài dạy, chỉ khổ nỗi, cái khả năng tỉnh thức của chúng ta thì lại không đủ để làm được cái gì cả. Ðức Phật dạy chúng ta hãy có một cái nhìn như thật về đời sống để đời sống không còn là những vấn đề cực lòng cho mọi người nữa. Ðối với Ðức Phật, chuyện đời chẳng là vấn đề gì hết bởi Ngài luôn có thể nhìn thấy tất cả. Còn đối với chúng ta, chúng ta không được như Ðức Phật nên dầu cuộc đời có ra sao đi nữa, nó vẫn cứ là cái đày ải chúng ta. Ðiều này không phải nằm ở cuộc đời, mà chính là ở ngay trong cách nhìn của chúng ta về cuộc đời. Thái độ phản tỉnh trước đời sống luôn hết sức quan trọng. Mỗi khi tôi gặp phải chuyện rắc rối, tôi vẫn thường tự cứu mình bằng những suy nghĩ: Con đường của Ðức Phật là một đạo lộ tự tại, thế tại sao con đường của mình lại có quá nhiều rắc rối. Ở đây, mình có hai con đường để tự chọn: Con đường của bản thân và con đường của Ðức Phật. Thế nhưng tại sao ta lại không chọn lấy con đường của Ngài để bỏ đi con đường nhiêu khê của mình.

Có thể nói con đường tu học được bắt đầu từ cái cảm giác khao khát chân lý. Muốn tu học, chúng ta phải nhận ra được cái giá trị và tính cần thiết của mọi sự hiểu biết về chân lý. Chúng ta phải lập tức thực hiện ngay từ bây giờ những gì là thật sự cần thiết chứ không thể ngồi đó mà đợi chờ cho đến khi mình tắt thở, cho đến khi mình thỏa mãn được cái thứ kiến thức lý tính.

Ðôi lúc trong đời sống, chúng ta vẫn thỉnh thoảng thích đối diện với những khó khăn để khẳng định chính mình nhưng rồi chúng ta lại không thể vượt qua nổi chúng. Tất cả vấn đề thực ra nằm ngay ở khả năng mà chúng ta có được. Chẳng hạn chúng ta tự cho mình đã có được cái khả năng tỉnh thức và muốn áp dụng nó trong đời sống. Nhưng cái yêu cầu ở đây không phải là chúng ta chỉ sử dụng sự tỉnh thức trong đời sống thường nhật như một phương tiện hành đạo, mà chúng ta còn phải nghĩ đến việc hàm dưỡng nó nữa: Từ những động tác đứng ngồi, chúng ta phải luôn dàn xếp và ổn định nội tâm của chính mình nữa.

Trong những ngày đầu tiên mới đến Chithurst chúng tôi đã phải đối diện với biết bao khó khăn. Trước mắt chúng tôi lúc đó là một cánh rừng rộng một trăm hai mươi mẫu vừa được cúng dường. Ở đó có một cái hồ nước và môt ngôi nhà đổ nát. Với hai bàn tay trắng, chúng tôi đã vô cùng bối rối trước lời đề nghị của các giới chức địa phương rằng: "Phải biết sửa sang trước khi sử dụng và không được đốt phá thay đổi gì hết". Thế rồi công việc vừa ổn định xong thì chính quyền địa phương lại lên tiếng không đồng ý cách xử lý của chúng tôi trong khu rừng đó. Thế nhưng cũng từ trở lực này mà chúng tôi đã có được một khu rừng thật đẹp ở West Sussex với một tăng phòng thật lý tưởng.

Ðiều may mắn là về cách làm việc, chúng tôi đã học được kinh nghiệm từ lần trước. Nhưng điều này cũng có nghĩa là chúng tôi phải chờ đợi hàng tháng trời để chờ kết quả. Chúng tôi đã cố hết sức nhưng mọi sự vẫn cứ có vẻ bấp bênh, mong manh. Mỗi lần nghĩ về những người có liên quan đến công trình thì chúng tôi lại bực mình. Chúng tôi đã trải qua từng ngày tháng bồn chồn, khẩn trương như những chiến sĩ thành Troie. Pháp môn thiền định trong thời điểm này quả là vô cùng cần thiết và hơn bất cứ ai hết, đại đức Ajahn Sumedho được xem như là người gương mẫu nhất cho chúng tôi trong thái độ sống này. Chúng tôi đã phải nhờ đến sự trợ lực của một khả năng nội tâm tỉnh thức và điềm tĩnh để có thể đi qua được cái thời điểm đầy chướng duyên này. Mà hành trang thì có gì đâu, nói cho cùng thì chỉ là cái khả năng can đảm chịu đựng thông qua sự tỉnh thức thường trực. Phải nhận rằng sự bất an, lo lắng là một cảm giác hết sức khó chịu. Ngày còn bé, mỗi khi gặp phải những cảm giác như vậy, chúng tôi dĩ nhiên chỉ việc tìm đến cha mẹ. Rồi khi lớn lên, gặp lúc bắt buộc đối mặt với chuyện đời, chúng tôi phải học cách tồn tại bằng chính những kiến thức của mình về tất cả sự thật của đời sống. Như vậy là chúng tôi đã thật sự trưởng thành bởi nếu không, thì chúng tôi phải nhờ cậy đến biết bao thứ có thể thay thế cho gia đình như đi tìm một người cộng sự, những danh phận hay tiền bạc mà mình có được, một niềm tin tôn giáo hay sự chỉ đạo của một hệ thống triết học nào đó...

Trong khi đó đòi hỏi cao nhất trong cuộc tu của chúng tôi phải là một khả năng cảm nhận trọn vẹn và chín chắn về mọi trở lực của đời sống để thấy chúng là chúng. Có điều là quí vị cũng đừng quên rằng cái khả năng điều chế nội tâm vô cùng quan trọng. Thiếu nó, ta không thể có được những cảm nhận như thật. Trong những ngày đầu ở Chithurst, khi phải bù đầu với hàng chục bận rộn, chúng tôi vẫn cố gắng thực tập bài học này để ghi nhận cái cảm giác bất an là bất an nhưng phải nhìn nhận rằng tất cả công phu của chúng tôi lúc đó chỉ là một thứ cố gắng kiên cưỡng với đủ thứ áp lực đè nặng lên trên.

Phật giáo đã phân định rõ ràng hai thái độ tư tưởng cực đoan được xem là hoàn toàn sai lầm. Ðó chính là thái độ mù quáng tin tưởng hết mọi thứ hoặc điên cuồng phủ nhận tất cả. Con đường dẫn đến chân lý phải là thái độ trung dung, hài hòa và khách quan đánh giá mọi sự theo đúng bản chất của chúng. Mà để thực hiện điều này, trước tiên chúng ta phải làm chủ được nội tâm mình để không bị tác động một cách tiêu cực trong tất cả những gì mình cảm nghiệm được bởi hãy nhớ rằng đó chính là một thái độ thua cuộc. Mà trong đời sống, chúng ta thường rất dễ bị rơi vào tình trạng này khi mọi sự đã được chúng ta áp đặt lên nó một khái niệm về cái Tôi rồi chẳng may chúng lại bị đổ vỡ, không được thành tựu như ta đã trù tính. Hồi còn ở Thái Lan, sau khi đã xuất gia được bốn năm rồi, tôi vẫn còn phải trải qua một giai đoạn hết sức khó khăn ngay trong chính cuộc tu của mình. Lúc còn ở ngoài đời, tôi đã từng bị một tai nạn xe cộ, nên suốt mấy năm sau đó, tư thế ngồi thiền đối với tôi là cả một cực hình. Hai đầu gối của tôi cứ vồng lên mà không thể nào chạm được tới cái tọa cụ. Các bác sĩ ở Bangkok bảo rằng xương chân của tôi có tí vấn đề nhưng khổ nỗi là không thể làm phẫu thuật hay một liệu pháp lâm sàng nào cả. Họ bảo tôi phải đi khám bệnh đôi ba tuần lễ để thăm dò kết quả nhưng rồi sau hai tháng trời với ba lần phẩu thuật, tôi vẫn đi lại một cách khó khăn. Quanh tôi lúc đó là đủ thứ bông, băng rồi nhiều y cụ khác. Ðã vậy thời tiết lại đang bắt đầu vào mùa đông. Lúc đó tôi buồn lắm, tôi nghĩ cuộc đời xuất gia của mình thế là coi như đã hết, bởi đâu có một vị sư nào mà không thể ngồi xếp bằng được đâu. Từ đó, cứ mỗi lần thấy ai ngồi xếp bằng thì tôi lại cảm thấy khó chịu. Tôi tự thấy tình trạng của mình thật đáng sợ và đầu óc tôi cứ quay cuồng với những suy nghĩ: "Mình không còn có thể ngồi xếp bằng như người ta được nữa rồi, các bác sĩ đã thật sự bó tay, luật nghi của hàng xuất gia làm sao có thể chấp nhận được một người như mình". Tôi đã thực sự đau đớn, đau đớn từ thể xác đến tinh thần. Tôi đã sống trong một tình cảnh hết sức bi đát.

Thế rồi tôi được nghe tin thiền sư Ajahn Chah vừa từ trên rừng xuống thăm Bangkok. Tôi bất chợt có suy nghĩ kỳ lạ rằng nếu tôi đến gặp Ngài thì rất có thể Ngài sẽ giúp đỡ được cho tôi. Hình ảnh về Ngài đã sừng sững trong tôi như một thần tượng. Rồi tôi lại đến viếng Ngài như đã dự tính. Ngài nhìn tôi rồi hỏi thăm sức khỏe. Tôi thưa lại với Ngài hết mọi chuyện. Thế rồi với một nét mặt ngạc nhiên, Ngài nói với tôi bằng một giọng nói thật cứng rắn: "Sư nghĩ rằng mình không thể tiếp tục tu tập trong tình trạng này phải không? Nếu bây giờ sư đã nghĩ vậy thì có lẽ suốt đời sư cũng sẽ không bao giờ tu tập được gì đâu!".

Phải nói rằng khi vừa nghe xong câu nói này, ngay trong lòng tôi lúc đó như có một sự hoán chuyển mãnh liệt. Tôi không thể nào diễn tả được cảm giác đó. Rõ ràng là Ngài Ajahn Chah trong câu nói khi nãy đã kín đáo cảnh báo tôi một điều vô cùng quan trọng là tôi đã tự tạo ra cho mình một chuyện rắc rối để cực lòng. Theo cách nói của Ngài thì tất cả nỗi đau thật ra chẳng là gì hết. Vấn đề là thái độ chối từ của tôi đối với những đau khổ cũng như cách xử lý vấn đề của tôi mà thôi. Ðiều này không chỉ là câu lý thuyết suông. Khi có ai đó nhắc nhở cho bạn biết phản tỉnh những gì mình đã làm thì chắc chắn ai cũng có cái cảm giác như tôi lúc này thôi, cho dù lúc đó có thể chúng ta cũng đồng thời cảm nhận một cú sốc.

Thái độ buông bỏ cũng là một chức năng của đời sống tỉnh thức để giúp ta giải quyết những rắc rối cuộc đời. Với một khả năng tỉnh thức đứng mức, những đau khổ trong đời sống sẽ trở thành một bài học trí tuệ cho chúng ta. Khi biết sống tỉnh thức và chánh niệm với một thái độ nghiêm cẩn, chúng ta có thể chịu đựng được mọi cảm nghiệm chua chát, đồng thời cũng thấu suốt được biết bao vấn đề của đời sống còn nhìn ngắm lại từng sinh hoạt của mình cùng cái thế giới cảm quan thường nhật bằng một khả năng thông minh tự do, chúng ta sẽ không có thái độ chối từ một cách yếu hèn bất cứ cảm giác nào và chúng ta lúc này đã thành ra một người học trò xuất sắc giữa đường đời mênh mông.

Nếu khả năng cảm nhận của chúng ta bị giới hạn, nội tâm bị khép kín thì điều tất nhiên là trí tuệ cũng không được khơi nguồn. Hoặc nếu chúng ta có thái độ hồi tưởng về những cái cay đắng cuộc đời mà mình đã may mắn vượt qua, với tâm trạng của một người vừa thoát nạn thì xem ra chúng ta vẫn chưa học hỏi được gì về cuộc đời, chưa tu tập đúng mức cái khả năng tỉnh thức của chính mình. Tinh thần vô úy trước những đau khổ của đời sống luôn đặt cơ sở trên khả năng tỉnh thức. Trong cuộc tu của mình, chúng ta phải từng ngày và suốt đời trau luyện khả năng tỉnh thức để quân bình nội tâm và dàn xếp tất cả những phúc loạn của nó.

Một khi đã có cái thói quen quan trọng hóa những cảm nghiệm nghịch lý, những câu chuyện đời bất trắc thì đối với những chuyện vui, chúng ta đôi khi cũng có thể bị cực lòng. Lần đó, ở Tân Tây Lan, tôi đã đến thăm một người bạn thân vốn là một vị sư đã từng sống chung với tôi ở Anh quốc. Vị này bây giờ là một bác sĩ ở Chithurst. Anh bạn của tôi đã từng sống qua một thời gian dài trên những dãy núi tuyệt đẹp ở South Island. Theo lời mời của anh, hai chúng tôi đã bỏ ra ít hôm đi chơi trên núi Alps. Tôi chưa từng sống trên núi bao giờ cả, vậy mà bây giờ lại cảm thấy vô cùng thích thú khi được rong chơi ở miền núi non này trong những ngày thật đẹp trời, khí hậu thật tốt và đặc biệt là đi bên cạnh một người bạn thân. Ngoài những giờ phút ngoạn cảnh, chúng tôi còn dành ra nhiều thời gian để đàm đạo rồi ngồi thiền hết sức thú vị. Trong những ngày chơi núi đó, có một buổi sáng đầy ấn tượng mà cho tới bây giờ tôi vẫn còn nhớ hoài. Hôm đó, trời còn rất sớm, chúng tôi đã rời khỏi túp lều dã chiến mà mấy hôm nay vẫn ở đó để ngủ qua đêm. Chúng tôi lần xuống một dòng suối đầy những đá. Những tia nắng mặt trời lấp lánh trên các đỉnh núi phủ tuyết. Quang cảnh đẹp quá. Tôi uống từng ngụm nước suối, hít thở cái không khí trong lành chung quanh và gần như đắm mình một cách vô thức trong bầu không khí huyền hoặc đó. Thế rồi một cảm giác là lạ bắt đầu len lỏi qua tâm hồn tôi, một thứ cảm giác khó gọi tên chợt xuất hiện. Tôi lại lặng lẽ và len lén theo dõi nó... bất chợt tôi có một ước muốn là làm sao có thể giữ lại được nó trong lòng mình mãi mãi. Rồi tư tưởng tôi lại đi xa hơn nữa, tôi nghĩ đến ngày mình trở lại Anh quốc mà vẫn mang theo được cái cảm giác hạnh phúc này.

Như vậy, một chút lưu luyến, nuối tiếc đối với những niềm hạnh phúc cũng vẫn có thể là một vấn đề nhức nhối khi chúng ta thiếu mất ngay tự nội tâm mình cái khả năng nhìn ngắm trung thực và thực tế. Như vậy là chúng ta đã tự mắc phải một sai lầm, và đã sống trong những ảo tưởng. Cái nguy hiểm của niềm hạnh phúc là khiến chúng ta cứ lo sợ phải đánh mất nó và từ đây chúng ta lại nẩy sinh ra cái hoang tưởng là mãi mãi giữ được nó trong tay mình. Còn đối với những đau khổ, cứ mỗi lần nhớ lại hoặc đang trực diện với chúng thì ta lại nghĩ đến việc trốn chạy. Ðây cũng là lý do tại sao trong bất cứ sự tan vỡ nào cũng có sự đau khổ. Ngay cả cái chết cũng là một trường hợp tan vỡ. Ðiều đáng tiếc là thay vì nhìn thẳng vào sự đau khổ, người ta thường có thói quen nhớ về nó bằng sự tức tưởi rồi cứ nuôi một ảo vọng sửa đổi được nó. Ðây chính là một thái độ sống chối bỏ sự thật.

Trong kinh Pháp Cú có một câu kệ thật tuyệt vời:

- Cứ cho cái giả là thật và ngộ nhận cái thật là cái giả thì người ta vẫn tiếp tục sống trong cái giả.

Chỉ khi nào thấy được cái thật là cái thật và cái giả là cái giả thì người hiền trí mới đạt được cái thật.

Ðể có thể xác định được một cách chính xác cái gì đó là thật hay giả, chúng ta nhất thiết phải tự có cho mình một khả năng tỉnh thức thật sự, Chúng ta phải cần đến một trí tuệ phơi mở để có thể từ đó đón nhận được những tặng vật của cả sự sống và cái chết một cách rốt ráo, hết mình.

Thái độ "hết mình" ở đây có nghĩa là sự cảm nhận đầy đủ và không phân biệt. Chúng ta không thể chỉ đơn giản tùy thích cảm nhận những gì mình muốn rồi chối bỏ những gì mình ghét. Con đường tu học mà Ðức Phật đề nghị ở chúng ta chính là thái độ chuyên tâm một cách khách quan trong từng nhận thức của mình về đời sống. Thái độ này sẽ đem lại cho chúng ta một khả năng bén nhạy cần thiết, một trình độ trí tuệ thật sự độc lập và tự do.

Trình độ tu học này là một phần thưởng cao quý cho người tìm đạo giải thoát. Ðức Phật đã gọi giáo pháp của Ngài là một hệ thống giáo lý thiện thuyết (Svàkkhàta dhamma). Ðức Phật luôn dạy chúng ta hãy thực hiện những gì mình cảm thấy là cần thiết. Trong cuộc tu, chúng ta không thể hành động với tinh thần cầu may. Ở đây chúng ta có tất cả những pháp môn đào luyện thân khẩu ý một cách rõ ràng. Pháp môn tu hành của chúng ta bao gồm những học giới về sinh hoạt và những thiền án để làm thăng hoa tâm linh. Pháp môn thiền định dạy ta biết sống trung thực với từng giây phút hiện tại. Tất cả những khó khăn trở lực mà chúng ta gặp phải trên đường tu của mình rồi cũng sẽ ổn thôi nếu chúng ta biết khéo ứng dụng các pháp môn đối trừ. Bên cạnh chúng ta luôn có những người bạn tốt, những pháp lữ trong giáo hội tăng già, những người vẫn thường có thể cùng chúng ta san sẻ nhiều thứ. Ðại khái chúng ta luôn có thể thực hiện tất cả những gì mà Ðức Phật vẫn mong mỏi ở những người đệ tử.

Sự thật về đời sống luôn là một điều hết sức thú vị và kỳ diệu. Nó đòi hỏi chúng ta phải hiểu rằng đời sống là cái gì đó cần được nhận thức chứ không phải chỉ đơn giản là một định phận buồn tẻ để chúng ta âm thầm chấp nhận vô điều kiện cho đến khi tắt thở. Bản chất của đời sống là cái cần được nhìn thấy và hiểu biết. Có đi qua được giai đoạn tự chuyển hóa bản thân, chúng ta mới thấy rằng mình đã bắt đầu vượt qua được cái bản năng sống lệ thuộc vào những cảm giác buồn vui, đau khổ hay hạnh phúc. Rồi chúng ta vẫn phải tiếp tục để nâng cao tầm nhìn của mình, để thấy rằng trước giờ mình thật ra chưa hề nhìn thấy được bản thân. Chúng ta nhất định phải có được một nhãn quan mới mẻ về mọi sự trên đời. Hai chữ Chân Lý trong chúng ta bây giờ đã có một ý nghĩa hoàn toàn khác, chúng ta lúc này không cần thiết dò dẫm, lần mò để xác định nó nữa. Chúng ta chỉ đơn giản dấn thân, nhập cuộc và lên đường với nó mà thôi.

Tất cả nỗ lực trong cuộc tu của chúng ta chỉ nhắm vào mục đích tìm ra bản chất của đời sống. Và chính chúng cũng giúp cho ta có được những sinh phong tuyệt vời. Sự nóng giận trước đây, bây giờ trở thành sự năng động và cứ thế, những chướng ngại tinh thần khác như lòng tham, đố kỵ, khoái cảm, đau buồn đều cùng lúc trở thành những nhân tố cho cái Tri Kiến Như Thật của chúng ta. Ðến lúc này thì chữ Pháp (Dhamma) trong lời nguyện quy y đã có một ý nghĩa vô cùng sâu rộng. Vì pháp ở đây, lúc này, không chỉ có nghĩa là một trong ba ngôi báu, mà còn chỉ cho tất cả những gì hiện hữu!

Như những gì vừa nói trên đây thì phải chăng sự đón nhận trọn vẹn bản chất của mọi hiện hữu là một thái độ cam tâm tiêu cực trong đời sống?

Ðể trả lời câu hỏi này, chúng ta có thể nói rằng nếu trí tuệ Thiền Quán mang một tinh thần tiêu cực như vậy thì rõ ràng là chúng ta chẳng còn gì để thực hiện thêm nữa trong đời sống tinh thần. Ngược lại với nhận xét đó, trí tuệ Thiền Quán là một phép sống vô cùng năng động bởi nó luôn mang ý nghĩa trưởng dưỡng tất cả khả năng của chúng ta trong việc đối diện với bất cứ tình trạng hiện hữu nào mà mình đang sống qua, một cách sinh tử và chuyên nhất. Trong sinh phong này hoàn toàn không có gì mang tính tiêu cực hay bị động, mà ngược lại, đây chính là một phép sống vô cùng tích cực và năng động. Nếp sống thấu suốt đó là một con đường tối ưu để hành giả ghi nhận được trọn vẹn từng tình huống thực tại. Ta có thể mượn lời của Lão Tử trong Ðạo Ðức Kinh để giải thích, diễn tả nếp sống này là "Vô vi nhi hữu vi, hữu vi nhi vô vi - Làm mà như không làm gì cả, không làm gì cả nhưng thật ra đã làm rất nhiều". Nói vậy có nghĩa là bất cứ một cử động lớn nhỏ nào của chúng ta, dầu đối với những công việc nhỏ nhặt nhất, cũng đều được thực hiện một cách tỉnh thức và sáng suốt, dù xem ra về hình thức thì lại có vẻ ngớ ngẩn hay vô tâm. Ðây mới chính là phương tiện tối ưu để dẫn đến một thành quả thật sự nhiều ý nghĩa. Mọi cảm nghiệm của chúng ta ngay lúc này được kết hợp thông suốt với một khả năng trí tuệ chín chắn. Ở trình độ này chúng ta chỉ có thể nói hoặc làm những gì thật sự là cần thiết. Nếu không thấy có gì cần thiết thì chúng ta đừng làm gì cả. Dĩ nhiên, nếu còn là phàm phu, chúng ta cũng vẫn thường xuyên mắc phải những sai lầm, nhưng chỉ cần kịp thời phát hiện được thì ta vẫn có thể sửa chữa bằng cách không tiếp tục để mình bị cuốn hút hay bị tác động bởi chúng nữa và chỉ việc cảm nhận chúng một cách như thật. Ðây chính là tâm điểm của pháp môn Thiền Quán.

-ooOoo-

Ðại đức Puriso

Ánh đuốc Phật-đà


Tiểu Sử:

Ðại Ðức Puriso (Bruce Evans) sanh năm 1951 tại Melbourne, nước Úc. Lúc còn trẻ, đại đức đã từng có duyên với nhạc nghệ và cũng đã thực hiện được một cuốn băng. Ðược hướng dẫn bởi một thiền sư Nhật Bản ở Melbourne, đại đức quyết định sang Nhật để học Thiền. Trong chuyến đi này, đại đức có ghé ngang Bangkok và gặp được các vị tỳ kheo người Tây Phương. Nhưng tâm hồn văn nghệ cũng như thói quen nghề nghiệp đã khiến đại đức tuy có cảm tình nhưng vẫn cứ chùn bước trước giáo lý Nam Tông, bởi theo giới luật truyền thống thì một nhà sư không được chơi nhạc. Ðổi lại, đại đức quyết định tham dự một khóa thiền Tứ Niệm Xứ ở Nong Khai. Trong những ngày tu thiền này, cây đàn Guitar của đại đức mang theo bị đánh cắp. Sự kiện này khiến đại đức bỏ ý định sang Nhật và cố gắng tìm cách thích nghi với đời sống ở Thái Lan để có thể tiếp tục ở lại đây .

Ðược nghe kể về thiền sư Ajahn Chah, đại đức đến viếng chùa Pah Pong rồi thọ giới tỳ kheo với Ngài (năm 1975). Năm 1982, đại đức đã cùng với Ngài Jagaro trở về Úc để xây dựng một ngôi chùa ở Perth. Sau đó đại đức trở về Thái. Hiện nay đại đức đang trụ trì chùa Wana Potiyahn (còn gọi là chùa Keurn), gần chùa Pah Pong, miền đất giáp với biên giới Lào - Campuchia. Ðại đức hiện cũng đang hoạt động để phục hồi các khu rừng đang bị tàn phá tại đây. Công trình này của đại đức đã được thông tin rộng rãi trên các đài truyền hình ở Thái Lan .

Bài viết dưới đây được dịch lại từ một thời pháp bằng tiếng Thái của đại đức Puriso vào mùa an cư năm 1987 vào một đêm thiền định tập thể vẫn được tổ chức hàng tháng vào hai ngày Bố Tát cho Tăng Ni và Phật tử tại các thiền viện ở miền Ðông Bắc Thái Lan. Nội dung của bài viết chỉ gồm trong một câu thôi: "Khi ta mang ánh sáng vào chỗ tối thì bóng tối sẽ biến mất. Và ta chỉ cần biết vậy thôi, không cần tìm hiểu xem cái bóng tối kia đã tồn tại ở đó bao lâu rồi."


Ánh Ðuốc Phật Ðà

Hôm nay, tất cả quí vị đã bỏ nhà để đến chùa góp mặt trong pháp hội này, phải nói đây là một cơ hội thật tốt để chúng ta tạm thời gác qua hết những chuyện đời và quay về sống phản tỉnh đối với bản thân. Nhưng tôi chỉ mới nói rằng quý vị đang có một cơ hội tốt, còn quý vị thì sao? Quý vị có ý thức được mình đang ở đâu và làm gì hay không? Ði vào chùa để vãn cảnh hay để tu học? Nếu để tu học thì quý vị đã bắt đầu chưa? Các vị hãy luôn nhớ rằng, một khi đã chấp nhận con đường tu học thì chúng ta nhất định phải cố gắng thế nào đó để tự khẳng định chính mình. Chúng ta không thể tu học như một hình thức chiếu lệ mà ngược lại phải luôn nhìn về phía trước để nhắm tới những tiến bộ. Chúng ta phải biết tu học một cách có lý tưởng, áp dụng Phật Pháp vào ngay chính đời sống của mình để từng sinh hoạt của bản thân được thực hiện dưới ánh sáng Phật pháp.

Ở đây, tôi có thể lấy ví dụ về trường hợp chúng ta đang là người trau dồi chánh niệm. Mỗi người hãy tự xét lại chính mình thử xem, trong một ngày chúng ta có được bao nhiêu giây phút sống trong chánh niệm, tỉnh giác? Chúng ta hãy học phép trau dồi chánh niệm bằng những giờ thiền định. Trước hết, ta có thể tập trung sự chú ý của mình vào từng hơi thở, trong đôi ba phút thôi, trước khi mình bị phóng tâm. Rồi nếu như thời gian đôi ba phút đó là quá dài thì chúng ta vẫn có thể ngồi yên lại đó cho thời gian trôi qua cũng được .

Ðối với một hành giả, ngồi yên lại trong một ý thức rõ ràng cũng đã là thiền định. Khi đã giữ vững được tư thế ngồi rồi thì chúng ta sẽ lại bắt đầu hít vào, thở ra bằng một sự ghi nhớ cẩn thận. Chỉ chừng đó thôi cũng đã là một phương thức phát triển khả năng chánh niệm và một khi khả năng này được thuần thục thì coi như chúng ta đã tự khẳng định được khả năng tu học của mình mà ở đây là khả năng chánh niệm .

Trong rừng thiền này, mọi điều kiện vật chất đều quá hạn chế. Ở đây chỉ có một phòng vệ sinh mà thôi. Vậy thì chúng ta phải tu học ra sao để có thể thích nghi với hoàn cảnh này? Chúng ta cũng thấy đó, những người có mặt ở đây mỗi ngày chỉ ăn một bữa. Ðó cũng là một trong những thực tập căn bản cho chúng ta. Trong rừng thiền luôn có người theo dõi chúng ta một cách chặt chẽ. Trong những ngày tu học tập thể này, từ buổi chiều, không ai trong số các thiền sinh đã phát nguyện không nằm, lại có thể ngả lưng. Lời nguyện đó là một quy tắc, ai cũng phát nguyện thì dù có ra sao cũng phải tôn trọng cho dù đau nhức đến mấy đi nữa. Ðây chính là khả năng tinh tấn rất cần thiết cho con đường tu học của mỗi người.

Thính pháp cũng là một pháp môn có giá trị đặc biệt. Ta nghe pháp để có thêm hành trang tu học. Một người chưa từng nghe gì về Phật pháp thì làm sao có thể biết được mình phải tu học như thế nào? Tư tưởng của chúng ta vẫn có khuynh hướng phóng tán và bị câu thúc, mắc níu vào trăm ngàn thứ chuyện đời, nhưng chính nhờ nghe được Chánh Pháp, chúng ta có thể đón nhận được những niềm vui kỳ diệu để dễ dàng buông xuôi hết những gì là rác rưởi không cần thiết. Nói vậy có nghĩa là nếu mỗi ngày chúng ta đều sống thực hành theo Phật pháp thì bản thân của chúng ta sẽ luôn được an lạc và con đường tu hành cũng trở nên dễ dàng hơn. Trong khi đó với một đời sống tách rời Phật pháp, chúng ta chỉ thường xuyên cảm nhận những đau khổ. Có thể nói tất cả những đau khổ trên đời đều đi ra từ một sự chấp thủ và chấp thủ đó chính là sợi giây trói buộc được nối kết lại bằng những khái niệm về cái gọi là Tôi, Của Tôi .

Dân số trên thế giới ngày càng đông đúc và quanh ta luôn có những người cần được chia xẻ nhiều thứ. Nhưng trên thực tế đã có được bao nhiêu người đã biết sống chia xẻ, đã có bao nhiêu người được chia xẻ? Ai cũng muốn sống gom thâu và nắm chặt bàn tay. Người ta xâu xé nhau để được tồn tại, để mình và những người thân được an toàn. Ngoài ra, họ không còn biết đến gì nữa. Nói một cách khác, nhân loại đang bị đau khổ một cách trầm trọng. Người ta bảo là mình điều hành đời sống nhưng thực ra đời sống đã điều hành trở lại họ. Tất cả những phức loạn trên toàn cầu cũng từ đó mà ra. Thôi thì đủ thứ: Bôi nhọ nhau, tranh cãi nhau, đánh nhau bằng đủ mọi hình thức ... Nói cho cùng, hầu hết nhân loại đã bị mù lòa cả rồi .

Giữa cảnh đời như vậy, chúng ta phải làm gì cho mình? Chúng ta phải biết lắng nghe Chánh Pháp và chuyên tâm thực hành những gì mình học hiểu được. Chúng ta phải biết tháo bỏ đi những đôi mắt kính chủ quan để có thể nhìn thẳng vào cuộc đời với ánh sáng của Chánh Pháp và đem ánh sáng ấy trở vào làm nguồn sáng cho chính nội tâm mình. Khi ta mang ánh sáng vào chỗ tối, bóng tối sẽ biến mất, còn chuyện bóng tối đã tồn tại ở đó bao lâu thì không phải là vấn đề để ta bận tâm, bởi lúc này nó đã được giải quyết. Trong câu nói trên đây, ánh sáng có nghĩa là trí tuệ hiểu biết mọi sự theo tinh thần và đường hướng của chánh pháp. Ta vẫn nhắc đến ánh sáng Phật pháp nhưng nói một cách cụ thể đó là gì? Khi ta biết bỏ đi những ngộ nhận về Tôi, Của Tôi rồi nhìn thấy đúng theo bản chất của chúng thì chính sự nhìn thấy này là nhãn quan trong ánh sáng Phật pháp .

Trong Phật giáo, chúng ta thường nghe nhắc về tám ngọn gió đời là Ðược, Mất, Khen, Chê, Vinh, Nhục, Hạnh Phúc, Ðau Khổ. Ðây là những gì mà con người vẫn bị chi phối. Con người gần như suốt đời cứ đi tìm những tài sản, danh vọng và dĩ nhiên không ai muốn bị chê bai hay bị mất mát một cái gì đó. Ðược cái mình thích, chúng ta hạnh phúc, gặp cái mình ghét thì chúng ta đau khổ. Bên cạnh những danh lợi thông thường, còn có một thứ khác cũng có thể khiến người ta phải cực lòng theo đuổi, đó chính là cái vị trí tinh thần của mình trong mắt người khác. Có những người không mấy thiết tha đến chuyện gia tài sự sản, mà họ chỉ hứng thú trong cái ước mơ có được một quyền lực, sức ảnh hưởng và chi phối đối với người khác. Chẳng hạn như các chính trị gia mà ta vẫn thường thấy, họ có thể bỏ ra bao nhiêu tiền cũng không tiếc, miễn sao chiếm được một sức mạnh chính trị và một chiếc ghế nào đó trên chính trường .

Nếu nhìn kỹ vào chuyện đời, thì chúng ta sẽ nhận ra rằng tám khía cạnh trên đây của đời sống thực ra chỉ là những gì được có mặt từ một Cái Tôi ảo vọng. Sự tu tập theo đúng lời Phật dạy chính là thái độ khước từ, chối bỏ Cái Tôi nghiệt ngã đó. Cố tình xây dựng một bản ngã thực ra là một nếp sống "ngược đời, trái đạo", bởi tự trong bản chất của các pháp không hề có một Cái Tôi nào cả và cuối cùng rồi, ngay trong giờ phút tắt thở chúng ta đều phải buông bỏ lại hết mọi thứ .

Tôi đã từng có dịp quan sát đời sống sinh hoạt của mấy con khỉ trong rừng. Chúng thỉnh thoảng vẫn thích chơi cái trò mà ta có thể tạm gọi là "lễ tôn vương của muông thú". Một con khỉ trong bầy leo lên cái gò cao nào đó rồi nhìn xuống như một ông vua đang ngự trên ngai. Lũ khỉ còn lại quây quần bên dưới, rồi leo trèo lên nhau và lại với tay níu kéo con khỉ đang ngồi trên kia. Thường thì những con khỉ muốn được "làm vua" như vậy đều là những con tinh nghịch và quái quỷ nhất trong bọn. Chúng luôn muốn chứng tỏ với bầy đàn cái "thần uy" của mình. Mà thật ra thì mỗi lần được "làm vua" như vậy, chúng đâu có được sung sướng gì, thậm chí còn cực thân hơn mấy con khỉ khác nữa. Chúng phải chống trả chật vật với cả bầy khỉ đang leo trèo lên mình chúng và kéo lôi chúng xuống khỏi cái gò kia. Như vậy xem ra thì mấy con khỉ không được làm vua lại còn sung sướng hơn nhiều bởi chúng có dịp vui đùa thỏa thích mà chẳng phải sợ mất mát cái gì hết .

Câu chuyện trên đây về mấy con khỉ rừng là cả một bài học cho chúng ta. Chúng ta hãy biết học cách "tự thu nhỏ mình lại". Thái độ sống đó không hề có nghĩa là một kiểu sống tiêu cực, thua cuộc một cách thiếu thông minh. Mà ngược lại, chúng ta hãy thu nhỏ mình lại bằng một tâm hồn khiêm tốn, vị tha, nhường nhịn và biết cảm thông .

Bốn giá trị tinh thần này có ý nghĩa là nâng cao chúng ta lên khỏi cái dòng đời thác loạn. Trong khi đó gần như rất hiếm có người biết nghĩ đến các giá trị này để tự xây dựng bản thân mình với một trình độ trưởng thành thật sự, mà ai cũng cứ thích tự xây dựng cho mình những tượng đài ảo tưởng. Ðức Phật gọi đó là nếp sống đi ngược lại với tự nhiên .

Như vậy, có thể nói rằng bất cứ con đường nào có thể giúp chúng ta loại bỏ được những khái niệm về Cái Tôi và Của Tôi thì đều là những pháp môn chính chắn, đều là con đường dẫn đến tịnh lạc. Nói vậy có nghĩa là càng buông bỏ được nhiều thứ thì chúng ta càng được hạnh phúc; và mọi sự chấp thủ, ôm ấp chỉ là con đường dẫn đến khổ đau. Cứ vậy mà nói, thì những ai chưa từng có dịp làm quen với Phật pháp sẽ rất khó mà chấp nhận được điều này. Bởi hầu hết chúng ta đều có khuynh hướng ôm ấp, nắm giữ. Có nhiều thứ trên đời được người ta cố thủ như thể chúng chính là bản thân của họ. Thái độ nắm bắt mù quáng đó gọi theo thuật ngữ Phật Giáo là "sự chấp thủ". Trong khi đó, nếu với một tinh thần xả bỏ thì chúng ta sẽ thấy được rằng những gì mình có được thật ra chỉ là một thứ sở hữu mang tính tương quan hết sức đơn giản và không hề có một chất keo ràng buộc nào ở đó cả. Vạn sự luôn tồn tại bằng vào những điều kiện trợ sinh nên khi những điều kiện ấy không còn nữa thì mọi sự sẽ tự biến diệt. Suy nghĩ về cuộc đời bằng cách hiểu như vậy chính là sự suy nghĩ trong ánh sáng Phật pháp. Thái độ suy nghĩ đó sẽ mang lại cho chúng ta một nếp sống tinh thần mới mẻ và bình yên. Chúng ta sẽ cảm nhận được từng sự rạn vỡ của lòng chấp thủ để từ đây, nội tâm của chúng ta cũng sẽ trở nên thanh thản, nhẹ nhàng hơn.

Việc chúng ta tìm đến tu học trong rừng thiền này không chỉ đơn giản là một cách lánh mặt tạm thời những gia sự phiền phức, mà chúng ta phải xem đây là một "cuộc về nguồn" đối với chính đời sống của mình để có thể nhìn thẳng vào mọi chuyện đời, chuyện lòng một cách rõ ràng hơn. Cũng những công phu tu học này, nhưng nếu chỉ được thực hiện tại nhà thì chúng ta có thể gặp phải ít nhiều khó khăn. Chỉ riêng việc tọa thiền hay kinh hành thôi cũng là một chuyện không dễ dàng. Trong khi đó, trong bối cảnh của một tu viện hay một thiền đường thì chỉ cần một sự dốc lòng đúng mức, ta luôn có thể được thoải mái và thanh thản. Chẳng hạn những khi ta bất chợt muốn được đi kinh hành một mình thì vẫn có thể yên tâm làm theo ý mình muốn một cách tự do mà không e ngại ai đó dòm ngó mình bởi trong bất cứ thiền đường nào cũng vậy, việc đi kinh hành của các thiền sinh luôn là một điều hết sức bình thường nếu không muốn nói đó là một trong những oai nghi cần thiết của bất cứ thiền sinh nào. Trí tuệ giác ngộ là thuộc cảnh giới nội tâm, nhưng bối cảnh thực tế để thực hiện nó thì vô cùng quan trọng. Chẳng hạn như nếu ta đi kinh hành giữa chỗ buôn bán, phố xá thì chắc chắn rằng thiên hạ chung quanh sẽ cho ta là người loạn trí, thậm chí họ còn có thể xúc phạm đến ta nữa! Như vậy, những thiền đường, tự viện luôn là những trú xứ lý tưởng để chúng ta có thể sống thư giãn, thiền định, tham khảo kinh sách hoặc tĩnh dưỡng tinh thần mà không sợ bị quấy rầy bởi bất cứ cái gì.

Việc thọ trì các học giới dĩ nhiên là một thứ công phu nhiều ý nghĩa bởi ít nhất đây cũng là một pháp môn rất khó thực hiện, nhất là đối với trường hợp bát quan trai giới. Chỉ cần thọ trì nghiêm túc tám học giới bát quan thôi, người Phật tử coi như đã có được nếp sống của một bậc xuất gia, nhất là trường hợp họ có cơ hội được lưu trú tại chùa, một không gian hết sức an lành và cách ly trọn vẹn với tất cả những tục sự đa đoan của đời sống cư sĩ. Có thể nói rằng nếu sống qua được hai mươi bốn giờ đồng hồ giữ tròn tám học giới thì xem như ta đã là một nhà sư trong chừng ấy thời gian. Ngược lại, việc thọ trì bát quan trai giới ngay tại gia đình thì phải nói rằng mọi sự sẽ không được như vậy nữa. Những ồn ào từ máy hát, ti vi, và khách khứa tới lui ... đều là những trở lực bất lợi cho đời sống nội tâm của chúng ta .

Hơn thế nữa, từng giây phút có mặt trong một rừng thiền như thế này, chúng ta sẽ có nhiều cơ hội thấm thía được những vấn đề hết sức thú vị, chẳng hạn như về sự đau khổ. Tinh thần và thể xác của mỗi người gần như luôn có sự tồn tại của sự đau khổ. Bổn phận của người hành giả chúng ta là thấu suốt bản chất của tất cả đau khổ. Chúng ta phải học hỏi để biết được cái gì đã gây tạo ra những đau khổ, hình thức xuất hiện của sự đau khổ cùng tất cả những gì có liên quan tới nó. Ðức Phật đã từng dạy rằng đau khổ là cái cần được liễu tri nhưng hầu hết con người chúng ta đâu có mấy ai muốn nhớ tới cái khổ chứ đừng nói gì đến việc liễu tri hay nhận thức nó. Gặp phải sự đau khổ, thường thì người ta chỉ nghĩ đến một việc duy nhất là trốn chạy nó mà không muốn nhìn thẳng vào nó. Những người như vậy không phải là những người Phật tử. Người Phật tử phải biết nhìn thẳng vào mọi vấn đề ngay khi chúng vừa xuất hiện để có thể tìm hiểu nhân tố nào đã gây tạo nên chúng .

Chẳng hạn như có một lần nào đó, do tình cờ ta làm phiền lòng người khác rồi bị họ phản ứng, ở đây có thể là một câu nói nặng lời. Nếu chúng ta biết cách lắng nghe một cách trung thực những gì họ nói, chúng ta sẽ nhận ra ở đó một sự thật hết sức thú vị. Sự nổi giận của con người chỉ đơn giản là thái độ phản ứng mang tính chống trả, tự vệ và được đặt cơ sở trên lòng sợ hãi, một nỗi sợ hãi hết sức sâu kín và tiềm ẩn trong tận đáy lòng mỗi người. Nếu chúng ta giữ được bình thản để đón nhận từng lời nói, ta sẽ thấy rằng họ đã nói đúng theo những gì họ muốn. Mọi rắc rối đến đây coi như đã tạm ổn, ít nhất cũng là về phía chúng ta.

Trong đời sống tu học của mình, càng giới hạn những "sự cố" thì chúng ta càng được yên lành. Nếu có một sự cố nào xảy ra ngoài ý muốn, ta cũng vẫn phải can đảm đối diện với nó bằng trí tuệ Phật pháp, với tất cả những khả năng thoải mái và khách quan nhất. Nhưng để có được một cái nhìn bằng trí tuệ Phật pháp thì không phải là chuyện dễ dàng. Bởi hãy nhớ rằng chúng ta vẫn còn đó quá nhiều những thói quen mang tính bản năng. Chính cái bản năng này đã khiến cho ánh sáng trí tuệ khó được thắp sáng lên. Chúng ta đâu có chịu nhìn ngắm mọi sự theo đúng bản chất của chúng mà lại thường có thói quen tô vẽ, nắn bóp chúng theo cách nghĩ bản năng cùng những giá trị mà mình vẫn áp đặt lên nó.

Chúng ta phải từng bước học hỏi Phật pháp để hoàn chỉnh bản thân mình cho ngày một vững vàng và độc lập hơn. Chúng ta phải học cách biến cái bản năng mù quáng thành ra cái bản lãnh đầy ý thức. Phật pháp đã cho ta nhiều bài học để sửa mình đó là Giới, Ðịnh, Tuệ. Giới và Ðịnh là những phương tiện tinh thần giúp ta ổn định tam nghiệp của bản thân (thân, khẩu, ý ). Nếu tam nghiệp không được huấn luyện thì đời sống của chúng ta cũng sẽ trở nên loạn động và như vậy, ta không thể nhìn thấy được mọi sự đúng như bản chất của chúng. Nói một cách khác, là chúng ta không thể nhìn thấy các vấn đề theo đúng tinh thần ánh sáng của Phật pháp. Chúng ta cần thiết phải thọ trì một cách nghiêm cẩn những pháp môn tu học mà Ðức Phật đã để lại cho người tìm đạo. Ðó là học giới, các hạnh Ðầu Ðà để tiết dục, một tấm lòng hào sảng, một bàn tay luôn biết mở rộng để san sẻ cho tha nhân những gì mình có. Ta có thể xem đây là những pháp môn để tu học. Những pháp môn này luôn mang lại cho ta một sức mạnh để vượt qua các trở lực trong đời sống và cuộc tu, đồng thời chúng cũng có ý nghĩa giúp ta thanh lọc nội tâm của chính mình nữa.

Bảo là vượt qua các trở lực nhưng chúng ta vượt qua bằng cách nào đây? Ðể trả lời câu hỏi này, tôi muốn lấy ví dụ về pháp môn bố thí. Bất luận là ta đem đến biếu tặng cho người khác một thứ vật chất nào đó hoặc hy sinh cho họ đôi chút thời gian, công sức - tất cả những hy sinh đó đều là những hình thức bố thí và chúng cũng đều là con đường giúp ta vượt qua các trở ngại tinh thần để thanh lọc nội tâm. Ta đừng bao giờ có một tính toán chật hẹp rằng mình hy sinh những thứ đó để được đi về thiên giới. Cứu cánh đó thật ra không có gì để được đảm bảo một cách tuyệt đối. Nếu ta bố thí mà vẫn có một đời sống hư đốn thì đường xuống địa ngục đối với chúng ta lúc này có thể sẽ gần hơn đường lên thiên giới. Như vậy tốt nhất là chúng ta hãy sống với một tâm hồn hào sảng không toan tính và nên hiểu rộng ý nghĩa của công đức bố thí để nhắm tới mục đích tẩy rửa tâm hồn. Thực ra, chúng ta có thể nhìn thấy được kết quả của từng hành động mà mình thực hiện ngay trong đời sống hiện tại, chứ đâu phải đợi đến một kiếp sống tương lai xa xôi nào đó. Nếu ta biết sống hy sinh cho người khác bằng tất cả thành ý và chân tình ngay trong chính giây phút thực hiện nghĩa cử hy sinh đó, ta cũng đã cảm nhận được một niềm hạnh phúc và an lành rồi. Ðây chính là thành quả trước mắt của pháp môn bố thí mà ta cần phải biết thưởng thức. Thái độ này xem ra còn hay hơn cái tư tưởng tù túng của một người bố thí mà chỉ biết ngóng đợi quả báo ở kiếp lai sinh .

Ðối với việc thọ trì các học giới cũng vậy. Nếu chúng ta giữ tròn các học giới bằng cách tất cả thành tâm, giữ giới trong một tinh thần hồn nhiên và khiêm tốn, thì ta sẽ cảm nhận được ở nội tâm mình một sức mạnh kỳ diệu lắm. Tâm hồn của chúng ta lúc đó sẽ trở nên dũng mãnh và kiên cố hơn. Với một tâm thái như vậy thì công phu thiền định nào cũng được trợ lực một cách hữu hiệu. Như vậy giới luật trong sạch cũng là một đoạn đường mà chúng ta phải đi qua trọng cuộc tu của mình .

Nói một cách rốt ráo thì những điều được nhắc đến trên đây chính là cái giá trị đào luyện ở các khu rừng thiền như thế này. Mỗi rừng thiền đều luôn tạo điều kiện cho ta biết cách tu học, áp dụng triệt để và hữu hiệu tất cả khả năng cải hóa của chúng ta, để ta có thể nhìn thấy được thành quả trước mắt của các nỗ lực tu học. Chỉ cần ta dàn xếp được nội tâm mình thì coi như cái phần thưởng cho mọi nỗ lực của chúng ta đã được bày sẵn ra đó. Như đã nói, chúng ta không nên tu học trong cái lý tưởng hướng vọng về một thành quả xa xôi nào đó ở tương lai, bởi vì ngay tại đây và bây giờ ta đã có thể nhìn thấy nó rồi. Tất cả các thiện sự tự chúng đã là một thành quả mà điều này có lẽ chẳng được mấy người nhận thức nổi. Thậm chí, suy nghĩ của thiên hạ có khi còn tệ hại hơn, có kẻ đã đem ghép chung việc đi chùa với công chuyện làm ăn của Phật tử thâm niên rồi ngây thơ và hàm hồ phủ nhận tất cả ý nghĩa tinh thần trong việc đến chùa tu học của những người mộ đạo. Phải nói rằng đây là cả một sự ngộ nhận hết sức nghiêm trọng. Bởi bất cứ giây phút nào ta thực hiện các thiện hạnh thì cũng có nghĩ là ngay trong khoảnh khắc đó người ta đang sống trong cảnh giới của thiện hạnh. Quả báo của từng hành động lớn nhỏ cũng luôn gắn liền với nó. Nhân và Quả ở đây tương quan nhau một cách vô cùng mật thiết. Ðiều này không chỉ là trường hợp cá biệt đối với ác pháp hay thiện pháp. Có lắm lúc chúng ta thấy nhiều người luôn sống tội lỗi nhưng không có vẻ gì là bị đau khổ từ đời sống tội lỗi của họ. Rồi ta lại nông nổi cho rằng các ác nghiệp không có hậu quả. Phải nói đây là một cái nhìn vô minh .

Phật giáo vẫn dạy chúng ta rằng: "làm thiện gặp lành, làm ác gặp dữ". Tiêu ngữ đó không phải là lý thuyết suông hay một lời rao giảng mang ý nghĩa răn đời như một giáo điều bình thường để kêu gọi nhân loại thay đổi nếp sống ngoài xã hội. Câu giáo lý đó thật ra có ý nghĩa hết sức thâm trầm, sâu sắc là đưa người Phật tử đến với cái trí tuệ khám phá đời sống. Chính những hành động đã quy động nhân cách của chúng ta. Chúng ta có là một tướng cướp, gái làm tiền, kẻ lừa đảo, tên khát máu ..., tất cả đều xuất phát từ từng hành động, ngôn ngữ và suy nghĩ của chúng ta. Cho nên Ðức Phật đã dạy rằng "Mỗi chúng sinh đều là chủ nhân ông tự chịu trách nhiệm về những hạnh nghiệp của mình".

Dĩ nhiên, bên cạnh cái hậu quả căn bản ngay trong hiện tại như vừa nói trên, các nghiệp thiện ác còn để lại những hậu quả về sau mà thời gian thì luôn bất định. Chẳng hạn như khi ta đánh cắp của ai đó một số tài sản lớn rồi tiêu xài sung sướng trong một thời gian nào đó, cuối cùng khi sự việc bị phát hiện, tất cả những cảm giác khoái lạc có được từ hành động bất chính kia lúc này không còn nữa và bị thế chỗ bằng những trừng phạt thích ứng. Ðó là chưa kể đến cái ác báo trong kiếp lai sinh. Có tĩnh tâm thiền định, ta sẽ thấm thía tất cả những gì là quy luật nhân quả trong từng hành động lớn nhỏ .

Lần đó, tại nước Úc, tôi và đại đức Jagaro đến phi trường Perth và đang đợi làm thủ tục hải quan, thì gặp được một người đàn ông. Ông ta vừa uống xong một ít rượu nhưng điều đặc biệt là qua cung cách chuyện trò thì lại có vẻ như một nhà tư tưởng. Nhìn thấy chúng tôi, ông đã lập tức đặt ra những câu hỏi về đạo Phật. Chúng tôi đã trả lời cho ông một cách nhiệt tình. Khi chúng tôi đang nói, ông đột nhiên hỏi một câu:

- Có phải là các vị luôn tôn kính Ðức Phật?

- Vâng, điều đó dĩ nhiên rồi!

- Người ta đã kể cho tôi nghe rằng Ðức Phật là một con người cao khiết luôn có một đời sống gương mẫu, chẳng hạn như sẵn sàng hy sinh bản thân cho người khác và được cả thế giới tôn kính như một bậc hiền giả vĩ đại. Nhưng cuối cùng rồi thì Ngài cũng qua đời phải không?

- Ðúng như vậy!

- Các vị có đồng ý với tôi là những kẻ tàn bạo như Hitler chẳng hạn, tàn sát biết bao người, gây đau khổ cho hàng triệu người trên thế giới rồi cuối cùng cũng chết đi phải không?

- Ðúng như vậy!

- Vậy thì đâu có sự khác biệt nào trong cái chung cuộc của những người đại hiền với những kẻ đại ác?

- Ðúng là cuối cùng rồi thì ai cũng phải chết cả - Tôi thong thả trả lời ông ta - Nhưng điều đó không có nghĩa là mọi sự giống nhau. Ðức Phật luôn hiểu rất rõ về cái chết. Cả đời của Ngài là những ngày tháng hoàn toàn tỉnh thức để thấu suốt về hai tiếng Sinh Tử. Trong những giây phút cuối cùng trên giường chết, Ðức Phật vẫn bình thản và tỉnh táo, không phân vân nghi hoặc, cũng không tiếc nuối hay sợ hãi. Ngài là một người đã có được đời sống Như Thật, sống đúng với chân lý một cách hoàn thiện nhất . Còn Hitler hay những kẻ giống như ông ta thì theo một cách nào đó, chẳng hiểu được gì về cái chết. Hitler đã sống trong sợ hãi và thác loạn. Hạng người đó coi như đã bị mù lòa trước bóng tối của những đau khổ và tất cả những gì là chân lý trong đời. Ðó cũng là lý do khiến Hitler mù quáng lao vào tất cả những tội ác kinh khủng nhất. Hitler sống trong khủng hoảng rồi cũng chết đi trong ngộ nhận và bóng tối. Cuộc đời của Hitler chỉ có bóng tối và lỗi lầm. Như vậy, con người luôn giống nhau ở điểm là đã trót sinh ra thì phải có ngày nhắm mắt xuôi tay nhưng hoàn toàn khác nhau ở cách sống và cách chết. Người thì luôn sống và chết trong sự hiểu biết, có kẻ lại chỉ có thể sống và chết mà không có nổi một nhận thức nào hết ...

Câu chuyện nhỏ trên đây là cả một vấn đề vô cùng quan trọng mà tất cả những người tu Phật nhất thiết phải thấm thía nó bằng trọn vẹn khả năng của mình. Chúng ta đã có hiểu gì về ý nghĩa của chữ "Phật"? Phật có nghĩa là sự hiểu biết hoặc Người Hiểu Biết. Ðạo Phật là một hệ thống giáo lý đòi hỏi ở các giáo đồ cái khả năng Hiểu Biết, hiểu biết về bản chất Như Thật của vạn sự, vạn vật.

Tuệ giác của Ðức Phật và chư vị Thánh đệ tử, nói cho cùng, chính là sự hiểu biết tận tường về bản thân mình. Nếu muốn trở thành một người Phật tử đúng nghĩa thì điều bắt buộc là chúng ta phải học cách nuôi lớn khả năng hiểu biết đó ở chính mình. Sự hiểu biết này không hề giống như bao thứ kiến thức thế tục thông thường khác vốn chỉ là một mớ hỗn độn những dữ kiện thông tin cùng các lập trường tư tưởng chữ nghĩa. Tôi nhắc lại, sự hiểu biết cần có ở đây chỉ đơn giản là sự hiểu biết về chính bản thân mình.

Trong bất cứ phút giây nào xây dựng được ở nội tâm mình công phu tu tập đó thì coi như ta đang trồng một cây Bồ đề ngay trong chính tâm hồn mình. Tất cả những phiền não trở lực rồi cũng sẽ thành ra những thứ phân bón vun xới cho cội cây Bồ đề đó, cội cây của trí tuệ giác ngộ. Chúng ta rồi cũng có thể tận dụng các phiền não để làm đối tượng tri nhận cho đời sống tỉnh thức. Qua từng biến dịch của từng dòng tư tưởng ta sẽ thấy rõ được đặc tính của những tham lam, sân hận và si mê.

Chẳng hạn như khi một cơn giận dữ xảy đến, ta hãy trung thực ghi nhận sự xuất hiện của nó mà đừng bao giờ tự dối lòng bằng một suy nghĩ khác hay một câu nói nào đó rập khuôn theo kinh điển: "Ðâu phải tôi đang giận dữ, cái tâm trạng đó đơn giản chỉ là một thứ rác rưới, một con mèo hoang thôi mà!". Trong những cơn giận dữ, chúng ta thường khi tự đánh mất nhận thức về nó bởi vì cứ mãi lo bận tâm hướng về cái đối tượng đã chọc giận mình mà ít khi chịu nhìn ngắm lại nội tâm bản thân. Ðó cũng là một cái thói quen xấu của chúng ta. Luôn nhìn ra mà chẳng mấy khi chịu nhìn vào!

Ðức Phật đã từng dạy rằng tất cả những đối tượng ngoại vi thật ra chẳng có ý nghĩa gì, điều quan trọng là chúng ta phải tự biết cách đón nhận và xử lý nội tâm mình bằng một trí tuệ quán sát. Chúng ta hãy học cách nhận diện và nhìn ngắm từng thứ phiền não khi chúng đi qua lòng mình, xem mình có cảm giác gì trước sự xuất hiện của chúng. Làm được điều đó, có nghĩa là ta đã nhìn thấy được mọi sự qua ánh sáng của Phật pháp. Vấn đề xem ra cũng không có gì là khó hiểu và xa vời cho lắm: Khi ta hiểu được một cách chính xác cái bản chất gây khổ của các phiền não thì ta cũng dần dần giải quyết được chúng. Nhưng đến đây, thì chúng ta lại phải trả lời một câu hỏi khác: tại sao tất cả chúng ta vẫn biết các phiền não là cội nguồn của đau khổ mà vẫn tiếp tục ôm giữ nó?

Câu trả lời cũng đơn giản thôi: Nói thì dễ mà làm thì mới khó. Nhưng chẳng sao hết, vì những thời pháp thoại sẽ giúp đỡ chúng ta các hướng dẫn và nâng bước cho chúng ta vào đường tu. Cho dầu hành trình đó có gian khổ đến mấy nhưng trong từng phút giây nỗ lực đưa mình ra khỏi những ràng buộc của nội tâm thì chúng ta cũng đã là những Phật tử đúng nghĩa rồi .

Mấy ngày qua, trời không có mưa. Ði kinh hành khắp rừng thiền, tôi cứ thấy như cây cối ở đây đang dần dần muốn chết khô. Nhưng hôm nay trời đã mưa trở lại. Các vị có thấy không, lũ ếch nhái cứ nhảy tới lui và kêu vang như hạnh phúc lắm vậy. Trong rừng thiền này có mấy vũng nước cạn cho bọn chúng tha hồ rong chơi và rất có thể ngay trong lúc này chúng chỉ đơn giản tin tưởng rằng mấy vũng nước đó sẽ mãi mãi đầy tràn mà đâu hề biết là chỉ nay mai thôi, khi trời không còn mưa nữa, những ngày nắng sẽ kéo dài và chúng rất có thể sẽ bị chết đi khi mấy vũng nước kia bắt đầu khô nứt.

Cuộc đời của chúng ta đâu có khác gì lũ ếch nhái đó. Khi những điều kiện sống thoải mái chưa bị xâm phạm thì ai cũng có thể thấy mình tràn trề hạnh phúc. Rồi đến lúc mọi sự đổi thay, thì chắc chắn nếp sống của chúng ta cũng bị thay đổi theo. Chúng ta có hiểu là từng người trên thế giới này phải luôn sống lệ thuộc vào thiên nhiên nhưng có mấy ai đã nhận ra điều đó. Hầu hết chúng ta cũng giống như đám ếch nhái bé nhỏ kia thôi. Tâm sinh lý của con người cũng là một phần trong tạo hóa thiên nhiên. Chúng ta đi ngược lại với thiên nhiên cũng có nghĩa là chúng ta đang tự hủy diệt chính mình. Chúng ta không ai có thể sống chối bỏ qui luật thiên nhiên mà ngược lại phải biết sống hài hòa với nó. Chống lại thiên nhiên là đồng nghĩa với tự sát .

Ðến đây thì tôi xin kết thúc thời pháp thoại. Tôi hy vọng rằng một số điều tôi đã đề cập có thể được quí vị ứng dụng. Hay ít nhất các vị cũng có thể lấy đó làm một đề tài để trở về tự kiểm nghiệm rồi nếu được, áp dụng chúng vào cuộc tu của bản thân bằng chính trí tuệ của mình./.

-ooOoo-

 

Tiếp theo


[Ðầu trang][Trở về Mục lục]Trở về trang Thư Viện]

updated: 2009